Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Cơ sở lý luận của lê nin về tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên cnxh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.23 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA LÊ NIN VỀ NỀN
KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN............................................................2
1.1.

Lý luận chung về nền kinh tế nhiều thành phần.......................2

1.1.1.

Khái niệm.................................................................................2

1.1.2.

Vai trị.......................................................................................2

1.2. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ ở nước ta:.............................................................3
1.2.1. Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ.................................3
1.2.2. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam....................5
1.3. Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. .7
1.3.1. Đặc trưng, vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ ở nước ta:..............................................................................7
1.3.2. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế:...................................9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN
KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CNXH CỦA NƯỚC TA............................................................................12
2.1. Thực trạng nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta..............12
2.2. Một số giải pháp.............................................................................14
2.2.1. Củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh......................14


2.2.2. Phát huy tiềm năng hiện có.......................................................15
2.2.3. Tiến hành đồng bộ những giải pháp vĩ mô................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................19
i


TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................20

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở
nước ta hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng
sản xuất mà còn tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu)
với nhiều hình thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ
gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản(sở hữu tư nhân tư bản), của tập đoàn tư
bản… và cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ công hữu) với các hình thức sở hữu
như: sở hữu tồn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể…, đồng thời cịn có
hình thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu
trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh
tế.
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Sự nghiệp đổi mới kinh tế dịi hỏi phải
nhanh chóng tiếp cận những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của nhiều
nước trên thế giới. Quá trình đổi mới kinh tế cần có những cán bộ kinh tế có
kiến thức có phương pháp thích hợp với kinh tế thị trường.
Để làm được điều đó chúng ta cần phải phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XHCN. Đây là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở Việt Nam hiện nay. Do đó, sau một thời gian tìm

hiểu, tơi đã lựa chọn đề tài “ Cơ sở lý luận của Lê nin về tính tất yếu của
nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ q độ lên CNXH” để có cái
nhìn sâu và rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA LÊ NIN VỀ NỀN
KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN
1.1.

Lý luận chung về nền kinh tế nhiều thành phần

1.1.1. Khái niệm
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạm dịch sang tiếng Anh là Multisector economy structure.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là cơ cấu kinh tế trong đó các thành thành phần kinh tế cùng tồn tại và
phát triển như một tổng thể, giữa chúng có quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh với nhau.
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên
một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định,
trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất (mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào
thống trị để xác định từng thành phần kinh tế.
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với
nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gờm nhiều
thành phần kinh tế.
1.1.2. Vai trị
Sự tờn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là một tất yếu khách

quan, mà còn có vai trò to lớn vì:
- Một là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lí phù hợp với trình độ khác
nhau của lực lượng sản xuất.

2


Chính sự phù hợp này đến lượt nó, có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất
lao động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần
kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Hai là, nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các
chủ thể kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, tạo tiền đề đẩy
mạnh cạnh tranh, khắc phục tình trạng độc quyền.
Điều đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cảI thiện và nâng cao đời
sống của nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế xã hội.
- Ba là, tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá
độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những "cầu nối",
trạm "trung gian" cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Bốn là, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và cùng với nó là các
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh là một nội dung cơ bản của việc hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Năm là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh
tế của các giai cấp, tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực, các tiềm năng của đất nước, như sức lao động, vốn, tài nguyên
thiên nhiên, kinh nghiệm quản lí để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
1.2. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế

trong thời kỳ quá độ ở nước ta:
1.2.1. Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ
Thời kỳ quá độ là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, trong đó kết cấu kinh tế
- xã hội vừa bao hàm những yếu tố của xã hội cũ đang suy thoái dần, vừa bao
hàm những yếu tố của xã hội mới ra đời, đang lớn lên từng bước, nhưng chưa
3


giành tồn thắng. Điều đó có nghĩa là nó mang tính chất quá độ. V.I. Lênin
viết “danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có
nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những
mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ ai cũng đều
thừa nhận là có”. (V.I. Lênin : toàn tập, Nxb Tiến Bộ. 1978, t.43, tr248)
Lênin cũng chỉ ra rằng, ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phổ biến có
ba thành phần kinh tế cơ bản : kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư bản chủ
nghĩa và kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ.
Vận dụng tư tưởng của Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng
ta khẳng định, ở nước ta hiện có các thành phần kinh tế sau:
-

