Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Thiết kế và tổ chức một số trò chơi học tập trong môn luyện từ và câu lớp 3 theo định hướng phát triển năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 54 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong khóa luận chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong đề tài đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.

Tác giả

Trần Tố Uyên


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
HS
SGK
SGV
BGH
GV
GVTH
HSTH
LTVC

Nghĩa
Học Sinh
Sách Giáo Khoa
Sách Giáo Viên
Ban Giám Hiệu
Giáo Viên
Giáo viên Tiểu học
Học sinh Tiểu học
Luyện từ và câu




PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Bên cạnh việc học tốn để phát triển tư duy logic thì mơn Tiếng Việt
cũng chiếm một vai trị khơng kém phần quan trọng. Việc học tiếng việt sẽ
giúp các em hình và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt,
các em sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình
một cách chính xác và biểu cảm.
Ngoài ra, tầm quan trọng của Tiếng Việt ở bậc tiểu học cịn hướng đến
việc hình thành các kỹ năng mềm, kỹ năng sống cần thiết cho trẻ. Nội dung
kỹ năng sống được thể hiên ở tất cả các nội dung của mơn học. Những kỹ
năng đó chủ yếu là: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng suy nghĩ
sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng làm chủ bản thân,..Thông qua các kỹ
năng này sẽ giúp trẻ nhận biết được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, biết
tự nhìn nhận đánh giá đúng về bản thân để tự tin, tự trọng và không ngừng
vươn lên trong học tập cũng như cuộc sống. Tiếng Việt sẽ dạy trẻ biết cách
giao tiếp, ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với người thân, với cộng
đồng và với môi trường tự nhiên, biết sống tích cực, chủ động trong mọi điều
kiện, mọi hồn cảnh.
Với học sinh lớp 3, do đặc thù tâm sinh lý lứa tuổi, trẻ vẫn còn ham
chơi, chưa thực sự chú tâm tiếp thu kiến thức. Vì vậy việc dạy học nhất là
phân mơn tập đọc địi hỏi phải khơi gợi được hứng thú tìm tịi, khả năng tiếp
nhận của trẻ. Thực tế cho thấy, việc tạo cho học sinh hứng thú nhận thức
trong học tập là một trong những yếu tố tâm lý đảm bảo tính tích cực, độc lập,
sáng tạo. Đối với học sinh tiểu học, do đặc điểm về tâm lý lứa tuổi, các em
cần được “Học mọi nơi, mọi lúc, từ mọi người, bằng mọi cách, thông qua mọi
nội dung”. Việc khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh luôn là một yêu cầu
trong dạy học và đòi hỏi ở giáo viên sự linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp,
cách thức tổ chức cho học sinh tiếp cận kiến thức.



Hiện nay việc đổi mới phơng pháp dạy học là một yêu cầu cấp bách đối
với mỗi GV. Có nhiều yếu tố góp phần quyết định sự thành cơng của việc đổi
mới phương pháp dạy học. Trò chơi học tập là một hình thức tích cực hỗ trợ
đắc lực cho việc đổi mới phương pháp dạy học. Ở Tiểu học hoạt động chơi
khơng cịn là chủ đạo đối với học sinh. Song cùng với học, chơi là nhu cầu
không thể thiếu và nó giữ một vai trị quan trọng và có ý nghĩa đối với các
em. Nếu ta tổ chức cho HS vui chơi một cách hợp lí, khoa học thì mang lại
hiệu quả giáo dục cao. Chính vì vậy trị chơi được sử dụng trong các tiết dạy
học có tác dụng tích cực nhằm làm thay đổi hình thức học tập. Thơng qua trị
chơi khơng khí lớp học trở nên thoải mái dễ chịu, việc tiếp thu kiến thức của
học sinh tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn.
Vận dụng phù hợp trị chơi trong q trình dạy học sẽ giúp các em
hiểu từ, nhớ từ và sử dụng từ chính xác. Xuất phát từ lý do trên, trong quá
trình thực tập tại trường Tiểu học Gia Cẩm, em đã lựa chọn và bắt đầu nghiên
cứu đề tài: " Thiết kế và tổ chức một số trò chơi học tập trong môn Luyện
từ và câu lớp 3 theo định hướng phát triển năng lực" làm đề tài nghiên cứu
với mong muốn các giờ luyện tập hấp dẫn và đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó góp
phần nâng cao hiệu quả giảng dạy.
2. Mục đích nghiên cứu
Là một giáo viên tương lai, để thích nghi với chương trình sách giáo khoa
mới, tôi không khỏi băn khoăn suy nghĩ về vấn đề này. Làm thế nào để đồng
nghiệp và bản thân có được phương pháp dạy "Luyện từ và câu"cho học sinh
một cách tối ưu? Làm thế nào để sự tiếp thu kiến thức của các em có hiệu
quả? Để học sinh nắm vững kiến thức và vận dụng từ ngữ, ngữ pháp tiếng
Việt là chiếc chìa khố mở cánh cửa tri thức khoa học?


