TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG TRONG
TRIẾT HỌC CỦA V.PH.HÊGHEN
Chuyên ngành : Sƣ phạm Giáo Dục Công Dân
Mã ngành : 52140204
Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện
TS. Lê Ngọc Triết Nguyễn Thị Diểm Kiều
MSSV: 6106621
Cần Thơ, 12/2013
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Luận văn tốt nghiệp
TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG TRONG
TRIẾT HỌC CỦA V.PH.HÊGHEN
Chuyên ngành : Sƣ Phạm Giáo Dục Công Dân
Mã ngành :51240204
Giảng viên hƣớng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TS. Lê Ngọc Triết Nguyễn Thị Diểm Kiều
MSSV: 6106621
Cần Thơ, 12/2013
i
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Đối tƣợng nghiên cứu 2
3. Mục đích nghiên cứu 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 2
5. Kết cấu đề tài 3
PHẦN NỘI DUNG 4
CHƢƠNG I 4
TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG BIỆN
CHỨNG 4
1.1. Tƣ tƣởng biện chứng 4
1.2. Lịch sử phát triển tƣ tƣởng biện chứng trong lịch sử triết học 7
CHƢƠNG II 29
TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA V.PH.HÊGHEN 29
2.1. V.Ph.Hêghen và nội dung cơ bản trong triết học V.Ph.Hêghen 29
2.2. Quan điểm biện chứng trong triết học V.Ph.Hêghen 42
PHẦN KẾT LUẬN 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của nền triết học đã trải qua rất nhiều giai đoạn. Triết học ra
đời khi năng lực tƣ duy trừu tƣợng của con ngƣời đạt đến trình độ nhất định và phát
triển ở đỉnh cao cho tới thời kỳ trung cổ là triết học cổ điển Đức.
Nƣớc Đức cuối thế kỷ XVIII, bóng dáng của các cuộc cách mạng tƣ sản còn xa
vời. Nhƣng bên cạnh tình trạng lạc hậu về chính trị và kinh tế lại xuất hiện một nền
văn hóa sáng lạng, đem lại cho con ngƣời những viễn cảnh tốt đẹp về tƣơng lai. Về
triết học có một trào lƣu làm nền “triết học ánh sáng” với những nhà tƣ tƣởng lớn nhƣ
I.Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh, V.Ph.Hêghen… Tuy bản chất là duy tâm, nhƣng đều có tƣ
tƣởng phản kháng chế độ xã hội đen tối lúc bấy giờ.
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới trong lịch sử tƣ tƣởng Tây
Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học
cổ điển Đức ở phƣơng Tây và làm ảnh hƣởng lớn đến triết học và khoa học hiện đại,
nhất là đối với triết học của C.Mác.
Ở thời kỳ này, các nhà triết học đã cống hiến cho nhân loại những tƣ tƣởng về
biện chứng vô cùng xuất sắc. Tiêu biểu nhất là nhà biện chứng lỗi lạc, bậc tiền bối của
triết học Mácxít: ông V.Ph.Hêghen. Nhận xét về V.Ph.Hêghen, Ph.Ăngghen đã từng
nhận định rằng: “Ông không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là một nhà bác học có
tri thức bách khoa trên mọi lĩnh vực ông xuất hiện nhƣ một ngƣời vạch ra thời đại.”
Để có thể hiểu rõ hơn về hệ thống triết học cũng nhƣ là vị trí phép biện chứng
của ông trong triết học cổ điển Đức nói riêng và nền triết học nhân loại nói chung giữ
vai trò nhƣ thế nào, tại sao có rất nhiều nhận định cho rằng phép biện chứng của ông là
đỉnh cao của triết học? Ngoài ra thì những yếu tố, tác nhân nào đã ảnh hƣởng trực tiếp
đến tƣ tƣởng về biện chứng của ông và ông tiến bộ hơn so với những vị tiền bối của
mình nhƣ thế nào? Đồng thời tác giả muốn tìm hiểu xem C.Mác đã kế thừa những
điểm nào trong nguồn gốc lý luận của phép biện chứng V.Ph.Hêghen…
Đây chính là nguyên nhân tác giả chọn vấn đề “Tƣ tƣởng biện chứng trong
triết học của V.Ph.Hêghen” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp Đại học.
2
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu về các vấn đề nhƣ:
- Lịch sử phát triển và nội dung cơ bản của phép biện chứng;
- Vị trí phép biện chứng của V.Ph.Hêghen trong triết học Đức;
- Quan điểm biện chứng trong triết học của nhà triết học V.Ph.Hêghen và những
ƣu khuyết điểm trong quan điểm triết học của ông.
Để thực hiện đề tài này, dựa vào những ấn bản của các nhà xuất bản tin cậy về
triết học (lịch sử phép biện chứng, lịch sử triết học…) trong đó có triết học
V.Ph.Hêghen, dựa vào tài liệu, kết quả nghiên cứu của các nhà kinh điển viết về
V.Ph.Hêghen và những suy xét của bản thân để có cơ sở lý luận của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nhận thức đúng về tƣ tƣởng biện chứng và lịch sử phát triển của tƣ tƣởng
biện chứng trong lịch sử triết học.
- Làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về triết học V.Ph.Hêghen.
- Trình bày và làm rõ những quan điểm - tƣ tƣởng biện chứng trong triết học
của V.Ph.Hêghen qua đó muốn nói đến vị trí của triết học V.Ph.Hêghen cũng nhƣ tƣ
tƣởng biện chứng của ông trong nền triết học cổ điển Đức.
- Tìm ra tính tích cực và tính hạn chế trong quan điểm triết học của
V.Ph.Hêghen.
- Nghiên cứu về triết học V.Ph.Hêghen để nhận thức đúng những nét đặc thù
đồng thời cũng là để đánh giá chính xác hơn ý nghĩa về tƣ tƣởng biện chứng trong triết
học V.Ph.Hêghen đối với sự phát triển của tƣ tƣởng triết học nói chung; hiểu sâu về
triết học C.Mác - V.I.Lênin, để biết về tiền đề mà C.Mác và Ăng ghen đã dựa vào triết
học V.Ph.Hêghen nhƣ thế nào, có nghĩa là tìm hiểu xem V.Ph.Hêghen có đóng góp gì
cho triết học của nhân loại.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Quán triệt các nguyên tắc của phép biện chứng duy tâm.
- Kết hợp các phƣơng pháp đối chiếu và so sánh, phân tích và tổng hợp,
phƣơng pháp logic, liệt kê, phƣơng pháp lịch sử…
3
5. Kết cấu đề tài
- Luận văn ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo thì phần nội dung đƣợc kết cấu thành hai chƣơng, bốn tiết.
4
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
TƢ TƢỞNG BIỆN CHỨNG
1.1. Tƣ tƣởng biện chứng
Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ, tƣơng tác, chuyển
hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tƣợng, quá trình trong
giới tự nhiên, xã hội và tƣ duy.
Thuật ngữ “biện chứng” có gốc từ tiếng Hy Lạp là “dialektika”. Đây là
phƣơng pháp chủ yếu của cả nền triết học phƣơng Đông và phƣơng Tây trong thời cổ
đại và trở nên phổ biến qua những cuộc đối thoại kiểu Socrates của Plato (với nghĩa là
nghệ thuật đàm thoại, tranh luận). Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận
nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phƣơng
và nghệ thuật bảo vệ những lập luận. Ngƣời Hy Lạp cổ đại cho rằng, đã là tri thức
đúng thì không thể có mâu thuẫn trong tri thức đó và quá trình đi tới chân lý là quát
trình giải quyết những mâu thuẫn trong lập luận.