kinh tế Nhà nước

-

kinh tế hợp tác

-

kinh tế tư bản Nhà nước


-

kinh tế cá thể tiểu chủ

-

kinh tế tư bản tư nhân
Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế nói trên ở nước ta là tất yếu. Tính

tất yếu đó được quy định bởi các điểm sau đây:
-

Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền

và bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì một đòi hỏi khách quan
là phải từng bước xây dựng cở sở kinh tế - xã hội của chế độ mới - chế độ sở
hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, với hình thức sở hữu Nhà nước xã
hội chủ nghĩa và sở hữu tập thể. Kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác hình thành
trên cơ sở chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
-

Do lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, các

ngành và trong nội bộ từng vùng, do tính chất quá độ từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
4


nước ta tất yếu còn kinh tế tư bản tư nhân , kinh tế cá thể của nông dân, thợ
thủ công, người làm thương nghiệp, dịch vụ và kinh tế tự nhiên.

-

Để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội

chủ nghĩa , các thành phần kinh tế phải được cải tiến. Khơng htể “xố bỏ” hay
‘chuyển đổi”các thành phần kinh tế một cách chủ quan duy ý chí, mà phải căn
cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tính chất của từng ngành
nghề mà từng bước hình thành quan hệ sản xuất mới từ thấp đến cao với sự đa
dạng về hình thức sở hữu. Ph.Ăngghen viết : “bất cứ một sự cải tiến nào về
mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực
lượng sản xuất mới, khơng cịn phù hợp với quan hệ sản xuất cũ nữa.
1.2.2. Xuất phát từ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau khi hoàn
thành cuộc đấu tranh chống xâm lược, đất nước đã thống nhất. Vào thời điểm
đó nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhưng hết sức nhỏ bé
và còn tồn tại nhiều yếu điểm, hạn chế cần phải khắc phục. cụ thể :
a.

Một số thành tựu đạt được :
Khi bước vào thời kỳ quá độ, nước ta cơ bản đã xây dựng được một

nền kinh tế quốc doanh có năng lực đáng kể và giữ vai trò nòng cốt, chủ chốt
trong nền kinh tế. Trước thời kỳ quá độ và cả trong thời gian đầu của thời kỳ
quá độ nước ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế thuần khiết XHCN,
nghĩa là chỉ tập chung phát triển những thành phần kinh tế XHCN, ra sức
quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư nhân và các thành phần kinh tế phi XHCN.
Do vậy, Đảng và nhà nước tập chung phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế
tập thể và đã đạt được những thành công nhất định. Đến năm 1975, nước ta có
hệ thống nơng trường quốc doanh với số lượng lớn, thu hút hàng trăm nghìn
cơng nhân và hơn 3000 máy kéo. Các ngành trong kinh tế quốc doanh như

công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải … đều được chú trọng phát
5


triển. Nhiều nghành công nghiệp như công nghiệp điện đã có những đóng góp
đáng kể tạo ra điện năng phục vụ cuộc sống và sản xuất. Nhờ đó cuộc sống
của người dân từng bước được nâng cao.
b.

Những mặt hạn chế :
Tuy chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng chúng ta

vẫn còn gặp phải rất nhiều những mặt cịn hạn chế, những nhược điểm trong
q trình xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Trước hết, ở nước ta trong thời kỳ quá độ nền kinh tế hàng hố cịn
kém phát triển, kinh tế mang nặng tính tự cấp tự túc, . Đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế mang nặng
tính sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu là một trong
những hạn chế của nước ta trong suốt thời kỳ này. Hầu hết các sản phẩm chủ
yếu của nền kinh tế quốc dân tính bình quân đầu người trong năm 1975 còn ở
mức thấp, lương thực bình qn quy thóc đạt khoảng 200kg/người.
Cơ cấu kinh tế nước ta cịn mất cân đối. Nước ta nói chung vẫn là một
nước nông nghiệp lạc hậu với một tỷ lệ lớn lao động nằm trong nông nghiệp,
nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. các ngành
kinh tế vẫn tăng trưởng và phát triển chưa xứng với tiềm năng. sản xuất trong
nước không đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng, thu không đủ chi. Do phần
vay nợ và dựa vào viện trợ nước ngồi chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Nước ta
chưa có thị trường theo đúng nghĩa, năng xuất lao động còn thấp, lao động thủ
công vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất
vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Do vậy, năng suất lao động trong các