3. Các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể:

Đề tài này thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
+/ Nghiên cứu về các cơ sở lý luận và thực tiễn của việc dạy Luyện từ và câu
môn Tiếng Việt bằng việc thiết kế và tổ chức trò chơi học tập.
+/ Nội dung và các phương pháp dạy học luyện từ và câu thơng qua các trị
chơi.
+/ Phát triển năng lực của học sinh tiểu học thông qua việc dạy học các
chun đề tốn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng của nhà trường.
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu thiết kế, tổ chức một số trò chơi phát huy
khả năng học tập của học sinh trong dạy học môn Luyện từ và câu lớp 3.
Khóa luận được nghiên cứu tại trường Tiểu học Gia Cẩm - Phường Gia Cẩm
– Thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được các nhiệm vụ trên tôi đã thực hiện Phương pháp nghiên
cứu tài liệu: Nghiên cứu, phân tích và tổng hợp các tài liệu về giáo dục học,
tâm lý học, các sách giáo khoa, sách bài tập, các tạp chí, sách, báo, tài liệu
tham khảo có liên quan tới logic hình thành câu, tư duy sáng tạo, năng lực tư
duy sáng tạo, các phương pháp hình thành câu, các phương pháp nhằm phát
triển và rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo trong môn luyện từ và câu cho học
sinh tiểu học, các bài tập mang tính tư duy sáng tạo.
Ngồi ra tơi cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
+/ Phương pháp quan sát.
+/ Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm đề tài nghiên cứu
nhằm xác định khả thi, tính hiệu quả của các trị chơi học tập ở phần khởi


động đã được đề xuất trong đề tài, lấy số liệu rồi phân tích rút ra kết luận
được tiến hành tại trường Tiểu học.
+/ Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Tiếp thu ý kiến của giảng viên
trường Đại học Hùng Vương và một số giáo viên ở trường Tiểu học về nội

dung nghiên cứu để hoàn thiện đề tài.
6. Đóng góp mới của đề tài:
Đề tài được thực hiện sẽ đóng góp một phần tích cực và thực tế trong việc
dạy học Tiếng Việt bậc tiểu học. Học sinh học tập chủ động, tích cực hơn. Sẽ
tạo được hứng thú trong học tập, thực sự học tiếng Việt là: Học vui, học mà
chơi - chơi mà học. Đem lại hiệu quả cao trong học môn tiếng Việt đặc biệt là
phần Luyện từ và câu cho học sinh tiểu học. Tạo nền móng cho sự phát triển
của tư duy ngơn ngữ, trí tuệ của học sinh.
7. Giới thiệu cấu trúc của đề tài:
Đề tài gồm 3 phần:
+/ Phần I: Mở Đầu: Đề cập đến các vấn đề chung.
+/ Phần II: Nội Dung
Gồm có:
CHƯƠNG I: Cơ Sở Khoa Học Về Dạy Học Luyện Từ Và Câu Theo
Định Hướng Phát Triển Năng Lực
CHƯƠNG II: Phát Triển Năng Lực Học Sinh Bằng Việc Thiết Kế Và
Tổ Chức Một Số Trò Chơi Học Tập Trong Môn Luyện Từ Và Câu.
CHƯƠNG III: Thực Nghiệm Su Phạm
+/ Phần III: Kết Luận


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ DẠY HỌC LUYỆN TỪ VÀ
CÂU THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
1.1. Lý luận về năng lực
1.1.1. Khái niệm năng lực
Hiện nay có rất nhiều quan điểm và cách hiểu về năng lực cả trên thế
giới và ở Việt Nam.
1.1.1.1. Quan điểm năng lực trên thế giới
+ Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế Thế giới (OECD) cho rằng

năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp
trong một bối cảnh cụ thể.
+ Chương trình Giáo dục Trung học bang Québec, Canada năm 2004
xem năng lực là một khả năng hành động hiệu quả bằng sự cố gắng dựa trên
nhiều nguồn lực.
+ Denyse Tremblay cho rằng năng lực là khả năng hành động, thành
công và tiến bộ dựa vào việc huy động và sử dụng hiệu quả tổng hợp các
nguồn lực để đối mặt với các tình huống trong cuộc sống.
+ Cịn theo F.E.Weinert, năng lực là tổng hợp các khả năng và kĩ năng
sẵn có hoặc học được cũng như sự sẵn sàng của HS nhằm giải quyết những
vấn đề nảy sinh và hành động một cách có trách nhiệm, có sự phê phán để đi
đến giải pháp.
Nhìn chung, hầu hết các quan điểm ở trên đều quy năng lực vào phạm
trù khả năng hoặc kĩ năng. Khả năng hay kĩ năng trong tiếng Việt có nghĩa
tương đương với một số từ trong tiếng Anh như: competence, ability,
capability, skill… Tuy nhiên nếu hiểu năng lực như hiểu kỉ năng hay khả
năng thì có phần chưa tồn diện.