Biện chứng bao gồm:
+ Biện chứng khách quan: là biện chứng của thế giới vật chất.
+ Biện chứng chủ quan: là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống
ý thức của con ngƣời.
Phép biện chứng theo tiếng La tinh là “Dialectica”, có nghĩa là nghệ thuật
tranh luận, biện chứng giải để tìm ra chân lý.
Còn theo tiếng Anh, thuật ngữ phép biện chứng đƣợc gọi là: “Dialektikê”,
tính từ đã đƣợc danh từ hóa, ban đầu đƣợc hiểu là sự đối thoại.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên
tắc phƣơng pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Phép biện chứng thuộc về biện
chứng chủ quan. Nó đối lập với phép siêu hình – phƣơng pháp tƣ duy về sự vật, hiện
tƣợng của thế giới trong trạng thái cô lập tĩnh tại và tách rời.
5
Trong triết học Mác, thuật ngữ “biện chứng” đƣợc dùng đối lập với “siêu
hình”. Đó là lý luận đồng thời là phƣơng pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng.
Với Ph.Ăngghen, phƣơng pháp biện chứng là: xem xét những sự vật và
những phản ánh của chúng trong tƣ tƣởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của
chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và tiêu vong của chúng.
Phƣơng pháp biện chứng có nền tảng từ những cuộc đối thoại giữa hai hay
nhiều ngƣời với những ý kiến, tƣ tƣởng khác nhau và cùng mong muốn thuyết phục
ngƣời khác. Phƣơng pháp này khác với hùng biện, trong đó một bài diễn thuyết tƣơng
đối dài do một ngƣời đƣa ra - một phƣơng pháp đƣợc những ngƣời ngụy biện ủng hộ.
Nhiều dạng khác nhau của biện chứng nổi lên ở phƣơng Đông và phƣơng Tây theo
những thời kỳ lịch sử khác nhau. Những trƣờng phái chính theo phƣơng pháp biện
chứng là trƣờng phái Socrates, đạo Hindu, đạo Phật, biện chứng Trung cổ, trƣờng phái
Hêghen và chủ nghĩa Marx.
Ở Hy Lạp cổ đại, phép biện chứng đã có trong triết học của hầu hết các nhà
triết học, nhƣ trƣờng phái triết học Milê mà đại biểu tiêu biểu là Talét, Anaximen.
Đến Hêraclít (khoảng 540 – 475 TCN) đã thể hiện khá rõ quan niệm về vận động và
phát triển. Ông khẳng định “mọi đều trôi đi đều chảy lại”. Ngƣời đầu tiên sử dụng
thuật ngữ “phép biện chứng” là Xôcrát với ý nghĩa là nghệ thuật tranh luận để tìm ra
chân nguyên lý. Đây cũng là cách hiểu phổ biến của ngƣời Hy Lạp cổ đại, về sau học
trò của Xôcrát và Platôn đã coi phép biện chứng là nghệ thuật đối thoại dƣới hình
thức hỏi – đáp, phân tích và liên kết các khái niệm để đạt tới định nghĩa đúng đắn về
khái niệm đó. Những quan niệm và tƣ tƣởng biện chứng đã chiếm một vị trí đáng kể
trong thế giới quan triết học của ngƣời Hy Lạp cổ đại. Về thực chất, những quan niệm
và tƣ tƣởng biện chứng đó đã xuất hiện cùng với triết học. Xét trên nhiều phƣơng diện,
có thể đánh giá phép biện chứng là một hiện tƣợng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn
cũng nhƣ triết học.
Cùng với sự vận động và phát triển của cuộc sống thực tiễn, và sự phát triển
của nhận thức của con ngƣời, thuật ngữ “Phép biện chứng” ngày càng đi xa hơn ý
nghĩa ban đầu và đƣợc bổ sung những nội dung mới, phong phú hơn. Đến
V.Ph.Hêghen (1770 – 1831), nhà triết học duy tâm khách quan ngƣời Đức, thuật ngữ
6
này đã đƣợc phát triển khá toàn diện. Ông là ngƣời đầu tiên sử dụng thuật ngữ “phép
biện chứng” sát với nghĩa hiện đại, C.Mác đã từng đánh giá V.Ph.Hêghen “lần đầu tiên
đã quan niệm toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần dƣới hình thức là một quá
trình, tức là trong sự vận động không ngừng, biến đổi, cải tạo và phát triển đó”. Kết
quả của phép biện chứng của V.Ph.Hêghen đã vƣợt xa cái ý nghĩa mà chính ông đã
giành cho nó.
Đến C.Mác và Ph.Ăngghen và tiếp theo đó là.V.I.Lênin đã kế thừa - phát triển
một cách sáng tạo những giá trị triết học trong lịch sử tƣ tƣởng của loài ngƣời. Trong
đó có những tƣ tƣởng biện chứng trƣớc đó, mà trực tiếp là phép biện chứng của
V.Ph.Hêghen để hoàn thiện phép biện chứng, đƣa phép biện chứng lên đỉnh cao – phép
biện chứng duy vật, làm cho phép biện chứng thực sự trở thành khoa học phản ánh
những quy luật chung nhất, phổ biến nhất về sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã
hội, tƣ duy.
Bàn về phép biện chứng,V.I.Lênin đánh giá phép biện chứng là “học thuyết về
sự phát triển, dƣới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện…” [23,
tr53]. Theo nghĩa đen, phép biện chứng là sự nghiên cứu mâu thuẫn trong ngay bản
chất của đối tƣợng. Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự
thống nhất của các mặt đối lập, nhƣ thế là nắm bắt đƣợc hạt nhân của phép biện chứng.
V.I.Lênin định nghĩa phép biện chứng là “học thuyết vạch ra rằng những mặt
đối lập làm thế nào mà có thể và thƣờng là (trở thành) đồng nhất… tại sao lý trí con
ngƣời không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là sinh động, có điều
kiện năng động, chuyển hóa lẫn nhau” [24, tr240-116-117].
Riêng Ph.Ăngghen, ông đã từng định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
ngƣời và của tƣ duy”. Phép biện chứng ra đời cùng với sự ra đời của triết học, nó có
một quá trình phát triển lâu dài trƣớc khi đạt đến khái niệm khoa học.
“Phép biện chứng theo nghĩa cổ đại của thuật ngữ này có nghĩa là nghệ thuật
hành văn mà nhờ nó, ngƣời ta có thể giải thích đƣợc các tƣ tƣởng cho ngƣời nói
chuyện với mình và buộc anh ta phải tán thành nó. Đó vừa là nghệ thuật chứng minh
vừa là nghệ thuật phản bác. Nhà biện chứng đƣợc gọi là nhà hiền triết biết cách sắp
7
xếp tri thức của mình thành một hệ thống khúc triết và biết cách làm cho mọi ngƣời
hiểu rõ cơ sở logic của nó” [20, tr60].
Tóm lại, Biện chứng: Là phƣơng pháp xem xét những sự vật hiện tƣợng và
những phản ánh của chúng vào tƣ duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại của chúng,
trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
“Toàn bộ vấn đề của phép biện chứng là vấn đề là vấn đề lý giải về sự phát
triển, về tính mâu thuẫn của tự nhiên và tƣ duy, về sự đấu tranh và đồng nhất (thống
nhất) của các mặt đối lập, về các vấn đề gắn liền với nó (vấn đề về sự thống nhất và mối
quan hệ qua lại, về sự phủ định, về tính chất tiệm tiến của sự phát triển…” [20, tr44].