ngành còn thấp, sản lượng sản xuất ra chưa nhiều và chưa đáp ứng đủ nhu
cầu. Vì thế, thu nhập của người lao động còn thấp, đời sống nhân dân cịn gặp
nhiều khó khăn. Ngân sách nhà nước khơng lớn do đó khơng đủ khả năng để
đầu tư phát triên các ngành kinh tế đúng mức và tương xứng với tiềm năng.
6


Do những thiếu sót trong những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế
tập chung trong thời kỳ này, chúng ta mới chỉ chú trọng phát triển kinh tế
quốc doanh, kinh tế tập thể còn các thành phần kinh tế khác chưa được coi
trọng vì thế kinh tế nước ta phát triển không cân đối. Chúng ta chưa thấy được
vai trị của, vị trí và đóng góp của các thành phần kinh tế này là rất quan trọng
trong giai đoạn đầu để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, vì
thế chúng chưa được phát triển tương xứng với vị trí và tiềm năng vốn có của
mình.
1.3. Cơ cấu sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
1.3.1. Đặc trưng, vị trí và vai trị của các thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ ở nước ta:
a. Kinh tế nhà nước :
Là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước các xí
nghiệp quốc gia và tài sản thuộc quyền sở hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ,
rừng, biển ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước ...
Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn doanh nghiệp nhà nước phân biệt được
hai phạm trù này nhận thức đầy đủ vai trò kinh tế nhà nước là một bước phát
triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới.
Kinh tế Nhà nước dựa trên hình thức sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất .
Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, làm đòn bẩy
đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giả quyết những vấn đề xã hội, mở đường,
hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, là lực lượng
vật chất quan trọng để Nhà nước thược hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ

mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
b. Kinh tế tập thể:

7


Là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết
hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu
quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng từ thấp đến cao
từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã theo tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi,
quản lý dân chủ thực hiện đúng luật hợp tác xã. Kinh tế tập thể được phát
triển, rộng rãi và đa dạng trong các ngành nghề ở nơng thơn và thành thị, nó
giữ vai trị quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
c. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước:
Đó là đơn vị kinh tế hình thành do sự liên doanh giữa nhà nước xã hội
chủ nghĩa với tư bản tư nhân trong nước hoặc với tư bản tư nhân nước ngoài,
kinh tế tư bản nhà nước ra đời cịn do nhà nước xã hội chủ nghĩa góp vốn cổ
phần hoặc do tư nhân ở trong và ngoài nước thuê tài sản.
Kinh tế tư bản nhà nước là cầu nối giữa sản xuất nhỏ với sản xuất lớn, hoặc
“nhịp cầu trung gian” đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã khẳng định kinh tế
tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn
về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản, vì lợi ích của
bản thân họ cũng như công việc xây dựng và phát triển đất nước.
d. Kinh tế cá thể, tiểu chủ :
Bao gồm những đơn vị kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân qui
mô nhỏ về tư liệu sản xuất và hoạt động dựa vào sức lao động của từng hộ là
chủ yếu. Trong một số ngành nghề ở nông thôn và thành thị kinh tế cá thể và

tiểu chủ có vị trí quan trọng nó có khả năng tận dụng tiềm năng về vốn, sức
lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Nhưng đến một
trình độ nhất định, việc mở rộng sản xuất kinh doanh của kinh tế cá thể tiểu
8


chủ sẽ bị hạn chế vì thiếu vốn, trình độ cơng nghệ thấp và khó tìm thị trường
tiêu thụ, bởi vậy cần được sự hỗ trợ của nhà nước để khắc phục những hạn
chế nói trên.
Các đơn vị kinh tế cá thể tiểu chủ có thể tồn tại độc lập, hoặc tham gia
các loại hình kinh tế tập thể, hay liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà
nước dưới nhiều hình thức.
e. Kinh tế tư bản tư nhân:
Là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản góp lại để
sản xuất kinh doanh và thuê mướn nhân công. Kinh tế tư bản tư nhân có nhiều
hình thức là xí nghiệp tư doanh hay công ty trách nhiệm hữu hạn.
Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong điều kiện quá độ lên CNXH
ở nước ta, thành phần kinh tế này cịn có vai trị đáng kể xét về phương diện
phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện
giải quyết các vấn đề xã hội.
Các thành phần kinh tế có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau,
hoạt động đan xen nhau vào trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Vai
trò, tỷ lệ của mỗi thành phần kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, hiệu quả sản xuất - kinh doanh và sự đóng góp của chúng vào
sự phát triển chung của nền kinh tế.
1.3.2. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế:
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm nhiều
thành phần khác nhau, trong đó:
-


Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư

liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có sự độc lập tương
đối và có bản chất riêng, nhưng trong hoạt động sản xuất - kinh doanh khơng
có sự ngăn cách, có thể hỗn hợp, đan kết với nhau (cùng một chủ sở hữu có
9


thể tham gia nhiều quan hệ sở hữu, cùng một đối tượng sở hữu có nhiều quan
hệ sở hữu ), hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng.
-

Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do Nhà nước hướng dẫn, điều

tiết, kiểm soát, cùng với việc kinh tế Nhà nước nắm giữ vai trò chủ đạo, các
chủ thể sản xuất - kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với
nhau, bỏ sung cho nhau, vừa cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật.
Tuy vậy các thành phần kinh tế ấy đều nằm trong tổng thể nền kinh tế
quốc dân, có mối liên tương tác và mâu thuẫn với nhau.
Tính thống nhất biểu hiện ở chỗ : mỗi thành phần kinh tế là một bộ
phận của nền kinh tế xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
các thành phần kinh tế nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội, liên hệ
phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Đó là sụ thống nhất “khơng hữu
cơ” ; sự thống nhất đó khơng phải tự nhiên mà có mà phải qua hợp tác và đấu
tranh để hợp tác tốt hơn.
Các thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế và quan hệ kinh tế khác
nhau. Vì vậy giữa chúng có sự mâu thuẫn với nhau : mâu thuẫn giữa tư hữu
và công hữu, giữa lao động và bóc lột , giữa tính kế hoạch và tính tự phát ,
mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tế ,về xu hướng chính trị, về hệ tư tưởng. ở một

nước sản xuất nhỏ chiếm ưu thế, thì trong nội bộ kết cấu kinh tế quá độ “là
giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh
chống lại cả chủ nghĩa tư bản Nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội “.
Khơng thể giải quyết mâu thuẫn nói trên bằng cách xoá bỏ kinh tế tư
bản tư nhân và kinh tế cá thể, mà phải bằng cách sử dụng hướng dẫn và tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, hướng các thành phần kinh tế
tư nhân đi vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước và hiệp tác lao động,
liên kết, liên doanh để từng bước hướng theo con đường xã hội chủ nghĩa.

10


Trong thời kỳ quá độ, mỗi thành phần kinh tế đều khơng ngun dạng
(ít nhiều đã mang tính chất mới) : kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác còn
nhiều mặt yếu kém và tiêu cực, chưa thể hiện đầy đủ tính chất xã hội chủ
nghĩa. Dù các thành phần kinh tế khơng tồn tại biệt lập và ít nhiều mang tính
chất mới, cũng khơng vì thế mà kết luận rằng, các thành phần kinh tế đều
mang tính chất xã hội chủ nghĩa : do đó, khơng cần phân biệt kinh tế Nhà
nước, kinh tế hợp tác và kinh tế tư nhân, cá thể. Trong thời kỳ quá độ, những
người sản xuất các thể, các nhà tư bản tư nhân chịu sự quản lý của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa và sự tác động của kinh tế xã hội chủ nghĩa, khơng cịn giữ
ngun bản chất riêng của minh, tuy nhiên nếu nền kinh tế Nhà nước không
được củng cố và phát triển, nếu sự quản lý của Nhà nước lỏng lẻo , nó sẽ tự
phát đi theo con đường riêng của mình, chứ khơng phải là “tất yếu định
hướng theo con đường hợp tác xã hội chủ nghĩa”.
Các thành phần kinh tế thống nhất và mâu thuẫn với nhau, hợp thành
cơ câu các thành phần kinh tế. Cơ cấu này không phải là một tập hợp tuỳ tiện,
giản đơn những thành phần kinh tế khác nhau, mà phải bảo đảm hai tiêu
chuẩn:
-