1.1.1.2.

Quan điểm năng lực tại Việt Nam

Ở Việt Nam, với xu hướng giáo dục như đã nói ở trên thì vấn đề năng
lực cũng được nhiều người quan tâm và nghiên cứu. Chẳng hạn như:
+ Trong lĩnh vực tâm lý, người ta cho rằng năng lực là tổng hợp các
đặc điểm, thuộc tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của
một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.
Và chia năng lực thành năng năng lực chung, năng lực cốt lõi và năng lực
chuyên môn.

+ Tài liệu hội thảo chương trình giáo dục phổ thơng (GDPT) tổng thể
trong CT GDPT mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo xếp năng lực vào phạm trù
hoạt động và giải thích: năng lực là sự huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ
năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí... để thực
hiện một loại công việc trong một bối cảnh nhất định.
+ Trần Khánh Đức, trong “Nghiên cứu nhu cầu và xây dựng mô hình
đào tạo theo năng lực trong lĩnh vực giáo dục” đã nêu rõ năng lực là khả năng
tiếp nhận và vận dụng tổng hợp, có hiệu quả mọi tiềm năng của con người (tri
thức, kĩ năng, thái độ, thể lực, niềm tin…) để thực hiện cơng việc hoặc đối
phó với một tình huống, trạng thái nào đó trong cuộc sống và lao động nghề
nghiệp.
+ Theo cách hiểu của Trần Trọng Thủy và Nguyễn Quang Uẩn thì cho
rằng năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với
những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc
hồn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy.
+ Trong một báo cáo của Trung tâm nghiên cứu châu Âu về việc làm
và lao động năm 2005, các tác giả đã phân tích rõ mối liên quan giữa các khái
niệm năng lực (competence), kĩ năng (skills) và kiến thức (knowledge). Báo
cáo này đã tổng hợp các định nghĩa chính về năng lực trong đó nêu rõ năng


lực là tổ hợp những phẩm chất về thể chất và trí tuệ giúp ích cho việc hồn
thành một cơng việc với mức độ chính xác nào đó.
Như vậy, cho dù khó định nghĩa năng lực một cách chính xác nhất
nhưng các nhà nghiên cứu Việt Nam và thế giới đã có cách hiểu tương tự
nhau về khái niệm này. Tựu chung lại, năng lực được coi là sự kết hợp của
các khả năng, phẩm chất, thái độ của một cá nhân hoặc tổ chức để thực hiện
một nhiệm vụ có hiệu quả. Bên cạnh đó, tuy có một số quan điểm không cơ
bản khác nhau về năng lực nhưng các nhà nghiên cứu trên thế giới và ở Việt
Nam đều gặp nhau ở qua điểm cho rằng, năng lực là sự kết hợp của các khả

năng, phẩm chất, thái độ của một cá nhân hoặc tổ chức để thực hiện một
nhiệm vụ có hiệu quả. Và được bộc lộ thông qua các hoạt động (hành động,
công việc...)
1.1.1.3. Quan điểm của tác giả về năng lực
Dựa vào những quan điểm và cách hiểu về năng lực của các nhà nghiên
cứu trong và ngồi nước có thể thấy năng lực là một khái niệm rộng, với
nhiều cách hiểu và được nhìn nhận trên nhiều lĩnh vực. Có thể thấy rằng, năng
lực dù trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có ba đặc trưng cơ bản, đó là: được
bộc lộ ở hoạt động; tính “hiệu quả” của năng lực, nghĩa là “thành công” hoặc
“chất lượng cao” của hoạt động; “sự phối hợp (tổng hợp, huy động) nhiều
nguồn lực”.
Tóm lại, có thể hiểu năng lực là sự thực hiện đạt hiệu quả cao một hoạt
động (công việc) cụ thể trong một lĩnh vực cụ thể, năng lực được hình thành
dựa vào tố chất sẵn có của cá nhân. Thơng qua q trình rèn luyện, học tập và
thực hành năng lực ngày càng phát triển, hoàn thiện đảm bảo cho cá nhân đạt
được hiệu quả cao trong một lĩnh vực cụ thể tương ứng với năng lực mà mình
có.


