Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Quan điểm đánh giá về tư tưởng biện chứng của triết học hy lạp cổ đại và đóng góp của triết học hy lạp cổ đại đối với sự phát triển lịch sử triết học của nhân loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.77 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM........................................................2
1.1. Giới thiệu về triết học Hy Lạp cổ đại.............................................2
1.1.1. Bối cảnh ra đời về triết học Hy Lạp cổ đại.................................2
1.1.2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại.........................................2
1.2. Tư tưởng biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại........................3
1.2.1. Phép biện chứng khách quan.......................................................3
1.2.2. Phép biện chứng chủ quan...........................................................4
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM VỀ TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG CỦA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ ĐÓNG GÓP CỦA TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI.........................................................................................7
2.1. Đánh giá về triết học Hy Lạp cổ đại...............................................7
2.1.1. Phép biện chứng khách quan.......................................................7
2.1.2. Phép biện chứng chủ quan.........................................................10
2.2. Đóng góp của triết học Hy Lạp cổ đại đối với sự phát triển lịch
sử triết học của nhân loại......................................................................13
2.2.1. Đóng góp của triết học Hy Lạp cổ đại về thế giới quan............13
2.2.2. Đóng góp của triết học Hy Lạp cổ đại về nhận thức luận........15
KẾT LUẬN....................................................................................................17

i


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Hành trang cuộc sống của mỗi người ln ln cần tới những tri thức,
trí tuệ sâu sắc. Thế giới quan và phép biện chứng là thứ khơng thể thiếu được
trong hành trang trí tuệ ấy của mỗi người. Nó là cái cần phải được từng người
tự học hỏi, chăm lo, đổi mới để có thể nhìn, hiểu và làm theo những luận
điểm tổng quát góp phần như một chiếc la bàn định hướng cuộc sống, làm


cho cuộc sống thêm hiệu quả, hạnh phúc và thành đạt. Bài viết này làm rõ
khái niệm phép biện chứng duy vật, các thành phần của nó, ý nghĩa/ vai trị
của nó, nguồn tư liệu để xây dựng thế giới quan và nhu cầu xây dựng một thế
giới quan hiện đại.
Năng lực tư duy hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội lịch sử của con người; trình độ tư duy của con người, do đó phụ thuộc vào
năng lực và trình độ thực tiễn của họ. Song, tư duy cũng thâm nhập vào thực
tiễn và chỉ đạo thực tiễn của con người; những đổi mới và phát triển diễn ra
trong tư duy, vì vậy có tác dụng mở đường, định hướng cho những đổi mới và
phát triển của con người trong hoạt động thực tiễn. Do đó, qua q trình học
tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “ Quan điểm đánh giá về tư tưởng
biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại và đóng góp của triết học Hy Lạp
cổ đại đối với sự phát triển lịch sử triết học của nhân loại” để có cái nhìn
sâu và rộng hơn về vấn đề.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Giới thiệu về triết học Hy Lạp cổ đại
1.1.1. Bối cảnh ra đời về triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VI TCN khi chế độ chiếm hữu nô lệ
được xác lập trên cơ sở phát triển của kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và
thương nghiệp. Sự phát triển kinh tế thúc đẩy sự ra đời, phát triển của khoa
học và triết học.
Nhà nước Hy Lạp xuất hiện dưới hình thức các quốc gia thị thành
(thành bang); xã hội phân chia thành hai giai cấp đối lập là chủ nô và nô lệ.
Cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển của các
khuynh hướng triết học.
1.1.2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại

Triết học Hy Lạp cổ đại là ngon cờ lý luận của giai cấp chủ nô, ngay từ
đầu đã mang tinh giai cấp sâu sắc. Về thực chất, là thế giới quan,ý thức hệ của
giai cấp chủ nô thống trị, là công cụ lý luận để duy trì và bảo vệ trật tự xã hội
đương thời, phục vụ cho giai cấp chủ nô.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn chặt với khoa học tự nhiên, lấy giới tự
nhiên làm đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, nó thuộc loại hình triết học tự nhiên,
nhà triết học đồng thời là nhà khoa học tự nhiên; muốn hiểu biết sâu sắc nền
triết học này cần phải có tri thức khoa học tự nhiên vững chắc.
Thế giới quan bao trùm triết học Hy Lạp cổ đại là duy vật và vô thần.
Triết học duy tâm và cuộc đấu tranh của họ chống lại triết học duy vật thường
diễn ra, song chủ nghĩa duy vật và thế giới quan vô thần ln chiếm ưu thế;
nó là vũ khí lý luận cần cho giai cấp chủ nô chống lại những thế lực chống
đối, những điều mê tín, dị đoan và những điều vô lý trong thần thoại.
2