Tính định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy kinh tế Nhà nước phải không

ngừng củng cố và phát triển có hiệu quả để từng bước nắm giữ vai trò chủ
đạo, định hướng sự vận động của nền kinh tế, tiến tới xác lập phát triển sản
xuất mới.
-

Kết cấu hợp lý, nghĩa là phải tạo điều kiện khai thác, sử dụng có hiệu

quả các tiềm năng kinh tế, các nguồn lực của xá hội, giả phóng và tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển ; tạo nguồn lực để đẩy nhanh nhịp độ
tăng trưởng của nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động năng động,
đáp ứng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng trong nước, hoà nhập vào thị trường
thế giới với hiệu quả kinh tế xá hội cao.
11


Chỉ có như vậy mới bảo đảm sự phát triển kinh tế ở nước ta theo định hướng
xã hội chủ nghĩa,mới giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng kinh
tế, động viên và tạo điều kiện cho mọi thành phân kinh tế, mọi người , mọi
gia đình… làm giàu cho mình và cho đất nước.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CNXH CỦA NƯỚC TA
2.1. Thực trạng nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta
Dựa trên sở hữu tư liệu sản xuất hàng năm thành phần kinh tế quốc
doanh đã tạo ra khoảng 35-40% GDP và từ 22-30% TNQD, đóng góp vào
ngân sách từ 60-80% số thu của ngân sách nhà nước
Thành phần kinh tế này nắm giữ toàn bộ CN nặng, hàng tiêu dùng...

Tuy đạt nhièu thành tích song khu vực này vẫn chưa đảm bảo được tái sản
xuất giản đon, sự tăng trưởng kinh tế thực hiện theo mơ hình chiều rộng
( tăng vốn , tăng lao đọng), đóng góp so với số chi của nhà nước là 1:3. Một
số xí nghiẹp đã vượt qua khó khăn , tạo sự ổn định đi lên đáp ứng được nhu
cầu của xã hội & dân cư ,dập tắt những cơn sốt hành hoá ổn định giá cả song
những chuyển biến dó chưa có cơ sở vững chắc và lâu dài. Cuối năm1991 có
500 xí nghiệp phá sản, việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đủ điều kiện là
2/3 số doanh nghiệp hiện thời. Cổ phần hoá vẫn chưa tién hành được nhiều.
Dờu ấn của cơ chế cũ vẫn chưa xố bỏ hồn tồn , quen sống trong bao cấp
nên vẫn chưa nhạy cảm với thị trường
Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu tạp thể về TLSX. Đây là thành phần
kinh tế còn thấp hơn kinh tế quốc doanh nhưng sản xuất hàng hoá cung ứng
cho sản xuất & tiêu dùng cá nhân. Công nghiệp số HTX năm 1991 giảm 47%
nên giá trị sản lượng cũng giảm từ 23,9% xuống còn 6.8%. 75% HTX giải thể
, số còn lại chỉ cầm chừng. Xuất hiện kinh tế nơng hộ bước đầu đã giải phóng
mức sản xuất khai thác tiềm năng lao động & vốn của dân.nhà nước tiếp tục
12


đổi mới & kiện toàn kinh tế tập thẻ theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ , bình
đẳng , phát huy & kết hợp hài hoà sức mạnh tập thể- xã viên. Phát triển các
hình thức KTTT trong NN, TTCN, mua bán , tín dụng ở những nơi cần thiết
và có điều kiện
Việc nhận thức thành phần kinh tế tư bản nhà nước còn rất hạn hẹp và
rất đơn giản mặc dù nó có vị trí rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế những
thành phần ở nước ta. Thành phần kinh tế này gồm nhiều loại hình doanh
nghiệp thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp . Đến tháng 7/1992 có 461 dự án đầu
tư với số vốn 3.563 triệu USD; trong đó hình thức liên doanh là chủ yếu
chiếm 342 dự án & 55% tổng số vốn . Đến tháng 6/1994 có 800 dự án ... Kinh
tế tư bản nhà nước có vai trị quan trọng việc tiềm năng to lớn về vốn, cơng