1.1.2. Dạy học định hướng phát triển năng lực
1.1.2.1. Tổng quan
Dạy học định hướng năng lực là quan điểm và cách thức dạy học mới ở
Việt Nam. Điều này có nghĩa là, cách dạy học thông thường lâu nay chỉ chú
trọng việc giảng dạy kiến thức và đánh giá nhận thức của người học thơng
qua các bài kiểm tra (nói hoặc viết). Thì dạy học định hướng năng lực tập
trung vào việc phát triển các năng lực cần thiết để người học có thể thành
cơng trong cuộc sống cũng như công việc.
Trong những thập kỉ gần đây với sự phát triển mạnh của khoa học kĩ
thuật cũng như tri thức, giáo dục nếu chỉ hướng tới việc nắm vững kiến thức
là khơng đủ, bởi kiến thức hơm qua cịn mới, hơm nay đã trở thành lạc hậu.

Do đó nhiều hệ thống giáo dục đã hướng tới việc giáo dục để người học có đủ
khả năng làm chủ kiến thức và sử dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề
trong khoa học cũng như trong thực tế. Khi mục tiêu và hình thái giáo dục
chuyển đổi thì phương pháp giảng dạy và đánh giá cũng thay đổi theo. Các hệ
thống giáo dục tiên tiến đã áp dụng phương pháp giảng dạy theo năng lực
thay vì giảng dạy theo nội dung, kiến thức. Giảng dạy theo năng lực là hướng
tiếp cận tập trung vào đầu ra của quá trình dạy và học, trong đó nhấn mạnh
người học cần đạt được các mức năng lực như thế nào sau khi kết thúc một
chương trình giáo dục. Nói cách khác, chất lượng đầu ra đóng vai trị quan
trọng nhất đối với giảng dạy theo năng lực. Điều này có nghĩa là để chương
trình giảng dạy theo năng lực có hiệu quả, cần phải bắt đầu với bức tranh rõ
ràng về năng lực quan trọng mà người học cần phải đạt được, tiếp đến là xây
dựng và phát triển chương trình dạy và học, sau đó giảng dạy và xây dựng các
phương pháp đánh giá nhằm đảm bảo rằng mục đích của giáo dục theo năng
lực đạt được mục tiêu đề ra. Có thể thấy, yếu tố quan trọng của giáo dục năng
lực là xây dựng được các tiêu chuẩn đầu ra rõ ràng thể hiện rõ mục tiêu của


giáo dục, thiết lập được các điều kiện và cơ hội để khuyến khích người học có
thể đạt được các mục tiêu ấy.
1.1.2.2. Đặc điểm
Để việc dạy học định hướng theo năng lực có hiệu quả, người giảng
viên cần thực hiện các bước cơ bản sau: bước đầu tiên trong việc thiết kế
chương trình giáo dục theo năng lực là xác định các năng lực cơ bản học sinh
cần phải đạt được khi kết thúc khóa học. Lưu ý là chỉ xác định một số năng
lực cơ bản cần thiết nhất, phản ánh được mục tiêu của chương trình giáo dục.
Tiếp theo là phát triển các năng lực thành phần của năng lực cơ bản, phù hợp
với mục tiêu của chương trình hoặc bậc học cụ thể. Các năng lực thành phần
này phải được tuyên bố rõ ràng, có thể đo lường được và phải mơ tả chính xác
học sinh có thể làm được gì sau khi kết thúc chương trình hoặc bậc học. Một

số đặc tính mà các nhà nghiên cứu lưu ý khi xây dựng chương trình giáo dục
theo năng lực như các phương pháp và phương tiện giảng dạy phải đa dạng;
các tài liệu, tư liệu, dụng cụ dạy học phải đầy đủ đáp ứng được yêu cầu của
chương trình giảng dạy; học sinh phải được thơng báo trước về các năng lực
cần đạt được và được phản hồi liên tục về sự tiến bộ trong học tập nhằm có
những hành động phù hợp để cải tiến hoặc nâng cao chất lượng học tập của
học sinh.
Tóm lại, chuyển từ giáo dục kiến thức sang giáo dục theo năng lực là
hình thức chuyển đổi từ việc nhấn mạnh việc giảng viên tin là học sinh cần
phải biết gì sang việc học sinh phải nắm rõ mình cần biết gì và có thể làm gì
trong các tình huống và bối cảnh khác nhau. Do đó, giảng dạy theo năng lực
là lấy học sinh làm trung tâm và giảng viên giữ vai trò như người hướng dẫn.
Phương pháp này giúp học sinh chủ động hơn trong việc đạt được năng lực
cần phải có theo yêu cầu đặt ra phù hợp với từng điểm mạnh, điểm yếu của cá
nhân. Giảng dạy theo năng lực là một hình thái giáo dục có thể áp dụng cho
nhiều lĩnh vực và bối cảnh. Chính vì thế, giáo dục theo năng lực tập trung vào