Nội dung và phạm vi đi đến của phép biện chứng là rất sâu và rộng. Nó chính
là chìa khóa vàng để giúp con ngƣời có thể nhận thức và chinh phục thế giới. Lịch sử
tƣ tƣởng và thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng: khi nào chúng ta nắm vững lý
luận biện chứng, biết vận dụng sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh cụ thể thì vai trò, hiệu
lực cải tạo tự nhiên đƣợc tăng cƣờng. Ngƣợc lại, cách nghĩ cách làm chủ quan duy ý
chí sẽ dễ dẫn đến sai lầm, gây tổn thƣơng cho cách mạng và xã hội nói chung.
Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới
cao. Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và lịch sử phát triển của nó trải qua một
số giai đoạn cơ bản.
1.2. Lịch sử phát triển tƣ tƣởng biện chứng trong lịch sử triết học
“Xét trên nhiều phƣơng diện, có thể đánh giá phép biện chứng là một hiện
tƣợng có ý nghĩa thế giới quan rộng lớn cũng nhƣ triết học” [20, tr43]. Trong lịch sử
triết học thì phƣơng pháp biện chứng đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Phép biện
chứng đƣợc bắt đầu từ thời cổ đại, tiếp theo đó là phép biện chứng duy tâm cổ điển
Đức và sau cùng là phép biện chứng duy vật Mácxít.
- Phép biện chứng cổ đại
Phép biện chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơ và mang tính
trực quan đƣợc hình thành trên cơ sở những quan sát tự nhiên, xã hội hoặc là kinh
nghiệm của bản thân. Trung tâm lớn của triết học thời bấy giờ là triết học trung hoa cổ
đại. Do đặc điểm văn hoá cũng nhƣ hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên sự thể hiện tƣ
tƣởng biện chứng. Trong học thuyết triết học cũng có những đặc điểm. Không giống
nhau, nhƣng nói chung cả 3 nền triết học lớn đều có những đặc điểm nêu trên.
8
Các nhà biện chứng cả phƣơng Đông lẫn phƣơng Tây thời kỳ này đã xem các
sự vật, hiện tƣợng của vũ trụ sinh ra, thay đổi trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận.
Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy đƣợc chỉ là trực kiến, chƣa phải là
kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học;
Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu sâu hơn về phép biện chứng cổ đại. Thời kì này
có ba nền triết học cơ bản đó là: Ấn Độ cổ đại, Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại.
+ Phép biện chứng trong triết học Ấn Độ cổ đại
Sự hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại diễn ra do chịu ảnh
hƣởng từ nhiều khía cạnh. Ấn Độ cổ đại là một lục địa lớn nằm ở phía nam Châu Á có
điểu kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt và địa hình thì tách biệt với các quốc gia khác
do đó Ấn Độ cổ đại có một nền văn minh rất khép kín. Mặc dù triết học của Ấn Độ cổ
đại còn thô sơ, mộc mạc nhƣng các yếu tố về bản thể luận và những tƣ duy biện chứng
vẫn đƣợc thể hiện trong các trƣờng phái triết học của họ.
Đây là hệ thống triết học có sự đan xen hoà đồng giữa triết học và tôn giáo và
giữa các trƣờng phái khác nhau. Các tƣ tƣởng triết học đƣợc thể hiện dƣới hình thức là
một tôn giáo. Theo cách phân chia truyền thống triết học ấn Độ cổ đại có 9 trƣờng
phái, trong đó có 6 trƣờng phái là chính thống và 3 trƣờng phái phi chính thống. Chúng
ta sẽ tìm hiểu về một số trƣờng phái tiêu biểu.
+ Trường phái Samkhya.
Trƣờng phái Samkhya lúc đầu là duy vật, họ không thừa nhận thần Brahaman
sáng tạo ra thế giới. Họ cho rằng thế giới vật chất do một dạng vật chất đầu tiên cấu tạo
nên là Prakriti. Prakriti là vật chất đầu tiên ở dạng tinh tế, trầm ẩn, vô định hình và
trong nó chứa đựng khả năng tự biến hóa, không thể nhận thức bằng giác quan. Prakriti
không ngừng biến hóa, phát triển trong không gian theo luật nhân quả dẫn tới xuất hiện
tính đa dạng của giới tự nhiên. Họ còn cho rằng, thế giới vật chất là một dạng thể
thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng, tƣơi, vui); Rajas (động, kích thích); Tamas
(nặng, khó khăn). Khi ba yếu tố này ở trạng thái cân bằng thì Parakriti ở trạng thái
không thể trực quan đƣợc. Khi cân bằng bị phá vỡ thì đây là điểm xuất phát của sự tiến
hóa thế giới.
9
Tuy nhiên, về bản thể luận, phái Samkhya theo quan điểm nhị nguyên khi thừa
nhận sự tồn tại song song của hai bản nguyên của vũ trụ là bản nguyên vật chất Prakriti
và bản nguyên tinh thần Prusa.
+ Triết học Jaina.
Jaina là một học thuyết triết học không chính thống. Jaina ra đời vào khoảng
thế kỷ thứ VI tr.CN và gắn liền với tên tuổi ngƣời sáng lập là nhà hiền triết Maharvira.
Đến năm 79 sau công nguyên, trƣờng phái Jaina đƣợc chia làm hai phái là phái không
y (lõa hình) và phái bạch y (mặc áo trắng).
Nội dung cơ bản của triết học Jaina là lý luận về thực thể tồn tại và thuyết
tƣơng đối. Theo quan niệm của phái Jaina thì thực thể là cái đầu tiên tạo nên thế giới,
họ chia thực thể ra làm hai loại là sống và không sống. Thực thể sống (Jiva) là thực thể
có lý trí, có linh hồn. Nó bao gồm các loại nhƣ thần, quỷ, ngƣời, động vật, và cây
cỏ…Còn thực thể không sống (Ajiva) là thực thể không có lý trí , không có linh hồn.
Nó bao gồm không gian, thời gian, vận động, nghỉ ngơi và vật chất. Giữa thực thể sống
và không sống luôn liên kết với nhau, tác động qua lại với nhau
Tƣ tƣởng biện chứng của phái Jaina thể hiện ở học thuyết tƣơng đối. Theo đó,
tồn tại vừa là bất biến lại vừa biến chuyển. Cái vĩnh hằng là bản thể còn cái không vĩnh
hằng luôn biến đổi là các dạng của bản thể. Điều đó có nghĩa là thế giới bao quanh con
ngƣời vừa vận động lại vừa đứng yên, đó là mâu thuẫn mà con ngƣời chúng ta phải
chấp nhận.
+ Triết học Lokayata.