nghẹ khả năng quản lý vì lợi ích của các nhà tư bản. của đất nước. Nhà nước
ta đã tién hành nhiều hình thức liên doanh với nước ngoài nhằm tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp VN phát triển
Trên thực tế việc phân loại các thành phần kinh tế tư nhân vẫn còn
chưa thống nhất về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Mặc dù khu vực này moqứi
được hồi sinh 1989 đã phát triển mạnh . Tính đến tháng 8/1992 có 571 hộ
kinh doanh được phép chuyển thành doanh nghiệp tư nhân , 412 hộ chuyển
thành Cong ty trách nhiệm hữu hạn, 29 hộ chuyển thành cổ phần . Trên thị
trường thành pần kinh tế này đua tranh với các thành phần kinh tế khác nên đã
chiếm lĩnh bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng . Theo sự phân loại thì kinh tế nơng hộ
cũng thuộc thành phần kinh tế này . Có 62,8% hộ tự cáp tự túc ; hộ nghèo và
q nghèo cịn 14,8%....Nhìn chung khu vực này vẫn cịn gặp nhiều khó khăn
về vốn , nguyên liệu , thị trường & quy chế : 40% doanh nghiệp gặp khó khăn
vcề vốn, 8% vè nguyên liệu ,7% vè thị trường , 4% về quy chế .
Kinh tế cá thể tiểu chủ có thể kinh doanh như các tác nhân kinh tế độc
lập . Nó tác động rất nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Về bản chất là
kinh tế cá thể nhưng lại thể hiện như các cơ sở gia công cho doanh nghiệp
13


hoặc HTX, nó được khuyến khích trong các nghành ở cả thành thị lẫn nông
thôn. Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu cá nhân về tư liệu sản
xuất & lao động trực tiếp của bản thân người lao động.Khu vực kinh tế này
cịn thủ cơng , năng suất thấp , sản xuất nhỏ phân tán nhưng đã đóng góp rất
nhiều cho nền kinh tế nước ta.
2.2. Một số giải pháp
2.2.1. Củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, những bước đi và biện pháp phải đối
mới. Đổi mới trước tiên và cấp bách là sửa chữa bước đi sai lầm trước đây
bằng giải pháp xác định lại phạm vi kinh tế quốc doanh. Trước đây chúng ta

đã phát triển kinh tế quốc doanh tràn lan, tạo nên q trình xã hội hố (XHH)
hình thức, do vậy đến nay phải lựa chọn lại theo hướng giảm bớt số cơ sở
KTQD hiện có. Đấy là vấn đề dễ đạt được sự nhất trí nhưng giữ lại cái gì,
giảm bớt ở chỗ nào và bằng biện pháp nào không phải là việc đơn giản, vì nó
khơng chỉ là vấn đề kinh tế mà cịn là vấn đề chính trị và xã hội.
Giải quyết vấn đề kinh tế quốc doanh đang là một trong những nội
dung lớn của đường lối đổi mới kinh tế của nhiều nước, do vậy đã có hàng
loạt biện pháp được áp dụng. ở ấn Độ đã tiến hành hiện đại hoá và đa dạng
hoá sản xuất, sử dụng và bảo dưỡng máy móc thiết bị đúng tiêu chuẩn kỹ
thuật nhằm nâng cao công việc sử dụng công suất các cơ sở quốc doanh, cho
phép các xí nghiệp quốc doanh tự chủ về vốn đầu tư, xây dựng mục đích và
kinh doanh sản xuất, sửa đổi giá cho phù hợp, bãi bỏ hình thức trợ cấp giá,
nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo xí nghiệp và học vấn của công nhân. ở
Inđônêxia đã áp dụng các biện pháp đánh giá và phân loại hệ thống xí nghiệp
quốc doanh, đổi mới cơ chế bằng cách thực hiện cơ chế hoạch toán chặt chẽ,
cắt giảm các khoản trợ cấp không cần thiết, cải tổ bộ máy kết hợp với phong
trào quần chúng chống tham nhũng chuyển một bộ phận KTQD sang tư nhân.