đầu ra gắn liền với nhu cầu của thị trường lao động và xã hội, hoặc cấp học
trên.
Dạy học định hướng năng lực đang là xu thế và yêu cầu cơ bản của
giáo dục Việt Nam. Đây không chỉ là sự thay đổi cách thức và phương pháp
dạy học mà cịn là sự thay đổi hình thái dạy học để theo kịp và đáp ứng được
đòi hỏi của thời đại, và thực tế xã hội. Năng lực là khái niệm rộng và được
cấu thành bởi nhiều kĩ năng khác nhau. Trong dạy học năng lực được hiểu là
các tiêu chí được đề ra ngay từ đầu để nhằm phục vụ quá trình giáo dục
hướng người học (yêu cầu) đạt được sau khi hồn thành q trình giáo dục.
Theo cách hiểu đó, tư duy phản biển cũng được xem là một kĩ năng để phát
huy năng lực chủ động, sáng tạo của học sinh. Đó cũng là cách thức để người
giáo viên tạo ra khơng khí giao tiếp dân chủ trong quá trình dạy học.

Dạy học định hướng theo năng lực là một quá trình, vì vậy để thực hiện
được cần có sự động bộ, nhất quán trong tất cả các khâu để đạt được mục tiêu
đề ra. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng chuyên mơn
cho giáo viên thì việc hình thành và đưa ra các khung năng lực cụ thể cho
từng cấp học cũng là công việc yêu cầu được thực hiện song song.
1.1.2.3. Vai trị của mơn tiếng Việt trong phát triển các năng lực của học
sinh
1.2.

Lý luận về trò chơi học tập

1.2.2. Trị chơi
1.2.2.1. Bản chất
Trị chơi có nguồn gốc từ lao động và chuẩn bị cho thế hệ trẻ đến với
lao động. Nội dung của trò chơi phản ánh hiện thực cuộc sống xung quanh.
Trị chơi khơng nảy sinh một cách tự phát mà nó ảnh hưởng có ý thức hoặc
khơng có ý thức từ người lớn, bạn bè, những người xung quanh. Giao tiếp
trong xã hội cũng đóng một vai trị rất quan trọng trong việc hình thành và
phát triển trò chơi.


1.2.2.2. Khái niệm
Trong từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1992 đã nêu rõ, chữ “trò” được
hiểu đơn giản là hình thức mua vui bày ra trước mặt mọi người. Chữ “chơi” là
một từ mang ý chỉ chung những hoạt động trong khoảng thời gian nhàn rỗi,
ngoài giờ làm việc nhằm mục đích hướng tới giải trí là chính. Qua đó có thể
hiểu “trị chơi” là những hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu của con
người, trước hết là vui chơi, giải trí. Sau đó là những giá trị như phát triển khả
năng.
1.2.2.3. Các thể loại trò chơi

Về cơ bản thì trị chơi gồm 7 loại chính:
+/ Trị chơi điện tử: (tiếng Anh: electronic game) là một trò chơi sử
dụng các thiết bị điện tử để tạo ra một hệ thống tương tác mà người chơi có
thể chơi. Trị chơi điện tử là hình thức phổ biến nhất hiện nay và vì lý do này,
hai thuật ngữ thường được sử dụng nhầm lẫn. Các hình thức phổ biến khác
của trò chơi điện tử bao gồm các sản phẩm như trị chơi điện tử cầm tay, hệ
thống độc lập (ví dụ: pinball, slot machine hoặc các máy trò chơi arcade cơ
điện) và các sản phẩm không trực quan độc quyền (ví dụ: trị chơi âm thanh).
+/ Trị chơi may rủi hay là Trò chơi hên-xui là trò chơi chỉ dựa vào may
mắn và ngẫu nhiên mà thắng cuộc. Ví dụ: Bài lá, chơi bài, trò chơi đánh bạc,
trò chơi với xúc xắc..
+/ Trò chơi một người chơi bao gồm: Trò chơi điện tử một người chơi,
lập phương Rubik…
+/ Trò chơi nhiều người chơi là trị chơi có ít nhất hai người tham gia
chơi (cùng một lúc). Người chơi có thể là đồng đội, hoặc là đối thủ của nhau.
+/ Trò chơi thi đua là chò chơi thường dựa trên sự vượt trội về khả
năng để dành chiến thắng. Ví dụ:Cờ vua, môn thể thao thể chất, shogi, giải
đấu thể thao trí tuệ…


+/ Trị chơi trí tuệ là một bài tốn hay một điều bí ẩn mang lại giá trị
giải trí.
+/ Trị chơi trẻ em là những trò chơi được ưa chuộng bởi độ tuổi học
sinh, mầm non.
1.2.3. Trò chơi học tập
1.2.3.1. Khái niệm
TCHT được các nhà lí luận dạy học nghiên cứu và cho rằng: tất cả
những trò chơi gắn với việc dạy học (phương pháp, hình thức tổ chức và
luyện tập khơng tính đến nội dung và tính chất của trò chơi) đều được gọi là
TCHT.