Tên Lokayata hay Carvaka thƣờng đƣợc hiểu là thứ triết học phổ biến trong
nhân dân, hay là triết học lấy vật chất làm cơ sở. Đây là một trƣờng phái duy vật vô
thần triệt để đƣợc hình thành rất sớm gắn bó với tên tuổi nhà triết học Brihaspati
Theo phái Lokayata, mọi sự vật, hiện tƣợng của thế giới đƣợc tạo thành từ bốn
nguyên tố vật lý là: Đất, nƣớc, lửa và không khí. Các nguyên tố này tự tồn tại, tự vận
động trong không gian mà tạo thành tất cả vạn vật, kể cả bản thân con ngƣời cũng là
kết quả của sự kết hợp các nguyên tố trên. Không có linh hồn bất tử, linh hồn hay ý
thức chỉ là một thuộc tính của cơ thể, ý thức do vật chất sinh ra nhƣ gạo nấu thành
rƣợu. Nhƣng rƣợu có tính chất mà gạo không làm cho ngƣời ta say. Từ đó, Lokayata
10
phủ nhận huyết “luân hồi”, “nghiệp báo”, và chế giễu quan niệm về “sự giải thoát”
trong các hệ thống triết học khác.
Về nhận thức luận và logic học, trƣờng phái này có khuynh hƣớng duy vật
theo lập trƣờng kinh nghiệm. Họ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận
thức, đồng thời phủ nhận tính xác thực của tri thức gián tiếp.
Về logic học, học thuyết Lokayata không phủ nhận giá trị của biện luận, chứng
minh và kết luận logic mà chỉ phủ nhận phƣơng thức suy luận, chứng minh và rút ra
kết luận sai lầm của kinh Vêđa.
Có thể nói Lokayata là trƣờng phái duy vật và vô thần triệt để nhất trong tất cả
các trƣờng phái triết học ở Ấn Độ cổ đại. Giá trị những tƣ tƣởng triết học của họ không
chỉ ở chỗ chống lại chủ nghĩa duy tâm tôn giáo (phong trào đấu tranh chống sự thống
trị của chủ nghĩa duy tâm trong Vêđa và giáo lý của đạo Bàlamôn đòi tự do về tƣ
tƣởng và bình đẳng xã hội) mà còn là cơ sở cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật sau
này.
+ Triết học phật giáo.
Trong tất cả các trƣờng phái thì trƣờng phái đạo phật là có học thuyết mang
tính duy vật biện chứng sâu sắc tiêu biểu của nền triết học ấn Độ cổ đại.
Phật giáo là một trào lƣu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI
trƣớc công nguyên, do Tất Đạt Đa tên hiệu là thích ca Mẫu Ni sáng tạo. Phật giáo cho
rằng vạn vật trong thế giới không do một đấng thần linh nào sáng tạo ra mà đƣợc tạo ra
từ hai nguyên tố là sắc và danh. Trong đó "danh" bao gồm tân và thức, còn "sắc" bao
gồm 4 đại là đại địa, đại thuỷ, đại hoả, đại phong. Chính nhờ từ trƣờngnày mà phật
giáo đƣợc coi là tôn giáo duy vật duy nhất chống lại các tôn giáo thần học đƣơng thời.
Khi luận giải những vấn đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết học,
Phật giáo đã đề cập tới hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của phép biện chứng.
Thế giới quan triết học phật giáo và những tƣ tƣởng biện chứng của nó đƣợc thể hiện
qua một số phạm trù cơ bản là: Vô ngã, vô thƣờng và nhân quả.
- Vô ngã là không có cái tôi bất biến. Cách nhìn này hoàn toàn đối lập với cách
nhìn siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học phật giáo đƣa ra những
nguyên lý về mối liên hệ tất định., phổ biến: Không có cái nào biệt lập tuyệt đối so với
tồn tại khác, tất cả hòa đồng nhau.
11
- Vô thƣờng cho rằng thế giới là dòng biến chảy không ngừng, không nghỉ
theo chu kì bất tận: Sinh, trụ, dị, diệt (hay thành, trụ, hoại, không). Do đó không có cái
gì là trƣờng tồn bất định chỉ có sự vận động biến đổi không ngừng. Đây là một phỏng
đoán biện chứng về sự biến đổi của tồn tại.
- Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế giới đều
có nguyên nhân tự thân, đó chính là quy luật nhân quả, một định lý tất định và phổ
biến của mọi tồn tại, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh.
Phật giáo cho rằng sự tƣơng tác giữa 2 mặt đối lập nhân giả hay nhân duyên
chính là động lực làm cho thế giới vận động chứ không phải là một thế lực siêu nhân
nào đó nằm ngoài con ngƣời, thế giới là vòng nhân quả vô cùng vô tận. Nói khác một
sự vật hiện tƣợng tồn tại đƣợc là nhờ hội tụ đủ 2 giới “nhân – duyên”. Tuy đạo phật đã
có những bƣớc phát triển lớn vì biện chứng nhƣng nó vẫn còn mang tính vô thần
không triệt để, bi quan …
Nhìn chung, triết học Ấn Độ cổ đại là một trong những cái nôi triết học vĩ đại
của loài ngƣời thời cổ đại, chứa đựng các yếu tố duy vật, vô thần và đã manh nha hình
thành các tƣ tƣởng biện chứng sơ khai. Tuy nhiên, tƣ duy triết học thời kỳ này cũng
bộc lộ nhiều hạn chế nhƣ: Coi linh hồn con ngƣời là bất tử (đạo phật) hay phán đoán
về thế giới hiện tƣợng của phái Jaina.
- Phép biện chứng trong triết học Trung Hoa cổ đại
Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn và có lịch sử phát triển lâu dài, đây là
một trong những trung tâm tƣ tƣởng lớn nhất của nhân loại thời cổ đại. Triết học của
Trung Quốc chịu sự chi phối trực tiếp của những vấn đề chính trị, xuất phát từ hiện
trạng xã hội lúc bấy giờ.
Triết học trung hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại có tới 103
trƣờng phái triết học lớn nhỏ. Do những đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử của cơ cực
đạo đức suy đồi nên triết học trung hoa chỉ tập trung vào việc giải quyết các vấn đề về
chính trị - xã hội, những tƣ tƣởng biện chứng thời này rất ít và chỉ xuất hiện khi các
nhà triết học giải những vấn đề về vũ trụ quan.
Chủ nghĩa duy vật và biện chứng trong triết học của Trung Quốc cổ đại là chủ
nghĩa duy vật chất phác và phép biện chứng tự phát. Có thể thấy một số tƣ tƣởng biện
chứng nổi bật của triết học Trung Quốc cổ đại qua một số trƣờng phái triết học sau:
12
+ Trường phái triết học Âm Dương gia.
Đây là một học thuyết triết học đƣợc phát triển trên cơ sở một bộ sách có tên
là kinh dịch. Nguyên lý triết học cơ bản nhất là nhìn nhận mọi tồn tại không trong
tính đồng nhất tuyệt đối, mà cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể
tƣơng đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập đó là âm và
dƣơng. Âm dƣơng không loại trừ, không biệt lập, mà bao hàm lẫn nhau, liên hệ
tƣơng tác lẫn nhau.
Nội dung triết học căn bản của phái Âm - Dƣơng là lý luận về sự biến dịch,
đƣợc khái quát thành những nguyên lý phổ biến, khách quan và tất yếu
-Thứ nhất, phái Âm – Dƣơng nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng
nhất tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập, gọi là sự
thống nhất của Âm và Dƣơng. Ngoài ra, học thuyết Âm – Dƣơng còn thừa nhận mọi
thực tại trên tinh thần biện chứng là trong mặt đối lập này đã bao hàm khả năng của
mặt đối lập kia. Đây là một cách lý giải biện chứng về sinh thành, về vận động.
-Thứ hai, nguyên lý của sự sinh thành và vận động là có tính quy luật, chu kỳ,
và chu kỳ đó đƣợc bảo đảm bởi nguyên tắc cân bằng Âm – Dƣơng.