Phép biện chứng tự phát, ngây thơ ra đời và phát triển trong triết học
Hy lạp cổ đại cùng với chủ nghĩa duy vật mộc mạc, chất phác và thành tựu
của khoa học tự nhiên là đặc điểm nổi bật của lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại.
Ngay từ đầu, sự ra đời của triết học Hy Lạp đã gắn bó chặt chẽ với thực tiễn,
xuất phát từ nhu cầu phát triển của nhận thức khoa học và kỹ thuật, gắn liền
với quá trình ra đời và phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp, chứa
đựng mầm mống của hầu hết các thế giới quan sau này
Thành tựu nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện ở việc nó là “
mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”,
đáng kế nhất là sự ra đời của chủ nghĩa duy vật mộc mạc, chất phác và phép
biện chứng tự phát, ngây thơ- những hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng trong lịch sử triết học nhân loại. Vì vậy, nó gắn chặt với
tên tuổi và sự nghiệp của các nhà triết học: Talét (khoảng 624- 547 TCN),
Đêmơcơrít (khoảng 460-370 TCN), Plantôn (427-347 TCN): Arixtốt (384322 TCN), Êpiquya (341- 270 TCN),…

1.2. Tư tưởng biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại
1.2.1. Phép biện chứng khách quan
Khi phản ánh tính chất biện chứng của tự nhiên, xã hội và tư duy, phép
biện chứng khách quan tự phát đó của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại thường
tồn tại dưới hai loại hình cơ bản:
1) Phép biện chứng khẳng định - khẳng định và phân tích các quy luật
biện chứng khác nhau trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy;
2) Phép biện chứng phủ định (mang tính chất tiêu cực) - phủ định tính
chân lý của những cái mà trong đó, tính mâu thuẫn nội tại bộc lộ ra.
Vốn là thuộc tính bẩm sinh của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, phép
biện chứng khách quan tự phát xuất hiện ngay từ khi nền triết học này xuất
hiện ở các nhà triết học tự nhiên thuộc trường phái Milê. Với tư cách phép
3


biện chứng khẳng định, nó được thể hiện rõ nhất ở Hêraclít; cịn với tư cách
phép biện chứng phủ định, nó được thể hiện ở trường phái Êlê.
Mặc dù có thể phân biệt phép biện chứng Hy Lạp cổ đại theo hai nghĩa
đó, nhưng thực ra, hai nghĩa này khơng tuyệt đối biệt lập, tách rời nhau. Ngay
từ khi bắt đầu xuất hiện, chúng đã có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại
với nhau. Hơn nữa, nghệ thuật tranh luận nhằm phát hiện và chứng minh chân
lý ngày càng thể hiện ra là khả năng nhận thức đối tượng trong những tính
quy định đối lập nhau và vốn có ở nó, khả năng quy những tính quy định đó
về một cái thống nhất, khả năng phát hiện ra sự thống nhất của các mặt đối
lập, tức là ngày càng trở thành phương pháp nhận thức biện chứng về tự
nhiên, xã hội và tư duy. Và, đương nhiên, kể từ thời Xôcrát, nhiều nhà triết
học Hy Lạp cổ đại đã phát triển phép biện chứng theo cả nghĩa này lẫn nghĩa
kia.
Trước khi tìm hiểu một cách khái quát các loại hình, các dạng cơ bản
của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại, chúng tôi muốn lưu ý

một nguyên tắc mà chúng tôi đã tuân theo trong bài viết này - nguyên tắc về
sự lựa chọn tài liệu. Tài liệu cho bài viết này được xác định bởi sự thay đổi
tiêu chí phân biệt phép biện chứng và phép siêu hình. Chẳng hạn, Đêmơcrít
chủ trương truyền bá tư tưởng về sự xuất hiện, phát triển và diệt vong của vô
số thế giới trong Vũ trụ bao la với tư cách một tổ hợp các quá trình liên kết.
Ơng cho rằng, sự biến đổi các q trình liên kết đã được hình thành và sự
phân hủy của chúng diễn ra cùng với những nguyên tử bất biến và chỉ khác
nhau về phương diện hình học - hình thức, trật tự, tư thế. Trước khi xuất hiện
quan niệm này của Đêmơcrít, trong triết học Hy Lạp cổ đại đã có một quan
niệm biện chứng về thế giới, đối lập với quan niệm về tồn tại không thể phân
chia được, bất biến và bất động của trường phái Êlê.

4


1.2.2. Phép biện chứng chủ quan
Phù hợp vói cơ sở vũ trụ luận của phép biện chứng khách quan này là
biện chứng của q trình nhận thức, cái mà có thể gọi một cách ước lệ là phép
biện chứng chủ quan. Tuy nhiên, khi nói tới phép biện chứng chủ quan này,
chúng ta cần phải phân biệt nó với biện chứng của các khái niệm đã được
thực thể hóa. Biện chứng chủ quan hay biện chứng của quá trình nhận thức
chủ yếu nằm trong những suy luận của Hêraclít về sự tương tác giữa cảm giác
và tư duy, trong các phỏng đốn được coi là sáng suốt của Đêmơcrít về tính
chế định lẫn nhau giữa nhận thức “mờ tối” (nhận thức theo dư luận) và nhận
thức “trong sáng” (nhận thức chân lý), cũng như trong những lời tiên tri của
Anaxago về khả năng nhận thức thông qua các mặt đối lập. Đây cũng được
coi là một đóng góp lớn của các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại.
Trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, dường như đồng thời với phép
biện chứng khách quan (tích cực), loại hình thứ hai của tư tưởng biện chứng
cổ đại - phép biện chứng phủ định (tiêu cực) cũng đã xuất hiện. Bản thân các