TCHT thực chất là một trị chơi có định hướng đối với sự phát triển trí tuệ của
trẻ. Tuy nhiên, vẫn có nhiều quan niệm khác nhau, như: E.I. Chikhieva quan
niệm: “Trò chơi được gọi là TCHT hay trị chơi dạy học là vì trị chơi đó
gắn liền với một mục đích dạy học nhất định và địi hỏi cần phải có tài liệu
dạy học phù hợp kèm theo”
Theo P.G. Xamarucova cho rằng, loại trò chơi được xem là TCHT “là
những trị chơi có nhiệm vụ chủ yếu là giáo dục và phát triển trí tuệ cho trẻ
em”
Theo Đinh Văn Vang, TCHT “là loại trò chơi có luật thường do người
lớn nghĩ ra cho trẻ chơi. Đó là loại trị chơi địi hỏi trẻ phải thực hiện một q
trình hoạt động trí tuệ để giải quyết nhiệm vụ học tập được đặt ra như nhiệm
vụ chơi, qua đó mà trí tuệ trẻ phát triển” (dẫn theo Trần Thị Chinh, 2018, tr
15); hay “TCHT là trò chơi có luật và nội dung cho trước, hướng đến sự mở
rộng, chính xác hóa, hệ thống hóa các biểu tượng đã có, nhằm phát triển các
năng lực trí tuệ cho trẻ, trong đó có nội dung học tập được kết hợp với hình
thức chơi”


1.2.3.2. Vận dụng trò chơi trong học tập
Mỗi trò chơi đều có những nét đặc sắc riêng và có tác dụng nhất định
đối với sự hình thành, phát triển tâm lí, nhân cách, trí tuệ của người học và
mỗi trị chơi lại có những lợi thế riêng trong việc giáo dục HS. Tuy có nhiều
loại hình trị chơi, nhưng các trị chơi đều có cấu trúc chung đó là: mục đích
chơi, hành động chơi, luật chơi, đối tượng chơi, các quá trình, tình huống và
quan hệ. Các nhiệm vụ, quy tắc, luật chơi và các mối quan hệ trong TCHT
được tổ chức tương đối chặt chẽ trong khuôn khổ cho phép của các nhiệm vụ
dạy học và được định hướng trước ở mục tiêu, nội dung học tập khi triển khai
thực hiện. TCHT được các GV và người lớn sáng tạo ra, sử dụng dựa trên
những yêu cầu của lí luận dạy học, đặc biệt là của lí luận dạy học các môn
học cụ thể; chúng là một trong những hoạt động giáo dục không tuân theo bài

bản cứng nhắc mà được tổ chức linh hoạt, phù hợp với nội dung bài dạy và
góp phần làm cho tiết học thêm sinh động, thu hút HS chú tâm vào bài học.

1.2.3.3. Lựa chọn trò chơi học tập
Xét theo bản chất tâm - sinh lí, trị chơi học tập có những loại hình cơ
bản như: chơi đơn độc, chơi song song, chơi hội, chơi hợp tác, chơi chức
năng, chơi kiến tạo, chơi tự do, chơi có nghi thức, chơi sao chép lại mẫu, chơi
có liên hệ, chơi sáng tạo… chứng tỏ loại hình trị chơi rất đa dạng. Trong dạy
học, để định hướng mục tiêu giáo dục, rèn luyện cho HS, việc phân loại
TCHT chủ yếu dựa vào chức năng của trò chơi và thường được chia thành 3
nhóm:
- Nhóm trị chơi phát triển nhận thức: là những trò chơi đòi hỏi người tham
gia phải sử dụng các chức năng nhận thức, nỗ lực nhận thức, thực hiện các
hành vi và hành động nhận thức để thực hiện và hoàn thành việc chơi; qua đó,
cải thiện và phát triển trí tuệ và khả năng tư duy của mình. Nhóm trị chơi
phát triển nhận thức lại được phân thành một số nhóm nhỏ:


+ Các trò chơi phát triển cảm giác và tri giác: các trị chơi xếp hình, trị
chơi nhận dạng các đồ vật, con vật, trò chơi nghe và nhận dạng âm thanh...;
+ Các trò chơi phát triển và rèn luyện trí nhớ: trị chơi kể và tiếp nối
các từ ngữ, đồ vật, con vật… trò chơi nhắc lại âm, nhận lại các hình, nhớ lại
dãy số, số lượng...;
+ Các trị chơi phát triển trí tưởng tượng, tư duy: chơi cờ, các trị chơi
xây dựng, lắp ghép mơ hình, trị chơi đóng vai, đóng kịch, trị chơi thi giải đố,
tính tốn, trị chơi khoa học vui...
- Nhóm trị chơi phát triển các giá trị: là những trò chơi phát triển các giá trị
văn hố, xã hội, chính trị, pháp luật hoặc các giá trị về đạo đức, thẩm mĩ...
kích thích thái độ, tình cảm tích cực, khuyến khích sự phát triển các phẩm
chất cá nhân của HS, như: trò chơi thi nấu cơm, thi kéo co, thi hát đối đáp…