-Thứ ba, nguyên lý phân đôi cái thống nhất trong logic của sự vận động là
một nguyên lý tất định, đƣợc khái quát bằng một logic: Thái cực sinh Lƣỡng nghi,
Lƣỡng nghi sinh Tứ tƣợng, Tứ tƣợng sinh Bát quái, Bát quái tƣơng thôi sinh vô cùng
(vạn vật).
Về bản thể luận, phái Âm – Dƣơng quy thế giới thành những dạng vật chất cụ
thể và coi chúng là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Theo phái này thì nguyên thủy của thế
giới bao gồm: Kim – Mộc –Thủy – Hỏa – Thổ.
+ Triết học của phái Đạo Gia.
Ngƣời khởi xƣớng phái này là Lão Tử. quan điểm biện chứng của ông rất sâu
sắc, ông coi Đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ.
Trong đó nổi bật là hai quan điểm biện chứng về “luật quân bình” và quan điểm về
“luật phản phục”. “Luật quân bình” để giữ cho sự vận hành của vạn vật đƣợc cân bằng,
không thái quá mà cũng không bất cập. “Phản phục” là nói lên tính tuần hoàn, tính chu
kỳ trong quá trình biến dịch của vạn vật.
13
Sự thống nhất của các mặt đối lập là một tƣ tƣởng biện chứng vô cùng độc đáo
của Lão Tử. Ông cho rằng: “có” và “không” sinh lẫn nhau, “dễ” và “khó” tạo nên
nhau, “ngắn” và “dài” làm rõ nhau, “cao” và “thấp” tựa vào nhau, “trƣớc” và “sau”
theo nhau. Trong đó mỗi mặt đều trong mối quan hệ với mặt đối lập, không có mặt này
thì cũng không có mặt kia và giữa chúng chỉ là tƣơng đối. Tuy nhiên, sự đấu tranh
chuyển hóa của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tƣợng không khuynh theo hƣớng
phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng tuần hoàn của luật phản phục. Hơn nữa, Lão
Tử không chủ trƣơng giải quyết mâu thuẫn bằng cách đấu tranh giữa các mặt đối lập
mà lại chủ trƣơng lấy cái tĩnh, cái vi mô để tạo thành sự chuyển hóa theo luật quân
bình. Chính vì thế, phép biện chứng của ông mang tính chất máy móc, lặp đi lặp lại
một cách tuần hoàn.
Ngoài Lão Tử thì Trang Tử cũng là một đại diện tiêu biểu cho phái Đạo gia.
Học thuyết của ông có những yếu tố duy vật và biện chứng tự phát, nhƣng thế giới
quan của ông cơ bản nghiêng về chủ nghĩa duy tâm nhiều hơn. Ông quan niệm rằng
trời là tự nhiên vốn có không do một ai sinh ra cả. Vạn vật đều sinh ra từ Đạo và đƣợc
biến hóa một cách rất tự nhiên.
+ Triết học của phái Danh gia.
Tƣ tƣởng biện chứng đƣợc thể hiện qua thuyết tƣơng đối của Huệ Thi. Huệ Thi
quan niệm vạn vật trong vũ trụ luôn biến đổi, chúng có tính tƣơng đối và hàm chứa
trong đó những mặt đối lập liên hệ chuyển hóa qua lai với nhau. Về cơ bản, triết học
của Huệ Thi mang tính ngụy biện và tƣơng đối luận
Một nhân vật khác của phái Danh gia là Công Tôn Long. Tƣ tƣởng biện chứng
tự phát của Công Tôn Long thể hiện ở quan điểm về tính chất mâu thuẫn của sự vận
động, sự thống nhất biện chứng của cái vô hạn và hữu hạn, giữa đồng nhất và khác
biệt. Trong đó, Công Tôn Long đƣa ra những mệnh đề có tính chất ngụy biện nhƣ:
“Ngựa trắng không phải là ngựa, trứng có lông, bóng chim bay không hề động đậy”.
Nếu Huệ Thi chỉ chú trọng đến tính chất tƣơng đối, cự luôn biến đổi của sự
vật, hiện tƣợng trong hiện thực, phóng đại một cách phiến diện mặt tƣơng đối của sự
vật và đƣa ra kết luận thì Công Tôn Long lại nhấn mạnh tính tuyệt đối, tính không biến
đổi và sự tồn tại độc lập của những khái niệm so với cái đƣợc phản ánh trong khái
niệm ấy.
14
+ Triết học của phái Pháp gia.
Đại biểu tiêu biểu của trƣờng phái này là Hàn Phi. Hàn Phi đƣợc coi là một
nhà vô thần luận nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại. Tƣ tƣởng triết học của ông thể hiện
rõ tính chất duy vật và biện chứng tự phát về lịch sử và phƣơng pháp trị nƣớc. Ông cho
rằng lịch sử xã hội loài ngƣời luôn biến đổi, không có chế độ xã hội nào là tồn tại một
cách vĩnh viễn. Mặt khác, ông lại cho rằng động lực căn bản quyết định sự biến đổi của
lịch sử là do thay đổi về dân số và của cải trong xã hội. Bởi vì thế nên khi bàn về
phƣơng pháp trị nƣớc, Hàn Phi cho rằng kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách
quan của lịch sử chứ không có luật nào luôn đúng với mọi thời đại, ông luôn cố gắng
tìm ra nguyên nhân biến đổi của đời sống xã hội trong điều kiện sinh hoạt vật chất.
Nhìn chung, do sự hạn chế của trình độ hoạt động thực tiễn và trình độ nhận
thức nên triết học cổ đại Trung Quốc chỉ dừng lại ở chủ nghĩa duy vật chất phác, cảm
tính và phép biện chứng tự phát còn sơ khai. Tuy nhiên, ta có thể nói triết học Trung
Quốc cổ đại đã là cơ sở rộng lớn cho sự phát triển các tƣ tƣởng biện chứng của triết
học nhân loại.
- Phép biện chứng Hy Lạp cổ đại
“Khi đánh giá chung về các hình thức của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại,
trƣớc hết cần phải lƣu ý rằng, nói tới phép biện chứng ở giai đoạn này, chúng ta cần
phải hiểu nó theo hai nghĩa:
+ Thứ nhất, đó là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử nhận thức mang tính biện
chứng về sự phát triển của hiện thực;
+ Thứ hai, đó là phép biện chứng theo nghĩa cổ điển của từ đó.” [20, tr43].
Gắn liền với hình thức đầu tiên của phép biện chứng là nền triết học Hy Lạp cổ
đại. Đó là phép biện chứng dựa trên sự cảm thụ trực tiếp thế giới vật chất xung quanh.
Phép biện chứng đó chƣa phải là một hệ thống lý luận, quan điểm về phép biện chứng.