nhà triết học Hy Lạp đã gọi phép biện chứng này theo nghĩa thứ hai của phép
biện chứng cổ đại - nghệ thuật đàm thoại, tranh luận triết học. Họ sử dụng các
cuộc đàm thoại, tranh luận triết học như một nghệ thuật để thông qua sự xung
đột giữa các ý kiến trái ngược nhau mà phát hiện ra chân lý, và gọi đó là nghệ
thuật phát hiện và chứng minh chân lý. Cùng với quá trình phát triển của triết
học Hy Lạp cổ đại, phép biện chứng theo nghĩa này cũng đã trở thành phương
pháp nghiên cứu các vấn đề khoa học, trong đó có cả các vấn đề triết học.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, Dênông - nhà triết học thuộc trường
phái Êlê được coi là người đầu tiên sử dụng phép biện chứng theo nghĩa này.
Cũng theo cách hiểu đó, Điơgien Lắcxơ và Arixtốt đã gọi Dênông là người
khởi xướng phép biện chứng. Tuy nhiên, dưới một hình thức hồn tồn rõ nét,
thì phép biện chứng theo nghĩa này chỉ được thể hiện ra ở Xôcrát.

5


Trên thực tế, loại hình này của phép biện chứng đã được phát triển bởi
các nhà triết học mà xét về các định hướng phương pháp luận, lại là các nhà
siêu hình. Tuy nhiên, trong quá trình luận chứng để phát triển nghệ thuật đàm
thoại, tranh luận triết học và nhờ đó, chỉ ra những mâu thuẫn trong các học
thuyết của các nhà triết học siêu hình, các nhà triết học duy vật - các nhà biện
chứng khách quan, cũng đã cố gắng vạch ra những hạn chế trong bức tranh
duy vật về thế giới và trong nhận thức của các nhà biện chứng khách quan về
những thuộc tính của thực tại khách quan. Do vậy, những nghịch lý nổi tiếng
mà Dênông đưa ra đã làm cho Hêgen phải thán phục tới mức khẳng định
rằng, Dênơng chính “là người khởi xướng phép biện chứng”. Ơng viết: “Ở
Dênơng, chúng ta cũng tìm thấy một phép biện chứng thật sự khách quan”;
rằng “những antinơmi của Cantơ “khơng phải là cái gì khác hơn cái mà
Dênơng đã làm ở đây”(11). Thậm chí, Hêgen cịn coi những luận điểm, quan
niệm của Dênơng về vận động là sâu sắc và “tinh vi hơn rất nhiều” so với

antinômi của Cantơ.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, phép biện chứng phủ định còn được coi
là tổng thể những lập luận có tính ý hướng nhằm chống lại bản thân sự thực
về tính đa nghĩa, đa dạng, về sự vận động, biến đổi và về sự phát triển,
chuyển hóa của sự vật từ trạng thái này sang trạng thái khác. Song, các lập
luận đó, theo V.I.Lênin, về thực chất, chỉ đặt ra vấn đề “thể hiện” các quá
trình khác nhau “trong lơgíc của những khái niệm” như thế nào(12). Do vậy,
có thể nói, chính các lập luận đó đã làm bộc lộ các mâu thuẫn của quá trình
nhận thức và ở một chừng mực nhất định, của cả đối tượng nhận thức, tức là
những mâu thuẫn của bản thân các quá trình và những trạng thái được nhận
thức. Phép biện chứng thường được coi là tiêu cực này trong triết học Hy Lạp
cổ đại đã được Hêgen vạch ra, song nó chỉ được đánh giá một cách sâu sắc
trong lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin.

6


CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM VỀ TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG CỦA
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ ĐÓNG GÓP CỦA TRIẾT
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
2.1. Đánh giá về triết học Hy Lạp cổ đại
2.1.1. Phép biện chứng khách quan
Có thể nói, mọi loại hình, mọi dạng cơ bản của tư tưởng biện chứng
đều đã được phác họa rõ nét trong lịch sử phát triển của phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại. Nó được bắt đầu từ những tư tưởng biện chứng tự phát, mang
“tính nhân hình” trong các câu chuyện thần thoại và sau đó là trong những tư
tưởng biện chứng rõ nét hơn, sâu sắc hơn trong các tác phẩm của các nhà triết
học ở thời kỳ Hy Lạp hóa. Điều này chứng tỏ rằng, tư tưởng biện chứng cổ
đại đã phân định được tất cả các loại hình của phép biện chứng mà sau đó,
được phục hồi ở thời Phục hưng và đặc biệt, đã được phát triển một cách rõ

nét ở thế kỷ XIX dựa trên một số thành tựu của phép biện chứng ở thế kỷ
XVII- XVIII. Đó là những hình thức sau đây:
Thứ nhất, đó là phép biện chứng khách quan tự phát, phép biện chứng
được hình thành trong quan niệm về Vũ trụ ở các nhà duy vật thuộc xứ Iôni
và đạt đến sự phát triển đáng kể ở Anaxago, Đêmơcrít và đặc biệt là ở
Hêraclít, ở những người mà, như V.I. Lênin nhận xét, “biểu tượng và tư
tưởng, sự phát triển của cả hai, nil aliud (khơng có gì khác)” và “đối tượng thể
hiện như là biện chứng”(5). Sau đó, nó được hình thành với sự bổ sung thêm
các đặc trưng mới trong học thuyết của Arixtốt về sự chuyển hóa lẫn nhau của
các sự vật khi chuyển từ dạng tiềm năng thành hiện thực và ngược lại, trong
quan niệm về Vũ trụ của trường phái Xtơíc, trong thế giới quan ngun tử
luận của Êpiquya. Đây được coi là loại hình biện chứng cơ bản, vì “theo
nghĩa đen, phép biện chứng là sự nghiên cứu mâu thuẫn trong ngay bản chất
của các đối tượng”(6).