14


Ngồi ra Inđơnêxia cịn áp dụng biện pháp chế hố các đạo luật hoá văn bản
về KTQD.
Như vậy, việc sử lý KTQD các nước đã áp dụng nhiều biện pháp, sở dĩ
như vậy vì khơng có biện pháp nào hồn chỉnh cả, mỗi biện pháp vừa có mặt
tích cực vừa có mặt hạn chế. Chỉ có trên cơ sở sử dụng nhiều biện pháp mới
tạo ra được sức mạnh tổng hợp, chúng ta phải kết hợp nó để hạn chế thấp nhất
những tiêu cực, tăng các mặt tích cực để KTQD đạt hiệu quả mong muốn.
2.2.2. Phát huy tiềm năng hiện có.
Muốn phát triển sản xuất thì ngun lý mn thủa là phải tăng xuất

đầu tư, trước hết là đầu tư về tài chính. Nguồn tài chính này trong dân khá lớn
nhưng chưa được sử dụng để phát triển sản xuất, để các nguồn này có thể góp
phần tăng thêm suất đầu tư cho sản xuất kinh doanh cần phải có hàng loạt các
biện pháp.
Có thể bắt đầu ngay từ tên gọi. Không nên xuất phát từ KTQD để đặt
tên cho các thành phần kinh tế (TPKT) khác, gọi là “ngoài quốc doanh”.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần cho dù kinh tế quốc doanh giữ vai trị chủ
đạo thì vẫn phải đảm bảo tính bình đẳng của các thành phần kinh tế và thực
chất mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc
dân thống nhất, khơng có bộ phận này là “trong” cịn các bộ phận khác là
“ngồi”. Thay đổi cách gọi cũng là giải pháp xoá đi tâm lý tự ti, bi quan của
các thành phần kinh tế khác mà một thời họ đã bị chèn ép, lãng quên.
Việc cải tạo các thành phần kinh tế phải được tiến hành theo nguyên tắc
tự nguyện và trên cơ sở hoàn cảnh XHH thực tế. Giải pháp đạt hiệu quả cao
chính là khơng cô lập các thành phần kinh tế với nhau mà phải sử dụng các
hình thức hợp doanh, đan xen các hệ sử dụng khác nhau vào trong cùng một
lĩnh vực, thậm chí trong cùng một cơng ti, xí nghiệp. Các xí nghiệp hợp
doanh giữa nhà nước và tư nhân, giữa hợp tác xã (HTX) và tư nhân, giữa nhà
15


nước và HTX, tư nhân cần phải trở thành một trong các hình thức cơ bản tổ
chức các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Trong sản xuất nơng nghiệp, do tính đặc thù của nó nên ngồi việc phải giải
quyết tốt quyền sở hữu ruộng đất lâu dài cho hộ nơng dân. cịn phải chuyển
kinh tế HTX hiện nay thành kinh tế nông trại. Kinh tế hộ nhận khốn là cơ sở
hình thành kinh tế nông trại và các tổ chức nông trại. Đây cũng đang là xu
hướng chung của nền nông nghiệp thế giới. Trong điều kiện nước ta hiện nay,
không gian tổ chức các nông trại lớn và chưa vội hợp tác nhiều nơng trại với
nhau. Có thể mỗi nhóm chỉ nên 5-20 hộ tự nguyện góp ruộng đất, lao động và

tiền vốn để sản xuất kinh doanh. Ngồi ra cịn có các hình thức hợp tác khác
như : Các nơng trại chung nhau mua “đầu vào” hoặc chung nhau bản hoặc
chung nhau bản “đầu ra” hoặc cũng thể hợp tác kinh doanh. Tổ chức nông trại
và sự hợp tác giữa các nơng trại chính là hình thức HTX nơng nghiệp theo mơ
hình mới cần đạt được.
Để nhân dân n tâm bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh và hoạt động đúng
hướng. Nhà nước phải đưa ra được một hệ thống các văn bản pháp quy như
luật kinh doanh, luật thừa kế, luật chuyển nhượng, luật thuê mướn lao động…
Đồng thời hoàn thiện chế độ đăng ký kinh doanh, kế toán, thống kê, thuế, hợp
đồng kinh tế. Các luật và chế độ này khơng chỉ nhằm đảm bảo lợi ích của nhà
nước mà phải góp phần thoả đáng 3 lợi ích: Nhà nước-tập thể-cá nhân,
khuyến khích làm giàu trên cơ sở bỏ vốn kinh doanh đúng pháp luật.
2.2.3. Tiến hành đồng bộ những giải pháp vĩ mơ
Hồn thiện nhanh chóng hệ thống tài chính và ngân hàng bằng những
cơng nghệ kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại, đảm bảo thông suốt trong và ngồi
nước. Đại bộ phận, các khoản thanh tốn, ngân hàng phải đảm đương được
qua bộ máy của mình; sử dụng tiền mặt chỉ ở mức hạn chế. Tín dụng ngân
hàng phải thực hiện đi vay để cho vay chứ không dựa vào nguồn phát hành và
chủ yếu đảm bảo cho kinh tế quốc doanh như hiện nay. Hoạt động tài chính
16


cũng phải được đổi mới, lấy thu lương chi, thu đủ và chi đúng. Trong điều
kiện nguồn thu có hạn, không nên chi quá khả năng bằng cách vay nợ nước
ngồi và phát hành. Điều đó chỉ dẫn đến “lạm phát” thì khơng thể nâng cấp
bất cứ ngành nào, lĩnh vực nào, do đó cần phải từ bỏ ngay ý định nâng cấp
ngành này hay lĩnh vực kia bằng lạm phát. Lâu nay, tài chính nước ta thường
chạy theo nhu cầu chi quá lớn của một số ngành, một số lĩnh vực trong khi
nguồn thu hạn hẹp. Đây rõ ràng khơng thực tế. Do đó chống lạm phát khơng
đạt được mục tiêu đề ra - phải nhanh chóng xây dựng được một thị trường đầy

đủ. Ơ nước ta hiện nay còn thiếu nhiều trung tâm quan trọng của nền sản xuất
hàng hoá như : Thị trường vốn, thị trường lao động ...
Thời đại ngày nay, thông tin được coi là yếu tố của lực lượng sản xuất.
Thông tin là sức mạnh của quyền lực. Do vậy, phải hoàn thiện các hệ thống
thông tin kỹ thuật phục vụ cho các nhà doanh nghiệp và phát huy dân chủ hoá
trong dời sống kinh tế. Hệ thống thông tin của nước ta hiện nay cịn rất yếu và
tổ chức chưa hợp lý, thơng tin bị chia cắt, số người hiểu biết về thông tin chưa
nhiều. Để đổi mới hoạt động này phải có hoạt động thông tin kinh tế là một
ngành dịch vụ, trong đó tất có các thành phần kinh tế cá thể và cần thiết tham
gia.
Xây dựng đội ngũ các doanh nghiệp giỏi, các nhà quản lý vĩ mơ có tài,
đồng thời liên kết họ lại. Cái thiếu hụt lớn nhất của chúng ta hiện nay là ở chỗ
: Chúng ta đội ngũ cán bộ khá đông đảo nhưng chất lượng khơng phù hợp với
q trình đổi mới kinh tế. Có một bộ phận quá quen với cơ chế quản lý cũ,
đến nay hồn tồn khơng có đủ khả năng thích ứng với cơ chế mới, một bộ
phận khác chưa được đào tạo trước khi bố trí vào các vị trí then chốt trong các
đơn vị sản xuất kinh doanh. Tóm lại là đại bộ phận số cán bộ hiện có phải
đựợc bố trí, sắp xếp và đào tạo lại. Về chính sách sử dụng cán bộ thì mạnh
dạn phải được coi là một trong những phương châm chủ yếu nếu khơng muốn
nói là số một.
17


Nhanh chóng phổ cập nghề cho người lao động. Mỗi năm nước ta có
trên một triệu thanh niên đến tuổi lao động. Hệ thống trường chuyên nghiệp
hiện mỗi năm chỉ đào tạo được 20 vạn người, chủ yếu là lao động chính qui,
dài hạn theo yêu cầu của nhà nước. Như vậy phần lớn thanh niên đến tuổi lao
động không được đào tạo nghề, do đó vấn đề tiếp thu đào tạo và bồi dưỡng họ
phải được đặt ra. Hướng ưu tiên, đầu tư của thế giới hiện nay là lao động có kĩ
thuật chứ khơng phải là sử dụng lao động khơng có kĩ thuật. Giá cả sức lao

động sẽ như những năm trước đây, những sản phẩm hàn hố có thị trường lớn
là sản phẩm có hàm lựơng chất xám và khoa học kỹ thuật cao.

18



×