Hình thức đầu tiên này của phép biện chứng mang tính tự phát, bởi vì các nhà triết học
biện chứng Hy Lạp cổ đại nghiên cứu tự nhiên chỉ nhằm cốt lõi sao cho vẽ đƣợc bức
tranh chung về thế giới và chỉ ra đƣợc nguồn gốc của nó chứ không có chủ định nghiên
cứu phép biện chứng. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại chỉ là những yếu
tố biện chứng còn rất lẻ tẻ và rời rạc chƣa thành một hệ thống, quy luật, phạm trù, tức
là chƣa trở thành một hệ thống lý luận nhận thức, do đó vai trò nhận thức và cải tạo thế
15
giới của nó còn rất nhiều hạn chế. Đồng thời với tính tự phát thì phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại còn mang tính ngây thơ. Hầu hết những quan điểm biện chứng của các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại đều mang tính suy luận, phỏng đoán của các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại trên cơ sở kinh nghiệm trực giác. Các yếu tố khoa học kỹ thuật lúc này còn
ở trình độ kém phát triển, do đó những suy luận, phỏng đoán của các nhà triết học Hy
Lạp cổ Đại chƣa có cơ sở đƣợc chứng minh bằng khoa học. Nhận xét về triết học và
phép biện chứng Hy Lạp cổ đại, Ph.Ăngghen khẳng định: “Hình thức thứ nhất là triết
học Hy Lạp trong triết học này, tƣ duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác
tự nhiên, chƣa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu” và “nếu về chi tiết, chủ
nghĩa siêu hình đúng hơn so với những ngƣời Hy Lạp, thì về toàn thể thì những ngƣời
Hy Lạp lại đúng hơn so với chủ nghĩa siêu hình”.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào cuối TK VI trƣớc CN. Nhìn bao quát
thì triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Có
thể tìm hiểu về các tƣ tƣởng biện chứng nổi bật của Hy Lạp cổ đại qua một số đại
biểu sau đây:
+ Talét (625-647 tr.CN)
Talét xuất thân trong một gia đình thƣơng nghiệp lớn, nhƣng thƣơng nghiệp
không phải là nghề chính của ông mà chỉ là một phƣơng tiện để ông nghiên cứu triết
học và khoa học tự nhiên. Là một thƣơng gia giàu có, ông có điều kiện đi du lịch ở rất
nhiều nƣớc, quen biết nhiều nhà bác học phƣơng Đông và đã tiếp thu đƣợc nhiều kiến
thức mới mẻ. Song, Talét không dừng lại ở những tri thức kinh nghiệm của những nhà
bác học này mà đã nâng cao những tri thức đó lên trình độ khoa học. ông không chỉ là
nhà triết học, toán học, thiên văn học mà còn thiết kế tƣợng đài, đền thờ, xây dựng cầu
cống, tạo đồng hồ chạy bằng thủy lực, xác định độ dài trong năm là 365 ngày.
Thành tựu nổi bật của Talét là quan niệm triết học duy vật và biện chứng tự
phát. Trên cơ sở quan sát trực tiếp sự vật, ông cho rằng: “nƣớc giữ vai trò vô cùng
quan trọng trong tự nhiên cũng nhƣ đời sống con ngƣời, không có nƣớc thì không có gì
cả.”. Vì thế ông khẳng định rằng: “nƣớc là bản nguyên của thế giới, mọi sự vật đều
sinh ra từ nƣớc, khi phân hủy lại biến thành nƣớc.” Theo Talét, vật chất tồn tại vĩnh
viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng, sinh ra và chết đi.
16
Các quan điểm triết học duy vật của Talét nhìn chung chỉ mới dừng lại ở mức
độ mộc mạc, thô sơ và cảm tính, có ý nghĩa vô thần, chống lại thế giới tôn giáo
đƣơng thời và đã chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát ngây thơ. Talét vẫn
chƣa thoát khỏi ảnh hƣởng của quan niệm về thần thoại và tôn giáo nguyên thủy bởi
ông cho rằng thế giới đầy rẫy những vị thần linh.
+ Anaximăngđrơ (611-547 tr.CN)
Anaximăngđrơ quê ở Milê, ông là một nhà triết học duy vật. Ông cho rằng
nguồn gốc của vũ trụ là vô cực. Vô cực chia thành hai mặt đối lập nhƣ khô và ƣớt,
nóng và lạnh, rồi kết hợp với nhau phức tạp mà hình thành mọi vật nhƣ đất, nƣớc,
không khí, lửa đồng thời, ông cho rằng vũ trụ không ngừng phát triển, không ngừng
hình thành, không ngừng sinh sản ra những vật mới. Nhƣ vậy, ông là nhà triết học có
quan điểm biện chứng đầu tiên ở Hy Lạp.
Ông là ngƣời Hy Lạp đầu tiên nghiên cứu một cách thật sự nghiêm túc về vấn
đề phát sinh và phát triển của các loài động vật. Theo ông, động vật phát sinh dƣới
nƣớc và sau nhiều năm biến hóa thì một số giống loài thích nghi với đời sống trên cạn,
nó phát triển và dần hoàn thiện – con ngƣời hình thành từ sự biến hóa của cá. Phỏng
đoán của ông thể hiện yếu tố biện chứng về sự phát triển của các loài động vật. Ngoài
ra, Anaximăngđrơ còn cho rằng cơ sở để hình thành nên vạn vật trong vũ trụ là từ một
dạng vật chất đơn nhất, vô định hình, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn mà ngƣời ta không
thể trực quan thấy đƣợc.
+ Hêraclít (530 – 470 tr.CN)
Hêraclít sinh ra ở thành Êphedơ thuộc xứ Iôni một trong những trung tâm kinh
tế - văn hóa nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại. Ông thuộc dòng dõi quý tộc, cha truyền con
nối, nhƣng nhƣờng quyền thừa kế cho em trai mình và đi theo con đƣờng nghiên cứu
khoa học.
Hêraclít là một nhà duy vật có những tƣ tƣởng rất sâu sắc về thế giới. Ông là
ngƣời sáng lập ra phép biện chứng (theo đánh giá của các nhà kinh điển C.Mác –
V.I.Lênin), ngoài ra ông còn là ngƣời xây dựng phép biện chứng trên lập trƣờng duy
vật. Phép biện chứng của ông chƣa đƣợc trình bày dƣới dạng một hệ thống các luận
điểm khoa học nhƣ sau này, tuy nhiên hầu hết các luận điểm cốt lõi của phép biện
17
chứng đã đƣợc Hêraclít đề cập dƣới dạng danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Các tƣ
tƣởng biện chứng của ông thể hiện các quan điểm chủ yếu là:
- Thứ nhất, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất, Hêraclít cho rằng
không có sự vật, hiện tƣợng nào của thế giới là đứng im tuyệt đối mà tất cả đều trong
trạng thái biến đổi và chuyển hóa thành cái khác.
- Thứ hai, quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự
vật, hiện tƣợng, thể hiện trong phỏng đoán của ông về vai trò của những mặt đối lập
trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, sự trao đổi của những mặt đối lập, sự tồn tại
và thống nhất của những mặt đối lập.
- Thứ ba, theo Hêraclít thì sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới
do quy luật khách quan (logos) quy định.
Lý luận và nhận thức của Hêraclít còn mang đậm tính chất duy vật và biện
chứng sơ khai, nhƣng xét về cơ bản thì nó đúng. Có thể nói trong giai đoạn của triết
học cổ đại thì không có tƣ tƣởng biện chứng nào có thể sâu sắc nhƣ Hêraclít. Ông đã
đƣa triết học duy vật cổ đại biện chứng lên một bƣớc mới với những quan điểm duy
vật cùng với những yếu tố biện chứng. Có thể xem Hêraclít là một đại biểu xuất sắc
của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại, tuy nhiên C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã chỉ rõ
những hạn chế, sai lầm của ông về mặt chính trị (tính chất phản dân, thù địch với nhân
dân và chủ trƣơng dùng chính quyền để dập tắt nhanh phong trào dân chủ).