7


Thực ra, sau Arixtốt và Êpiquya, do một cuộc “tổng khủng hoảng” về
tư tưởng bắt đầu diễn ra trong nền văn hóa cổ đại nói chung, trong triết học
Hy Lạp cổ đại nói riêng, cái được gọi là học thuyết về phép biện chứng khách
quan đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu và khi đó, đã xuất hiện q trình “phân
đơi” độc đáo của chúng. Điều đó được thể hiện ở chỗ, bên cạnh việc loại trừ
một cách riêng biệt các phỏng đoán và những luận điểm biện chứng khách
quan đích thực, trong chủ nghĩa Platơn mới đã hình thành phép biện chứng
khách quan giả tạo. Phép biện chứng này được thể hiện qua các nghịch lý và
những mâu thuẫn nhận thức của Pirôn và Enêxiđem, thông qua những “sơ đồ
luận” về Vũ trụ mang tính thần bí hóa của Plơtin và Prơclơ. Khuynh hướng
“thối bộ” này của phép biện chứng khách quan đã đưa tư tưởng biện chứng
cổ đại tới tình trạng tự gạt bỏ, mặc dù sau này, chủ nghĩa Platơn mới đã khơi

phục lại nó ở thời đại Phục hưng.
Các luận điểm riêng biệt của phép biện chứng đã được đặt lên hàng đầu
một cách đủ xác định trong phép biện chứng khách quan tự phát của các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại và mối liên hệ nội tại giữa chúng cũng đã được chính
các nhà triết học này vạch ra. Sự hiện diện của mối liên hệ này sở dĩ có được
trong phép biện chứng cổ đại là nhờ trực giác (“sự quan sát trực tiếp”) - cái
được coi là “thiếu sót của triết học Hy Lạp”, do “chưa đạt tới trình độ mổ xẻ,
phân tích giới tự nhiên”, do “hãy cịn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh
thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy”, cái mà do vậy, “sau này, nó
buộc phải nhường chỗ cho các cách nhìn khác”. Nhưng đó cũng chính là “ưu
điểm của nó so với tất cả các địch thủ siêu hình sau này của nó”, là cái mà “về
tồn thể”, đã làm cho triết học Hy Lạp cổ đại “đúng hơn so với chủ nghĩa siêu
hình”(7). Chính vì vậy mà Ph.Ăngghen nhận xét rằng, tư tưởng của các nhà
duy vật Hy Lạp cổ đại đã thừa nhận “tính thống nhất trong sự mn vẻ vô tận
của những hiện tượng thiên nhiên là một điều dĩ nhiên và tìm sự thống nhất ấy

8


ở một vật hữu hình nào đó, ở một vật đặc biệt nào đó, như Talét, ở nước
vậy”(8).
Sau khi phát triển phép biện chứng khách quan, các nhà triết học duy
vật Hy Lạp cổ đại đã mô tả hiện thực trong sự biến đổi liên tục của nó. Và,
một số nhà triết học trong số đó đã đề cập tới mối quan hệ biện chứng khá
phức tạp và sâu sắc giữa quá trình phát triển theo hướng tiến lên và q trình
phát triển mang tính ln hồi trong Vũ trụ. “Những nhà triết học vận động”, những môn đệ của Hêraclít, đã cố gắng phát triển luận điểm về sự thay thế
phổ biến giữa các trạng thái của sự vật và về sự chuyển hóa lẫn nhau giữa tồn
tại và khơng tồn tại. Hơn nữa, Hêraclít - người sáng lập ra khuynh hướng tư
duy này, cũng như Đêmơcrít đã đề cập đến mối quan hệ biện chứng, đến sự
thống nhất giữa tính biến đổi phổ biến và tính ổn định tương đối của các sự

vật và trạng thái của chúng. Những kết luận mà các nhà triết học Hy lạp cổ
đại rút ra được khi xem xét vấn đề này, như Ph.Ăngghen nhận xét, là “những
kết quả khổng lồ của người Hy Lạp”(9).
Với việc phát hiện ra các mối liên hệ và quan hệ phổ biến trong Vũ trụ,
phép biện chứng khách quan của người Hy Lạp cổ đại đã sớm đạt tới đỉnh cao
của nó trong học thuyết của Hêraclít về sự đấu tranh phổ biến và sự thống
nhất của các mặt đối lập, cịn dưới một hình thức chất phác hơn- ở
Empêđơclơ. Được các nhà triết học đó sử dụng, các khái niệm “đấu tranh” và
“hài hòa”, “thù địch” và “tình bạn”, “chiến tranh” và “hịa bình” vẫn chưa
tách khỏi cơ sở “nhân hình” và ngữ nghĩa thường nhật của chúng và do vậy,
còn bao hàm nhiều cái chưa rõ ràng, thậm chí cịn có phần bị lu mờ và khơng
chính xác. Song, trong các khái niệm đó và trong mối liên hệ qua lại giữa
chúng đã có hạt nhân của phép biện chứng theo nghĩa duy vật của nó. Cần
phải nhấn mạnh rằng, Hêraclít đã cụ thể hóa sự tác động qua lại giữa các mặt
đối lập không những với tư cách cuộc đấu tranh giữa chúng, mà cịn với tư
cách sự phân đơi của cái thống nhất và sự chuyển hóa (“trao đổi”) thành cái
9


đối lập. Đó là lý do tại sao V.I.Lênin lại có thể đánh giá là Hêraclít là người
đã tiến dần tới các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khi ông
nghiên cứu và làm bút ký về Các bài giảng về lịch sử triết học của
Hêghen(10).
2.1.2. Phép biện chứng chủ quan
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, bắt đầu từ Xôcrát và Platôn, một kiểu tư
duy biện chứng đặc biệt đã xuất hiện - biện chứng của các khái niệm đã được
thực thể hóa, kiểu tư duy như Hêgen nhận xét, nghiên cứu “sự vận động thuần
túy của tư duy trong các khái niệm”(7). Sự xuất hiện của kiểu tư duy biện
chứng này gắn liền với sự hình thành phép biện chứng theo nghĩa cổ đại của
từ này, tức là nghệ thuật tranh luận để đi đến chân lý bằng cách đối lập các

quan điểm, các ý kiến đối lập. Sau Platôn, sự phát triển của kiểu tư duy biện
chứng này được coi là sự trở lại với chủ nghĩa duy tâm khách quan mà Platôn
là đại diện tiêu biểu, nhưng ở nó, đã có một sự phát triển nhất định, trong đó
sự vận động của các khái niệm và quan hệ giữa chúng đã trở thành phương
thức phản ánh thế giới các bản chất xa lạ, đặc biệt mà Platơn đã tưởng tượng
ra. Chính với nghĩa bản thể luận duy tâm này mà học trị của Platơn - Xpépxíp
- đã gọi học thuyết ý niệm của Platơn là phép biện chứng.
Ở những giai đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học
và lơgíc học Hy Lạp cổ đại, phép biện chứng với tư cách nghệ thuật tranh
luận cũng có những nội dung và ý nghĩa khác nhau. Ở Dênông, người được
Arixtốt gọi là “người khởi xướng phép biện chứng”, tu từ học được coi là thủ
thuật bổ trợ trong việc so sánh các quan niệm hoàn toàn đối lập về một đối
tượng. Bản thân sự so sánh này được Xôcrát coi là một cái mốc quan trọng
bậc nhất trên con đường dẫn tới chân lý. Song, đến các nhà triết học thuộc
trường phái Ngụy biện và trường phái Mêga thì tu từ học đã mang một nội
dung hồn tồn chủ quan, vì mục đích của nó khơng phải là tìm kiếm chân lý,
mà chỉ là để giành thắng lợi trong tranh luận với địch thủ tư tưởng. Ở thời
10


Trung cổ, khi mà bản thân thuật ngữ “biện chứng” bắt đầu được sử dụng để
chỉ lơgíc hình thức theo nghĩa gợi mở của nó, các nhà triết học cũng khơng
loại bỏ hồn tồn ý nghĩa ban đầu của thuật ngữ này, thậm chí một số nhà triết
học cịn sử dụng lơgíc hình thức này như một phương tiện để đạt đến chân lý
trong các cuộc tranh luận.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, phép biện chứng khái niệm cũng đã
được sử dụng với tư cách phương tiện lơgíc hình thức để luận chứng cho sự
“ủng hộ” hay “chống lại” một quan niệm nào đó. Với phép biện chứng khái
niệm của mình, Platơn đã đi đến kết luận rằng, để có được sự nhận thức đúng
về những mâu thuẫn hiện thực, cần phải tuân thủ nghiêm ngặt, nhất quán quy

luật mâu thuẫn lơgíc. Kết luận này của Platơn được thể hiện cụ thể trong các
tập đối thoại Nhà ngụy biện và Nhà nước. Còn với Arixtốt, việc tuân thủ nhất
quán và nghiêm ngặt quy luật mâu thuẫn lơgíc đã đem lại cho ơng một đóng
góp lớn lao vào sự phát triển tư tưởng biện chứng- làm tiêu tan ảnh hưởng của
thuật ngụy biện và khiến cho ông không những trở thành “ơng tổ”của khoa
học lơgíc, mà cịn trở thành một trong hai người đầu tiên (cùng với Hêgen)
nghiên cứu phép biện chứng một cách “tương đối chính xác”.
Tiếc rằng, trong triết học Hy Lạp cổ đại, những thành quả đó của tư
duy biện chứng, về căn bản, đã không được phát triển ở giai đoạn sau Arixtốt.
Gần hai nghìn năm sau Arixtốt, các nhà lơgíc học tn thủ nghiêm ngặt quy
luật mâu thuẫn thì lại tỏ ra xa lạ với phép biện chứng của khái niệm, còn các
nhà biện chứng thì đơi khi lại bỏ qua quy luật mâu thuẫn lơgíc. Chỉ có C.Mác,
trong Sự khốn cùng của triết học và Tư bản, là đã vạch rõ một cách toàn diện
sự thống nhất sâu sắc của tư duy biện chứng với tính có luận cứ chặt chẽ và
tính nhất qn của nó. Cũng chỉ có C.Mác là người đã nghiên cứu “Lơgíc
học” với “chữ L. viết hoa”. Và, trong Tư bản, C.Mác, theo sự đánh giá của
V.I.Lênin, đã “áp dụng lơgíc, phép biện chứng và lý luận nhận thức (khơng

11


cần ba từ: đó là cùng một cái duy nhất) của chủ nghĩa duy vật vào một khoa
học duy nhất”(15).
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, có thể coi Platơn là người đã kết hợp
phép biện chứng với tư cách (a) nghệ thuật tranh luận sinh động với (b) phép
biện chứng với tư cách phương thức vận động tới chân lý thông qua sự lưỡng
phân các khái niệm và sau đó, thơng qua sự so sánh các ý kiến đối lập. Trong
các tập đối thoại Nhà ngụy biện và Pacmênit - các tập đối thoại được coi là
đỉnh cao trong việc trình bày phép biện chứng chủ quan ở thời cổ đại, Platơn
cịn làm sáng tỏ (c) sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các khái niệm đối lập và

thậm chí, biến chúng thành mặt đối lập của chính chúng. Theo đó, chúng ta
thấy, chỉ riêng ở Platơn, đã có ba biến thể của phép biện chứng trong cùng
một hệ thống triết học duy tâm khách quan của ơng.
Cịn với Arixtơt, phép biện chứng được quan niệm là kỹ năng tìm ra
các cơ sở để tiến hành tư duy một cách có luận cứ và để bác bỏ các tư tưởng
sai lầm, tức là (d) một dạng lơgíc thực dụng. Arixtốt đã khảo cứu những mối
tương quan biện chứng giữa các phạm trù “hình thức” và “vật chất” trên bình
diện (đ) sự tác động qua lại giữa các khái niệm “hiện thực” và “khả năng”,
“cái chung” và “cái riêng (“cái đơn nhất”)” để từ đó, đi tới biến thể (e) biện
chứng của “thế giới trần tục đa chất lượng”. Ngoài ra, khi phân tích về mặt
lơgíc đối với các phán đốn về những sự kiện tương lai, ông đã vạch ra tính
hai mặt của mối tương quan giữa khả năng và hiện thực. Và, với học thuyết
về mối liên hệ qua lại giữa các phạm trù, cũng như về các dạng vận động, ông
đã mở ra một triển vọng phát triển mới cho phép biện chứng. Nhưng, tiếc
rằng, cũng như ở Platôn, các xu hướng và các khuynh hướng khác nhau trong
phép biện chứng ở Arixtốt lại được kết hợp một cách mâu thuẫn với các yếu
tố siêu hình trong học thuyết của ông.
Triết học Hy Lạp cổ đại thời kỳ sau Arixtốt và sau Êpiquya, các hình
thức mới của phép biện chứng cổ đại đã không những không xuất hiện, mà
12


cịn dần đánh mất những đỉnh cao mà trước đó, nó đã đạt được. Điều này
được quy định bởi sự suy thối sâu sắc của tồn bộ nền văn minh Hy Lạp diễn
ra do những nguyên nhân kinh tế - xã hội. Tư tưởng về sự phát triển mang
tính luân hồi phổ biến ở thời kỳ này, chẳng hạn như ở phái Xtơíc, đã thể hiện
thái độ ngày càng bi quan hơn và mang tính siêu hình hồn tồn. Mọi sự phát
triển, theo họ, đều tất yếu kết thúc bằng một thảm họa chung và mọi nỗ lực
cản trở điều đó đều là uổng cơng, vơ ích. Chính vì vậy mà tư tưởng biện
chứng đã dần trở nên trì trệ và ở phái Platơn mới, nó đã biến thành một trong

các phương tiện để xây dựng nên những câu truyện viễn tưởng, thần bí.
2.2. Đóng góp của triết học Hy Lạp cổ đại đối với sự phát triển lịch sử
triết học của nhân loại.
2.2.1. Đóng góp của triết học Hy Lạp cổ đại về thế giới quan.
Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những
vấn đề thuộc về thế giới quan.Thế giới quan đóng vai trị đặc biệt quan trọng
trong cuộc sống của con người và xã hội loài người.Tồn tại trong thế giới,dù
muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản
thân mình.Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan.Khi đã
hình thành,thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho q trình con
người tiếp tuc nhận thức thế giới.Có thể ví thế giới quan như một “thấu
kính”,qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như tự xem xét
chính bản thân mình để xác định cho mìmh mục đích,ý nghĩa cuộc sống và
lựa chọn cách thức hoạt đọng đạt được mục đích,ý nghĩa đó.Như vậy thế giới
quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát
triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mổi cá
nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan,làm cho
thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các nhà khoa học mang lại.
13


Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại không dừng lại ở sự nhận xét về tính
mn hình,mn vẻ của thế giới.Họ đã đi tìm cơ sở của nó và cách quy nó về
một nghuyên nhân phổ biến,sâu sắc hơn về một nghuyên thể đầu tiên.Các nhà
triết học duy vật thời kỳ này đã cố “xây dựng nên một lý luận về thế giới : thế
giới gồm có cái gì? Và tác động như thế nào vào các khái niệm trong lao động
và đời sống hằng ngày?”Công lao của các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại là đã
xây dựng được giả thiết về cơ cấu nguyên tử của vật chất.Nét nổi bật của triết

học duy vật là các nhà triết học đều cho rằng thế giới là do vật chất tạo
thành,có vận động và có biến đổi,tuy rằng quan niệm vật chất tạo thành thế
giới của mỗi nhà triết học có khác nhau.
Như ta đã biết,triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan. Nó được coi
như là trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát triển của thế giới
quan.Nếu thế giới quan được hình thành từ tồn bộ tri thức và kinh nghiệm
sống của con người;trong đó tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở trực tiếp
cho sự hoàn thành những quan niệm nhất định về từng mặt,từng bộ phận của
thế giới,thì triết học với phương thức tư duy đặc thù đã tạo nên hệ thống lý
luận bao gồm những quan niệm chung nhất về thế giới với tư cách là một
chỉnh thể.
Từ những quan niệm về thế giới của các nhà triết hoc duy vật Hy Lạp
cổ đại đã tạo nên cơ sở khoa hoc cho những ngiên cứu về thế giới và vũ trụ
của con người sau này. Trong khi triết học Phương Đơng thời kì này cịn chịu
ảnh hưởng nặng nề của thần linh,tôn giáo,triết học của các nhà duy tâm như
Platôn coi ý niệm là cái có trước,cịn thế giới sự vật là cái có sau và được sáng
tạo bới ý niệm,thì các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã có sự tìm tòi mới
về vận động của thế giới tự nhiên.Họ đã chỉ ra rằng trạng thái của vật chất và
các đặc tính của nó đều biến đổi nhưng bản thân nó thì khơng sinh ra và cũng
khơng chết đi mà tồn tại vĩnh viễn.Vật chất cũng không thể được sáng tạo ra
và cũng không thể bị tiêu diệt,sự vận động của nó là q một trình tự
14


nhiên,khơng phụ thuộc vào bất kì lực lượng siêu tự nhiên nào.Học thuyết của
các trường phái duy vật đầu tiên xem nước,khơng khí và lửa như là vật chất
mà trong khi vận động đã sản sinh ra tất cả mọi vật thể về quá trình của thế
giới.Học thuyết về sự chuyển hóa lẫn nhau của các vật thể và quá trình ấy là
những mầm mống của quan điểm duy vật biện chứng về sự biến đổi của vật
chất từ trạng thái này sang trạng thái khác.Qua những cống hiến lớn lao mà

các nhà triết học duy vật cổ đại Hy Lạp mang lại ta càng thấy được triết học
có tầm ảnh hưởng rất lớn đối với thế giới quan,nó giữ vai trị định hướng cho
q trình cũng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân,mỗi cộng đồng
trong lịch sử.
2.2.2. Đóng góp của triết học Hy Lạp cổ đại về nhận thức luận
Khơng phải chỉ có thế giới quan mới được nền triết học chú ý tới một
cách sâu sắc như vậy mà triết học cịn có tầm ảnh hưởng lớn đến nhận thức
luận.Một số triết gia Hy Lạp cổ đại đã cho chúng ta biết được điều này.
Các nhà triết học phái Milê và Hêraclit đã tự giải quyết vấn đề cơ
bản của nhận thức luận - vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý thức một cách duy
vật.Trường phái Milê trong trường phái duy vật ra đời sớm nhất trong triết
học Hy Lạp cổ đại (thế kỉ II tr.CN) ,trường phái này đã đi tìm cơ sở ấy trong
các dữ kiện cho việc nghiên cứu hiện thực đem lại.Xuất phát từ trực quan cảm
tính họ đã lấy một hiện tượng nào đó của tự nhiên làm cơ sở và coi nó là vơ
cùng tận.
Anaximăng đã tự đặt ra cho mình câu hỏi làm sao chất liệu sơ đẳng
hóa thành nhiều sự vật khác nhau mà chúng ta thấy trên thế giới.Như vậy ơng
đã có một bước tiến về nhận thức,theo nghĩa nó là một cố gắng xử lý các sự
kiện bằng cách đặt ra các giả thuyết thay vì cắt nghĩa những hiện tượng tự
nhiên bằng lối diễn tả thần thoại và không thể tranh luận.Hơn nữa,điều mà
ơng muốn nói về nguồn gốc của sự vật cho thấy dáng dấp của một sự suy tư
mạnh bạo.
15


Ở các nhà triết học trường phái Milê chỉ chủ yếu bàn đến những vấn đề
bản thể luận,thì bên cạnh đó,Hêraclit cịn phân tích nhiều vấn đề nhận thức
luận.Một mặt,ơng đánh giá cao vai trò của các giác quan trong nhận thức các
sự vật đơn lẻ,mặt khác,cho rằng mục đích tối cao của chúng ta là nhận thức
lôgos,nhận thức sự thống nhất của vũ trụ và sự thông thái tối cao.Phần đông

mọi người sống theo những quan niệm riêng của mình.Hạnh phúc khơng phải
là sự hưởng lạc đơn thuần về thể xác mà là ở việc biết suy nghĩ,nói và hành
động tuân theo thế giới tự nhiênLênin đánh giá cao những quan niệm đó của
Hêraclit,cho rằng chúng đã thể hiện một trong những điểm cơ bản của phép
biện chứng.
Nhưng khi xem xét đến những giá trị về nhận thức luận mà Đêmôcrit
mang đến chúng ta đã thấy được nét tiến bộ của ông so với phái
Milê.Đêmôcrit cho rằng trên thực tế chỉ tồn tại các sự vật khách quan do
nguyên tử tạo ra,còn tất cả những cái như màu sắc,âm thanh,mùi vị…chỉ tồn
tại trong cảm nhận của con người,là kết quả tác động của các nguyên tử lên
các giác quan của chúng ta.Ông thừa nhận tồn tại hai dạng nhận thức.Dạng
thứ nhất đó là nhận thức cảm tính hay cịn gọi là kiến giải.Nó có vai trị nhất
định trong nhận thức thế giới,cho phép ta cảm nhận được tính sinh động và
phong phú của sự vật.Để nhận thức được các nguyên tử và bản chất đích thực
của các sự vật,con người cần có trí tuệ.Nhờ nhận thức trí tuệ mà chúng ta biết
được nguyên tử và khoảng không là khởi ngun của mọi vật.Những gì mà
cảm tính đem lại chỉ là kiến giải,cịn trí tuệ đem đến cho chúng ta những tri
thức đích thực về sự vật.Quan trọng hơn ơng đã phân nhận thức con người
thành dạng nhận thức do các cơ quan cảm giác đem lại và nhận thức nhờ lý
tính,trong đó nhận thức lý tính là đáng tin cậy.
Nhận thức luận của Arixtơt có một vai trị quan trọng trong lịch sử triết
học Hy Lạp cổ đại.Lý luận nhận thức của ông được xây dựng một phần trên
cơ sở phê phán học thuyết Platôn về “ý niệm” và “sự hồi tưởng”.Trong lý
16


luận nhận thức của mình,ơng đã thừa nhận thế giới khách quan là đối tượng
của nhận thức,là nguồn gốc kinh nghiệm và cảm giác.Arixtơt đã thừa nhận
tính khách quan của thế giới : nhờ cảm giác về đối tượng mà có tri thức
đúng,có kinh nghiệm và lý trí hiểu biết được về đối tượng.

Như vậy,ở các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã có những nhận thức
cao hơn về thế giới,về con người.Tuy nó chưa đúng đắn lắm nhưng nó chính
là nền tảng cho sự phát triển triết học sau này.

17


KẾT LUẬN
Mặc dù hãy cịn nhiều tính "cắt khúc", nhưng triết học Hy Lạp cổ đại
đã có những phát hiện mới đối với phép biện chứng. Chính trong thời kỳ này
thuật ngữ "biện chứng" đã hình thành. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về
kinh tế thời kỳ chiếm hữu nô lệ, Hy Lạp cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn về văn hoá, nghệ thuật, mà trước hết là các thành tựu trong khoa học tự
nhiên như: Thiên văn học, vật lý học, toán học đã làm cơ sở thực tiễn cho sự
phát triển của triết học trong thời kỳ này. Triết học Hy Lạp cổ đại đã phát
triển hết sức rực rỡ, trở thành nền tảng cho sự phát triển của triết học phương
Tây sau này.
Bên cạnh những thành tựu ấy, triết học duy vật thời kì này cũng có
những hạn chế mang tính lịch sử như các nhà triết học phần lớn là các nhà
khoa học, đều thuộc tầng lớp chủ nơ nên có quan niệm sai lầm. Các vấn đề
triết học còn chưa rõ ràng, cịn rời rạc chưa hệ thống hóa. Tuy có đặt vai trị
của con người, nhưng chưa hồn tồn tách khỏi yếu tố thần linh, còn nằm trên
tư duy trừu tượng là chủ yếu.
Nói tóm lại, tuy triết học duy vật Hy Lạp cổ đại cịn có những hạn chế
mang tính khách quan hay chủ quan nhất định nhưng triết học thời kì này đã
có những thành tựu là đặt ra nhiều vấn đề mà triết học sau này phải nghiên
cứu và giải quyết : đó là nền móng cho triết học duy vật Châu Âu sau này.

18



TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) V.I. Lênin. Toàn tập, t. 29. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 263 - 331.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập, t. 20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1994, tr. 34.
(3). C.Mác (1845), “Luận cương về Phoiơbắc”, C.Mác và Ph.Ăngghen.tồn
tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
(4). C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993.
(5). Phạm Xuân Nam (Chủ biên), (2001), “Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy
vấn đề cốt yếu”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
(6). Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII”, Nxb GP - CXBIPH.
(7). Hồ Bá Thâm (2014). Bàn về năng lực tư duy. Tạp chí Triết học, số 2, tr 812.
(8). Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(9). Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khố IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(10). Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(11). Dương Phú Hiệp (Chủ biên) (2016), “Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(12). Dương Phú Hiệp (2018), “Triết học và đổi mới”, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.

19




×