- Nhóm trị chơi phát triển vận động: là trị chơi có nội dung chủ yếu là vận
động, đòi hỏi người chơi phải vận động tuân thủ theo luật hay quy tắc nhất
định, nhằm phát triển khả năng vận động, sự nhanh nhẹ, khéo léo của HS.
Loại trò chơi này đối với mỗi lứa tuổi, mỗi cấp học có khác nhau để
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của HS.
1.2.3.4. Điểm tối ưu của trò học tập
Trò chơi học tập thường được tổ chức tại các môi trường giáo dục như
sân trường hay trong lớp học, cũng có thể là khn viên trong các buổi ngoại
khoá. Được tổ chức bởi giáo viên bộ môn hoặc các chuyên viên giáo dục cho
các nhóm đối tượng thường là cùng độ tuổi với nhau( Học sinh, sinh viên…).
Luật chơi và mục đích giáo dục của trị chơi thường được cơng bố rõ ràng
trước khi trò chơi bắt đầu. Để thực hiện trò chơi học tập, người tổ chức phải
có có chương trình rõ ràng, được chuẩn bị cẩn thận và bài bản. Tùy vào mỗi
mơn học và khối lớp sẽ có nội dung và nhiệm vụ chơi cụ thể. Do đó, trị chơi


học tập đem lại niềm vui và sự hứng thú cho các em học sinh, từ đó nâng cao
chất lượng học tập.

1.3.

Lý luận về Thiết kế và Tổ chức

1.3.2. Lý luận về thiết kế
Thiết kế là việc tạo ra một bản vẽ hoặc quy ước nhằm tạo dựng một đối
tượng, một hệ thống hoặc một tương tác giữa người với người có thể đo lường
được (như ở các bản vẽ chi tiết kiến trúc, bản vẽ kỹ thuật, quy trình kinh
doanh, sơ đồ mạch điện, ni mẫu cắt may...). Ở các lĩnh vực khác nhau, việc
thiết kế được gán những ý nghĩa khác nhau (xem Các ngành thiết kế bên
dưới). Trong một số trường hợp, việc xây dựng, tạo hình trực tiếp một đối

tượng (như với nghề gốm, công việc kỹ thuật, quản lý, lập trình, và thiết kế đồ
họa...) cũng được coi là vận dụng tư duy thiết kế.
Việc thiết kế thường đòi hỏi những cân nhắc về các khía cạnh mang
tính thẩm mỹ, cơng năng, kinh tế và chính trị-xã hội của cả đối tượng được
thiết kế lẫn q trình thiết kế. Nó có thể bao gồm trong đó nghiên cứu, ý
tưởng, mơ hình, tạo mẫu, điều chỉnh có tính tương tác, và tái-thiết kế. Trong
khi đó, rất nhiều những thứ khác nhau có thể trở thành đối tượng của thiết kế,
ví dụ quần áo, giao diện đồ họa người dùng, các tòa nhà chọc trời, hệ thống
nhận dạng thương hiệu, các quy trình kinh doanh, và thậm chí cả các phương
pháp hoặc q trình thiết kế.
Theo đó, "thiết kế" có thể là danh từ chỉ một sự xác định trừu tượng về
(những) thứ được tạo ra, hoặc là động từ chỉ quá trình tạo ra và sẽ được làm
rõ trong ngữ cảnh nhất định. Về cơ bản, thiết kế bao hàm sự vật, hiện tượng,
hành động có liên quan đến sáng tạo.


1.3.3. Lý luận về tổ chức
Tổ chức có nghĩa là q trình sắp xếp và bố trí các cơng việc, giao
quyền hạn và phân phối các nguồn lực của sao cho chúng đóng góp một cách
tích cực và có hiệu quả vào mục tiêu chung của doanh nghiệp.
1.3.4. Thiết kế và tổ chức trò chơi học tập
1.3.4.1. Yêu cầu
Để thành cơng trong việc thiết kế và tổ chức các trị chơi học tập thì
chúng ta cần phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Phải đảm bảo tính giáo dục, phù hợp với chủ đề giáo dục cho học
sinh.
- Đảm bảo yêu cầu phổ cập, nghĩa là trò chơi phù hợp với năng lực và
trình độ của mọi học sinh với sức khoẻ của các em. Bởi vì, nếu trị chơi q
khó thì học sinh sẽ khơng thể thực hiện đợc; cịn nếu q đơn giản thì học
sinh sẽ nhàm chán, khơng muốn chơi.

- Đảm bảo tính hấp dẫn đối với học sinh thu hút đợc nhiều học sinh
tham gia chơi, tạo được khơng khí thi đua, sơi nổi hào hứng trong lớp học.
- Trò chơi phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của lớp học,
trường học (về quỹ thời gian, về không gian, về các phương tiện cần thiết cho
trị chơi)
- Đảm bảo an tồn, khơng gây nguy hiểm cho học sinh.

1.4.

Lý luận về Luyện từ và câu

1.4.1. Luyện từ và câu là gì
Luyện từ và câu là phân mơn có vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện
kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh Tiểu học, hướng tới phát triển ngôn


ngữ văn hóa và trí tuệ. Nhiệm vụ cơ bản của dạy học Luyện từ và câu là làm
giàu vốn từ và phát triển năng lực dùng từ đặt câu cho học sinh.
Về kiến thức, phân môn Luyện từ và câu cũng cấp cho học sinh các
kiến thức sơ giản về từ và câu, bao gồm:
- Mở rộng vốn từ cho học sinh theo các chủ điểm.
- Ngữ âm - chính tả: cấu tạo tiếng; cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam;
cách viết tên người, tên địa lí nước ngoài; cách viết tên các cơ quan, tổ chức,
giải thưởng, danh hiệu, huân chương.
- Cấu tạo từ, từ phân loại theo cấu tạo (từ đơn, từ phức).
- Kiến thức về nghĩa của từ và các thao tác, phương pháp giải nghĩa từ cơ bản.
- Các lớp từ vựng tiếng Việt: từ toàn dân - từ địa phương, từ đồng nghĩa, từ
đồng âm, từ trái nghĩa...
- Từ loại: danh từ, động từ, tính từ, đại từ, quan hệ từ
- Các kiểu câu: Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào? (được xem là các kiểu câu

đơn trần thuật cơ bản); các loại câu xét theo mục đích phát ngơn (câu kể, câu
hỏi, câu cảm, câu khiến), theo cấu tạo (câu đơn, câu ghép); các quy tắc dùng
từ đặt câu và tạo văn bản (viết đoạn văn); thành phần câu (chủ ngữ, vị ngữ,
trạng ngữ); liên kết câu…
- Dấu câu: dấu phẩy, dấu chấm, dấu chấm than, dấu chấm hỏi, dấu hai chấm,
dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang.
- Các biện pháp tu từ: so ánh, nhân hóa.
1.4.2. Mục đích dạy luyện từ và câu
1.4.2.1. Hình thành và phát triển kĩ năng tiếng Việt:
Thực hiện mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử
dụng tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết ) để học tập và giao tiếp trong các môi


trường hoạt động của lứa tuổi. Sách giáo khoa tiếng Việt 3 tiếp tục lấy nguyên
tắc giao tiếp làm định hướng cơ bản. Việc rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng
Việt thông qua tất cả các phân môn Tập đọc, Chính tả, Tập làm văn, Luyện từ
và câu. Phân mơn luyện từ và câu được học từ lớp 2, song đến lớp 3 mới có
những tiết học dành riêng để trang bị kiến thức cho học sinh. Các em được
mở rộng, hệ thống hoá vốn từ, được trang bị kiến thức sơ giản về từ, câu, kĩ
năng dùng từ đặt câu, sử dụng dấu câu. Giai đoạn này, trẻ em có sự thay đổi
đáng kể. Các em thích diễn đạt, thích vận dụng từ ngữ hay để nói, viết...Thế
nhưng tư duy các em phát triển chưa hoàn thiện, các em chưa hiểu nghĩa từ,
chưa nắm chắc kiến thức ngữ pháp tiếng Việt. Vì vậy, việc giúp các em hình
thành và phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt là rất quan trọng. Các em nắm
chắc kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp tiếng Việt để học tốt các phân môn tiếng
Việt và các môn học khác, là cơ sở. nền tảng cho việc học tập các bậc học
trên.
1.4.2.2. Sử dụng từ, câu tiếng việt giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, năng
lực tư duy
-Thông qua các bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn, Luyện từ và câu...học

sinh được rèn luyện và phát triển trí tưởng tượng ngay từ các bài thơ, bài
văn...Các em hiểu tác dụng của cách dùng từ, đặt câu, sử dụng dấu câu để nói,
viết đúng, viết hay, vận dụng một số biện pháp tu từ. Từ đó, các em có thể
trau dồi kĩ năng vận dụng từ ngữ đưa vào ngữ cảnh phù hợp, sinh động, có
thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn
hố trong giao tiếp và thích học tiếng Việt.
1.4.2.3. Giúp học sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt, văn hóa trong
giao tiếp để trẻ tích luỹ những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt
Quá trình học "Luyện từ và câu" giúp các em biết sử dụng từ ngữ phù
hợp trong giao tiếp hàng ngày với bạn bè, bố mẹ và mọi người xung quanh.
Bồi dưỡng cho các em biết thưởng thức cái đẹp, biết thể hiện những buồn,



×