+ Pácmênít (540 - 480 tr. CN)
Ngƣời đầu tiên đƣa ra khái niệm “tồn tại” với luận điểm nổi tiếng: Chỉ có cái
tồn tại, không có cái không – tồn tại
Triết học của Pácmênít tồn tại hết sức trừu tƣợng song cũng chứa đựng
những yếu tố tự phát. Ông cho rằng với cái nhìn cảm tính thì thế giới vô cùng đa
dạng và phong phú, nó sẽ biến đổi không ngừng và vô cùng sinh động. Chứa quan
niệm rằng bản chất của mọi sự vật trong thế giới là tồn tại, học thuyết về tồn tại của
ông đánh một bƣớc tiến mới trong sự phát triển của tƣ tƣởng triết học Hy Lạp, mang
tính khái quát cao. Tuy nhiên học thuyết của ông vẫn còn hạn chế ở chỗ ông đã đồng
nhất tuyệt đối giữa tƣ duy với tồn tại và mang tính chất siêu hình, vì ông cho rằng tồn
tại là bất biến.
18
+ Dênông, thế kỷ V tr.CN (khoảng 490-430)
Ông là học trò của Pácmênít, ông có công đặt ra nhiều vấn đề biện chứng sâu
sắc về mối liên hệ giữa thống nhất và tính nhiều vẻ của thế giới, giữa vận động và
đứng im, giữa tính gián đoạn của thời gian và không gian, giữa tính hữu hạn và tính
vô hạn và về sự phức tạp trong việc thể hiện quá trình vận động biện chứng của sự
vật vào tƣ tƣởng, vào logic của khái niệm. Tuy nhiên, những nghịch lý của Apôria
của ông chỉ có thể giải quyết nếu đừng trên lập trƣờng duy vật biện chứng trong nhận
thức sự vật.
+ Empêđôcơlơ (khoảng. 483 – 423 trước CN)
Ông cho rằng nguồn gốc của mọi vận động của mọi sự vật là do sự tác động
của hai lực đối lập là “Tình yêu và Căm thù”. Empêđôcơlơ cũng có một số phỏng đoán
thiên tài về sự tiến hóa của thế giới hữu cơ. Sự giải thích này của ông tuy còn ngây thơ
nhƣng đã manh nha hình thành tƣ tƣởng biện chứng về quá trình tiến hóa của sinh vật
theo con đƣờng từ thấp tới cao, từ đơn giản tới phức tạp.
+ Đêmôcrít (460 -370 tr.CN)
Ông là một trong những ngƣời đã phát triển thuyết nguyên tử lên một trình độ
mới, một mặt thì ông tán thành lý thuyết tồn tại duy nhất và bất biến của Pácmênít khi
coi các nguyên tử là bất biến. Mặt khác, ông kế thừa quan điểm của Hêraclít cho rằng
mọi sự vật biến đổi không ngừng. Đêmôcrít nêu ra lý thuyết về vũ trụ học, lý thuyết
này đƣợc xây dựng trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần
tinh thần biện chứng tự phát và có một ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử triết học. Ông
khẳng định rằng vũ trụ là vô tận và vĩnh viễn, có vô số thế giới vĩnh viễn phát sinh,
phát triển và bị tiêu diệt. Quan điểm của Đêmôcrít về vận động gắn liền với vật chất là
một phỏng đoán có giá trị đặc biệt. Ông cho rằng vận động của nguyên tử là vĩnh viễn,
tuy nhiên ông không lý giải đƣợc nguồn gốc của sự vận động.
Dựa vào học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít đi tới quan điểm quyết định luận, đó
là sự thừa nhận ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên và khách quan của các hiện
tƣợng tự nhiên. Đây chính là đóng góp to lớn đáng kể của Đêmôcrít cho nền triết học
Hy Lạp cổ đại.
Về bản thể luận, Đêmôcrít có công đƣa lý luận nhận thức duy vật lên một bƣớc
tiến mới. Đêmôcrít chia nhận thức thành hai dạng: nhận thức cảm tính và nhận thức
19
chân lý, đây chính là nét mới của ông so với các nhà triết học trƣớc đó. Mặc dù triết
học của ông còn mang tính thô sơ, chất phác tuy nhiên những đóng góp của ông về các
tƣ tƣởng biện chứng và thế giới quan duy vật rất dáng kể.
+ Xôcrát (469- 399 tr.CN) và Platôn (427 – 347 tr.CN)
Xôcrát và Platôn là hai nhà triết học tiêu biểu của hệ thống triết học duy tâm
Hy Lạp cổ đại.
Xôcrát có đóng góp quan trọng vào việc tạo ra bƣớc tiến mới trong lịch sử phát
triển của triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là ngƣời đầu tiên đƣa đề tài con ngƣời trở thành
chủ đề trọng tâm nghiên cứu của triết học phƣơng Tây. Theo Xôcrát thì nếu không có
cái hiểu chung, cái phổ biến thì ngƣời ta không thể phân biệt đƣợc “cái thiện” với “cái
ác”, “cái tốt” với “cái xấu”. Nếu muốn phát hiện ra cái thiện phổ biến thì phải có
phƣơng pháp tìm ra chân lý thông qua các cuộc tranh luận, tọa đàm, luận chiến. Đây
chính là yếu tố biện chứng trong triết học của Xôcrát, tuy nhiên nó lại dựa trên lập
trƣờng duy tâm bởi vì Xôcrát cho rằng giới tự nhiên là do thần thánh an bày.
Nhà triết học Platôn là học trò của Xôcrát. Tất cả các quan điểm triết học của
ông đều chứng đựng những yếu tố biện chứng. Platôn thừa nhận sự vận động của thế
giới nhƣng chỉ là sự vận động theo sự điều khiển của ý niệm. Ông phân chia thế giới
thành hai loại:
- Thứ nhất, thế giới của những ý niệm: là thế giới tồn tại chân thực, bất biến,
vĩnh viễn và tuyệt đối. Là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính.
- Thứ hai, thế giới của các sự vật cảm tính: là thế giới tồn tại không chân thực
thƣờng xuyên biến đổi và phụ thuộc vào thế giới của những ý niệm.
Lý luận của Platôn chứa đựng những yếu tố biện chứng thông qua các khái
niệm đối lập và phƣơng pháp đối chiếu những mặt đối lập. Tuy nhiên đó là phép biện
chứng duy tâm, biện chứng của những các khái niệm, tách rời hiện thực, từ bỏ cảm
giác và chỉ nhận thức bắng tƣ duy thuần túy.
Nhìn chung, phép biện chứng duy tâm của Xôcrát và Platôn vẫn còn nhiều hạn
chế. Song, sự xuất hiện phép biện chứng của họ đã tạo điều kiện cho triết học Hy Lạp
cổ đại phát triển tốt hơn, hoàn thiện hơn.
20
+ Arixtốt (384 – 322 tr.CN)
Xu hƣớng duy vật và tƣ tƣởng biện chứng trong triết học tự nhiên của Arixtốt
thể hiện ông thừa nhận tự nhiên là toàn bộ sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận
động và biến đổi, không có bản chất của sự vật tồn tại bên ngoài sự vật, hơn nữa sự vật
nào cũng là một hệ thống và có quan hệ với sự vật khác. Với ông, vận động gắn liền
với các vật thể và với mọi sự vật hiện tƣợng của tự nhiên. Ông cho rằng vận động
không thể nào bị tiêu diệt. Song cuối cùng ông lại bị rơi vào vào duy tâm khi cho rằng
thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động, thế nhƣng do hạn chế về lịch sử và nhà tƣ
tƣởng của giai cấp chủ nô Hy Lạp nên về bản thể luận của triết học thì ông bị dao động
giữa hai chủ nghĩa: Duy vật và duy tâm, vì thế ông lại rơi vào phái nhị nguyên luận.
Nhìn bao quát thì triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện đƣợc một cách rõ ràng về
cuộc đấu tranh biện chứng và siêu hình, giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chính vì vậy nên V.I.Lênin đã coi phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại là khởi nguyên của lịch sử phép biện chứng.
- Phép biện chứng thời trung đại
Biện chứng thời trung đại hầu nhƣ không có, đây là một lƣu trần các sự phát
triển phép biện chứng. Ở phƣơng Đông vẫn chỉ duy trì phép biện chứng có đƣợc thời
cổ đại thậm chí tại Ấn Độ phận giá còn bị sụp đổ. Còn ở phƣơng Tây là sự bao trùm
của lệnh viện phán khoa học.
- Phép biện chứng tây Âu thế kỷ XV – XVIII
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII) sự trƣởng thành của tƣ tƣởng biện
chứng Tây Âu mang một ý nghĩa hết sức độc đáo. Phép biện chứng trong thời kỳ phát
triển dƣới sự thống trị của tƣ duy siêu hình máy móc. Nói chung các nhà triết học thời
kỳ này mang đậm tƣ duy siêu hình nhƣng cũng có những tƣ tƣởng biện chứng nhƣ tƣ
tƣởng về "sự phù hợp của các mặt đối lập" của Gioocdanơ Brunô (1548 -1600).
Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, kể từ các hạt vật
chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái này tiêu diệt cái kia
ra đời. Ông cũng khẳng định rằng nếu không theo nguyên tắc "các mặt đối lập phù hợp
với nhau" thì mọi nhà khoa học từ tự nhiên đến xã hội đều không làm việc đƣợc. Ngoài
ra Brunô còn có những tƣ tƣởng biện chứng của Ph.Bêcơn khẳng định vật chất không
21
tách rời vận động, nhận thức bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng.
Ông là ngƣời đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
- Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức
Đánh giá về nền triết học cổ điển Đức, Lênin đã viết: Dù có sự thần bí hoá duy
tâm, nhƣng phép biện chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng
và logic học và lý luận nhận thức. Trong các nền triết học trƣớc C. Mác thì triết học cổ
điển Đức có trình độ khái quát hoá và trừu tƣợng hoá cao với kết cấu hệ thống chặt
chẽ, logic. Đây là tiến bộ của nền triết học Đức so với các nền triết học khác.
Ph.Ăngghen khẳng định, đây là hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình
thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức từ
Cantơ đến V.Ph.Hêghen. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đƣợc
khởi đầu từ Cantơ, qua Phíchtơ, Senlinh, và phát triển đến đỉnh cao trong phép biện
chứng duy tâm của V.Ph.Hêghen sau đó suy tàn ở triết học Phoiơbắc.
Nếu phép biện chứng cổ đại chủ yếu đƣợc đúc kết và rút ra từ kinh nghiệm
cuộc sống hàng ngày thì phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã trở
thành một hệ thống lý luận tƣơng đối hoàn chỉnh và đã trở thành một phƣơng pháp tƣ
duy trong triết học phổ biến. V.I.Lênin cho rằng phép biện chứng duy tâm trong triết
học cổ điển Đức đã tạo ra bƣớc quá độ chuyển biến về lập trƣờng từ chủ nghĩa duy vật
siêu hình sang thế giới quan khoa học duy vật biện chứng. Có thể nhận thấy rằng phép
biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã hoàn thành cuộc cách mạng về
phƣơng pháp. Tuy nhiên đặc điểm chủ yếu của phép biện chứng duy tâm trong triết
học cổ điển Đức lại mang nặng tính chất tƣ biện. Vì vậy V.I.Lênin đã nhận định, cho
dù Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã hoàn thành cuộc cách
mạng về phƣơng pháp, nhƣng cuộc cách mạng đó lại ở tận trên trời, chứ không phải ở
dƣới trần gian. Trong cuộc sống hiện thực của loài ngƣời, và do vậy, phép biện chứng
đó cũng không tách khỏi tính chất gò ép, hƣ cấu, tóm lại là bị xuyên tạc.
Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về “Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển
Đức” thông qua phép biện chứng của một số triết gia tiêu biểu của thời kì này:
22
+ Phép biện chứng của Imanuen Cantơ (1724 – 1804)
Cantơ sinh ra trong một gia đình quý tộc Phổ ở Kennixbec, và học ở trƣờng đại
học tổng hợp Kennixbec. Sau đó ông giảng dạy môn triết học và các môn khoa học tự
nhiên tại đây. Ông đƣợc đánh giá là ngƣời sáng lập nên nền triết học cổ điển Đức.
Giả thuyết về sự hình thành vũ trụ từ những hạt bụi vật chất dƣới tác dụng của
các lực hút và đẩy vật chất và giả thuyết về sự lên xuống của thủy triều dƣới tác động
của mặt trăng và trái đất chính là hai phát minh lớn của ông. Hai phát minh này đã có ý
nghĩa lớn, nó xuất phát từ chính bản thân những tính chấc của vật chất để giải thích
giới tự nhiên mà không cần viện đến một lực lƣợng thần bí siêu tự nhiên nào cả. Bên
cạnh đó, hai phát minh này còn đem lại một quan điểm có tính chất biện chứng về giới
tự nhiên, chứng minh rằng giới tự nhên tác động qua lại lẫn nhau và vận động chuyển
hóa không ngừng.
Về nhận thức luận, Cantơ đƣa ra phạm trù “vật tự nó” là cái nằm ngoài khả
năng nhận thức của con ngƣời và tƣ duy khoa học. Cantơ vẫn đứng trên lập trƣờng của
tƣ duy siêu hình để giải quyết vấn đề khả năng nhận thức của con ngƣời, ông chƣa giải
thích đƣợc mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tƣợng của tồn tại.
+ Phép biện chứng của V.Ph.Hêghen (1770 – 1831)
V.Ph.Hêghen là một nhà biện chứng lõi lạc, ông là ngƣời đã xây dựng nên
phép biện chứng một cách có hệ thống trên lập trƣờng duy tâm khách quan. Triết học
của V.Ph.Hêghen chính là tiền đề lý luận cho triết học Mácxít.
V.Ph.Hêghen đã có công lao trong việc phê phán tƣ duy siêu hình và ông là
ngƣời đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tƣ duy dƣới dạng một quá
trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Ông khẳng định
phép biện chứng là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong
phạm vi hiện thực, cái biện chứng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học. Nhƣ vậy,
theo V.Ph.Hêghen hiện thực không phải là tồn tại nói chung mà là tồn tại trong tính tất
yếu của nó, đó là điều hiện thực trong sự phát triển. Những luận điểm về phép biện
chứng của triết học V.Ph.Hêghen đƣợc thể hiện rõ nhất và sâu sắc nhất trong logic học.
Biện chứng của khái niệm trong khoa học logic bao gồm: những khái niệm không
những khác nhau mà có mối liên hệ với nhau; mỗi khái niệm đều trải qua một quá trình
phát triển đƣợc thực hiện trên ba cơ sở nguyên tắc nhƣ sau: