Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận cao học, Vấn đề bản thể luận trong triết học ấn độ cổ đại tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.46 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC............................................................................................................0
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
1. Khái quát về bản thể luận...............................................................................2
2. Vấn đề bản thể luận trong triết học Ấn Độ cổ đại........................................6
KẾT LUẬN........................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................12

0


MỞ ĐẦU
Trong đời sống tinh thần của người Ấn Độ, bên cạnh tơn giáo, triết học có
một vai trị khá quan trọng. Chính vì sự gần gũi đó mà triết học Ấn Độ gắn liền
với các tôn giáo. Lịch sử lồi người là một tiến trình thống nhất, vì đây là lịch sử
của một loài sinh vật đặc biệt. Cho dù mỗi dân tộc đều có văn hố độc đáo của
mình như hình thức biểu thị đặc trưng riêng của mình, song mỗi dân tộc đều là
một. Bản thể luận hình thức, là một bộ mơn triết học chủ yếu giải quyết vấn đề
sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác để làm tốt vai trị mơ tả thực tại hay thực
thể. Bản thể luận luôn phải chỉ rõ những từ ngữ nào dùng để chỉ những thực thể
nào, những từ ngữ nào không, tại sao, và phạm trù kết quả là thế nào. Vì thế bản
thể luận cịn là cơ sở nền tảng cho nhiều chuyên ngành triết học khác. Để hiểu
sâu hơn, em xin trình vấn đề: “Vấn đề bản thể luận trong triết học Ấn Độ cổ
đại”.

1


NỘI DUNG


1. Khái quát về bản thể luận
Bản thể luận là một khuynh hướng chủ đạo của triết học phương Tây cổ
đại, nghiên cứu các khái niệm về thực tại và bản chất của sự tồn tại, bản thể luận
được hình thành trên cơ sở của siêu hình học (metaphysics). Bản thể luận tìm
cách mơ tả phạm trù tồn tại và các mối quan hệ của phạm trù tồn tại để xác định
nên thực thể và các kiểu thực thể bên trong khn khổ của tồn tại.
Bản thể luận hình thức, là một bộ môn triết học chủ yếu giải quyết vấn đề
sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác để làm tốt vai trị mơ tả thực tại hay thực
thể. Bản thể luận luôn phải chỉ rõ những từ ngữ nào dùng để chỉ những thực thể
nào, những từ ngữ nào không, tại sao, và phạm trù kết quả là thế nào. Vì thế bản
thể luận cịn là cơ sở nền tảng cho nhiều chuyên ngành triết học khác.
Thuật ngữ bản thể luận bao hàm hai vấn đề:
- Cách nhìn nhận thực tế xã hội (là khách quan hay chủ quan?)
- Xã hội quy định hành vi cá nhân hay chính các hành vi của con người
tạo thành sự tồn tại của xã hội (cái nào quyết định cái nào?)
- Kiểu bản thể luận thứ nhất:
+ Nhìn nhận xã hội và văn hóa như là thực tại khách quan:
Đại diện cho quan điểm này có thể kể từ Francis Bacon (1561-1626) người cha đẻ của tinh thần thực nghiệm khoa học. Nhưng phải đến khi Auguste
Comte (1798-1857) đặt tên sociology cho một bộ mơn khoa học mới, thì quan
điểm coi xã hội là một thực tại khách quan và xã hội cũng cần được nghiên cứu
bằng những "phương pháp khoa học" - tức được nghiên cứu theo cách của khoa
học tự nhiên - mới được thừa nhận và phát triển. (Nói theo ngơn từ của A.
Comte thì khoa học nghiên cứu về xã hội ấy phải được hiểu như là "vật lý xã
hội").
Trong các nghiên cứu văn hoá của các chuyên ngành như tâm lý học,
nhân học, xã hội học, khuynh hướng trên cũng được thể hiện rất rõ.
2


Tiêu biểu cho khuynh hướng này trước hết phải kể đến E. Durkheim.

Thực tại xã hội - theo Durkheim - là thực tại khách quan, tính khách quan đó
được thể hiện ở “sự kiện xã hội”, ở “ý thức tập thể”. Ông cho rằng, “sự kiện xã
hội”- những cách thức hành động, kể cả tư duy và cảm giác - có đặc tính đáng
chú ý là tồn tại ngồi ý thức của cá nhân.
Các loại hình hành vi hay tư duy đó chẳng những ở bên ngồi cá nhân, mà
cịn có sẵn một sức mạnh ra mệnh lệnh và cưỡng bức, nhờ đó mà chúng được áp
đặt cho cá nhân, dù cá nhân đó muốn hay khơng. Chắc chắn là khi tơi hồn tồn
tự nguyện phù hợp với nó, sự cưỡng bức ấy sẽ khơng cịn làm cho cảm thấy,
hoặc chỉ cảm thấy ít thơi, vì vơ ích. Nhưng nó vẫn là một thực chất bên trong
của các sự kiện ấy, chứ khơng ít hơn, và bằng chứng là nó tự khẳng định khi tôi
cố chống lại.1
+ Xã hội quy định hành vi của cá nhân
Trong các chuyên ngành nghiên cứu văn hoá, đặc biệt là trong nhân học
và xã hội học, kiểu bản thể luận thứ nhất thường được thể hiện ở việc lựa chọn
lý thuyết tổng thể luận, coi xã hội là một cấu trúc hữu cơ, tồn tại khách quan và
quy định hành vi của các thành viên trong xã hội. Xã hội học cấu trúc - chức
năng của Talcott Parsons chẳng hạn: Trong lý thuyết này, ông không phủ nhận
rằng các chủ thể cá nhân trong xã hội đã có những giá trị, những niềm tin, những
động cơ và những thái độ tương đối riêng, nhưng các phân tích của Parsons cho
rằng các khía cạnh này của kinh nghiệm và ý nghĩa của nó đến từ bên ngoài cá
nhân.
Thái độ và hành vi cá nhân trước tiên và trên hết là những phản chiếu
hoặc những biểu đạt của một văn hóa tập thể khơng - cá nhân làm phát sinh
những mong đợi, niềm tin và thực hành. Như vậy hệ thống văn hóa được coi
như ở bên ngoài ý thức cá nhân, những thành phần cấu trúc của nó, đặc biệt tập
hợp thiết chế những chuẩn mực của nó, buộc các cá nhân xử sự theo một cách
riêng biệt.
1

Emile Durkheim (1993), Các quy tắc của phương pháp xã hội học, Nxb. Khoa học xã hội, tr.30.


3


Bởi vậy, kiểu phân tích này cho rằng các cấu trúc xã hội, với tư cách là
những cái quyết định hành vi, không thể bị giảm xuống thành những hành động
cá nhân kín đáo hoặc được xác định bằng những hành động đó.
Như vậy, các nghiên cứu về xã hội và văn hoá là nhằm vào sự khám phá
ra những mối quan hệ nhân - quả giữa các hiện tượng (hay giữa các thành tố
trong một sự vật, hiện tượng) trong thực tế. Nói cách khác là chúng phải đi tìm
những qui luật khoa học trong các mối tương liên nhân - quả ấy. Theo cách đó,
các sự kiện trong tương lai cũng có thể được dự báo.
Tiếp theo, những nghiên cứu tuân thủ phương pháp luận này phải đưa ra
những giả định về cấu trúc và những quan hệ nhân - quả vẫn còn chưa được
chứng minh của đối tượng nghiên cứu. Đó là giả thuyết. Giả thuyết có thể được
xây dựng thành một lý thuyết nếu nó được kiểm chứng.
- Kiểu bản thể luận thứ hai
+ Nhìn nhận xã hội và văn hóa như là thực tại chủ quan
Quan niệm này có gốc rễ đầu tiên ở nền triết học và khoa học xã hội Đức
cuối thế kỷ XIX-đầu XX. Các học giả Đức như Sombart, Dilthey, Rickert và
Weber, tất thảy đều quan tâm theo nhiều cách phân biệt các khoa học "nhân
văn" hoặc "văn hoá" với các khoa học tự nhiên. Họ cho rằng, khác với khoa học
tự nhiên (có đối tượng nghiên cứu là những sự vật tồn tại khách quan, và tìm ra
qui luật nhân quả của những sự kiện "bên ngồi" là mục đích của các nghiên
cứu), đặc trưng của "khoa học nhân văn" (hay "triết học đời sống") là quan tâm
đến tri thức bên trong của "cách cư xử có ý nghĩa", hoặc, quan tâm đến sự "nắm
bắt ý nghĩa" của một kinh nghiệm cá nhân về thế giới. Một nhà xã hội học đã
phát biểu quan điểm của mình về vấn đề này như sau:
Con người không phải là những "sự vật" phải được nghiên cứu theo cách
người ta nghiên cứu cây cỏ hoặc đá, mà là những sinh vật kèm theo giá trị, ý

nghĩa mà phải được hiểu như là những chủ thể và được biết như là chủ thể. Xã
hội học đề cập đến hành động có ý nghĩa, và mọi sự hiểu biết, giải thích, phân
tích, hoặc bất cứ gì khác, phải được tiến hành với sự cân nhắc tới những ý nghĩa
4


đang khiến cho sắp xếp hành động con người trở nên khả thể... áp đặt những ý
nghĩa thực chứng luận lên lĩnh vực các hiện tượng xã hội, đó là bóp méo bản
chất cơ bản của sự tồn tại con người.
Khác với một người thường, một nhà nhân học văn hóa khi quan sát sẽ cố
gắng tìm hiểu để phân biệt sự khác biệt của một cái nháy mắt với một cái chớp
mắt. Các nhà nhân học sẽ dựa vào những hiểu biết về văn cảnh mà hành động
được quan sát diễn ra và cá nhân ấy để phân biệt ý nghĩa của những tín hiệu
dường như giống nhau ấy: hoặc ý nghĩa ấy sẽ là “tôi đang đùa”, hay “em đẹp
thật”, hoặc “được đấy”...2
+ Thế giới được cấu thành thông qua sự tác động qua lại giữa những chủ
thể
Những người theo quan điểm này cho rằng, "thực tại xã hội được tạo ra
một cách có ý thức và tích cực bởi các cá nhân có ý định làm các chuyện này
chuyện nọ và gán những ý nghĩa cho hành vi những người khác. Vậy là, về mặt
bản thể luận, thực tại xã hội chỉ tồn tại như sự tác động qua lại có ý nghĩa giữa
các cá nhân”.
Những ngơn từ trên giống như tuyên ngôn của kiểu bản thể luận thứ hai:
Khơng có sự tồn tại của xã hội hay văn hoá một cách chung chung, trừu tượng,
ngược lại chỉ khi có những con người cụ thể giao tiếp với nhau trong những
hoàn cảnh cụ thể mới tạo ra thực tại xã hội.
Những người bị chi phối bởi kiểu bản thể luận thứ hai này được coi là
những người theo phản - thực chứng luận, họ luôn cố gắng "xem xét thế giới qua
những đôi mắt của chủ thể và đem ý nghĩa cho nó qua những phương tiện họ sử
dụng, bởi lẽ khơng có thế giới xã hội nào ngoài cái thế giới này”. Như vậy, phản

- thực chứng luận là một kiểu bản thể luận.
Thực ra, thuật ngữ "phản - thực chứng" chỉ là một thuật ngữ mang tính
qui ước, dùng để chỉ những quan điểm đối lập với quan điểm thực chứng luận.
Richard L. Warms; R. Jon MC. Gee (2000), Lý thuyết nhân học (người dịch Bùi Lưu Phi Khanh), tư liệu Viện
Văn hóa Thơng tin. Tr.12.
2

5


Quan điểm này phê phán thực chứng luận chủ yếu ở việc bác bỏ quan
điểm "xã hội có thể được mô tả và hiểu theo một bản thể luận và phương pháp
luận coi hành vi xã hội như phạm trù được quan niệm trước mà thực chứng luận
nghĩ ra để định nghĩa thực tế xã hội".
2. Vấn đề bản thể luận trong triết học Ấn Độ cổ đại
Trong đời sống tinh thần của người Ấn Độ, bên cạnh tôn giáo, triết học có
một vai trị khá quan trọng. Chính vì sự gần gũi đó mà triết học Ấn Độ gắn liền
với các tôn giáo. Đúng như lời nhận xét của Radhakrishnan:"Triết học Ấn Độ
mang đượm màu sắc chủ nghĩa duy linh, chính chủ nghĩa duy linh đã cho Ấn Độ
khả năng chống lại các cuộc chiến tranh của thù trong giặc ngồi. Hết người Hy
Lạp, người Mơng Cổ, đến người Pháp, người Anh đã muốn tàn phá và huỷ diệt
nền văn minh của đất nước này, nhưng người dân Ấn Độ vẫn ngẩng cao đầu.
Trong suốt quá trình lịch sử của mình, đất nước Ấn Độ tồn tại vì một mục đích:
Đấu tranh cho chân lý và chống lại mọi sai lầm... Lịch sử tư tưởng Ấn Độ đã và
đang minh chứng về những cuộc kiếm tìm vơ tận của trí tuệ trong quá khứ, hiện
tại và tương lai".
Giống như triết học Trung Quốc, triết học Ấn Độ ra đời sớm và chứa
đựng nhiều tư tưởng sâu sắc về thế giới, trong đó có vấn đề phạm trù triết học.
Điều này dễ hiểu, bởi nếu khơng có các phạm trù triết học thì khơng thể có tư
duy logic và q trình nhận thức thế giới khách quan. Theo cách phân chia

truyền thống, triết học Ấn Độ cổ đại được chia thành hai hệ thống với 9 trường
phái. Hệ chính thống gồm 6 trường phái: Mimansa, Vêdanta, Samk- huya,
Nyaya, Vaisesika. Hệ khơng chính thống gồm 3 trường phái: Jainism (Kỳ na
giáo), Budđhism (Phật giáo), Lokayata hay còn gọi là Carvaka. Trong 9 trường
phái kể trên, có 3 trường phái đề cập đến vấn đề phạm trù triết học một cách
chuyên sâu và hệ thống, đó là: Jainism, Nyaya, Vaisesika.
Jainism - trường phái triết học mang đượm màu sắc tôn giáo, ra đời vào
khoảng thế kỷ thứ VI TCN. Người sáng lập là Ma- havira. Tư tưởng triết học
của trường phái này được phản ánh trong "Tattvartha". Quan điểm của các nhà
6


triết học theo trường phái này mang tính mâu thuẫn. Họ là những người duy vật
khi giải quyết vấn đề bản thề luận. Theo họ, vật chết là bản thể vũ trụ, tồn tại
một cách khách quan trong không gian và thời gian. Nhưng khi giải quyết vấn
đề nhận thức luận, họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan và tương đối luận.
Theo họ, mọi mệnh đề cung như khách thể nhận thức đều có tính ước lệ, tương
đối, chưa đầy đủ vì nó dược xác định bởi chủ thể nhận thức. Dựa trên nhưng
quan điểm triết học như vậy, các nhà triết học theo trường phái Jainism đưa ra
một hệ thống bao gồm 9 phạm trù triết học như:
+ Giới hữu cơ (jiva): Phạm trù này bao gồm các thực thể có linh hồn,
trong đó có con người.
+ Giới vô cơ (ajiva): Phạm trù này bao gồm các thực thể khơng có linh
hồn nhưng chúng có thể nhận thức được bằng các giác quan, trong đó vật chất
đóng vai trò quan trọng. Vật chất được xem như một thực thể cấu tạo tử nguyên
tử, không gian, thời gian, vận động và đứng yên. Không gian là khoảng trống
cho vật chết tồn tại, cịn thời gian là hình thức của vũ trụ liên kết chuỗi vận động
liên tục của thế giới.
+ Cái thiện: sự thể hiện nhưng hành động tốt.
+ Tội lỗi: sự thể hiện những hành động.

+ Asrava: sự di chuyển vật chất vào linh hồn, được hiểu như nguyên nhân
của sự phụ thuộc.
+ Samvara: hành động ngăn chặn quá trình đi chuyển vật chất vào linh
hồn.
+ Phụ thuộc: được coi như là sự thể hiện mối quan hệ giữa linh hồn và các
hành vi liên kết nó.
+ Nírjan: cái phá huỷ hay đập tắt các nghiệp liên kết như thân nghiệp,
khẩu nghiệp, hành nghiệp.
+ Giải thoát: được hiểu như là sự phân cách tuyệt đối giữa linh hồn và thể
xác.

7


Theo các nhà triết học thuộc trường phái này, người nào củng cố và làm
chủ được 9 phạm trù kể trên sẽ có những hành động đạo đức đúng, niềm tin
vững vàng và tri thức đầy đủ. Nhìn vào hệ thống 9 phạm trù nêu trên chúng ta
thấy các phạm trù đã bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau của thế giới, từ tự nhiên
đến xã hội, đạo đức, tôn giáo… Trong số 9 phạm trù kể trên, hai phạm trù "giới
hữu cơ" và "giới vô cơ" được đặt lên vị trí hàng đầu, từ chúng có thể triển khai
thành các phạm trù con khác. Qua việc phân tích các phạm trù đó chúng ta cũng
thấy rằng các nhà triết học đã nhìn thấy vai trị của các phạm trù đối với nhận
thức và hoạt động thực tiễn, coi chúng như những phương tiện để con người có
thể đạt được tri thức.
Vaisesika - trưởng phái triết học xuất hiện vào thế kỷ thứ III TCN. Nội
dung chủ yếu của trường phái này được phản ánh trong "Vaisesika sung", trong
đó trình bày học thuyết nguyên tử (Atomism) và hệ thống bao gồm 7 phạm trù
triết học sau:
+ Thực thể.
+ Thuộc tính hay là chất (gừng).

+ Vận động hay là nghiệp (karma).
+ Cái chung.
+ Cái đặc thù.
+ Tồn tại.
+ Không tồn tại.
Trong 7 bản thể nêu trên, các nhà triết học tập trung phân tích 2 phạm trù
chủ yếu thực thể và thuộc tính. Phạm trù thực thể được triển khai thành 9 phạm
trù phụ thuộc (phạm trù con), thuộc hai nhóm vật chất và phi vật chất. Nhóm vật
chất gồm 5: đất, nước, lửa, khơng khí, ethe. Nhóm phi vật chất gồm 4: thời gian,
khơng gian, linh hồn, trí tuệ. Phạm trù thuộc tính được triển khai thành 24 phạm
trù con: xúc giác, vị giác, thị giác, khướu giác, thính giác, lượng, liên kết, phân
rã, đại lượng, xác đính, khuyếch tán, hội tụ, khả năng, học hỏi, thoả mãn, đau

8


khổ, mong muốn, thiện và ác, nỗ lực, ấn tượng, ghét bỏ, nhầy nhụa, nặng nề, lưu
động và nhanh nhẹn.
Nyaya - trường phái triết học xuất hiện vào thế kỷ thứ I sau CN. Quan
điểm triết học của trường phái này chủ yếu được phản ánh trong "Nyaya sutra”
mà tác giá là Gau- tama. Theo các nhà triết học thuộc trường phái này, thế giới
tồn tại khách quan và độc lập với ý thức con người, nhận thức là quá trình phát
hiện khách thể và tiêuchuẩn của nhận thức là thực tiễn. Trường phái triết học
này chú trọng đến vấn đề logic, họ đưa ra hệ thống bao gồm 16 bản thể luận
logic sau:
+ Phương tiện hay công cụ nhận thức: được biểu hiện dưới 4 dạng: tri
giác, kết luận, so sánh, chứng minh bằng lời.
+ Đối tượng nhận thức chân chính: đó là linh hồn, thể xác, tình cảm, khát
vọng.
+ Nghi ngờ là tri giác khơng xác định (ví dụ: không rõ đàng kia là cây cột

hay con người).
+ Ngun nhân.
+ Ví dụ: là sự kiện khơng thuộc đối tượng tranh luận.
+ Quy tắc: bao gồm 4 dạng khác nhau:
Quy tắc chung được mọi người công nhận,
Quy tắc được cơng nhận bằng một trường phái nào đó.
Quy tắc từ đó có thể rút ra nhưng quy tắc khác.
Quy tắc được chấp nhận như một niềm tin.
+ Các thành phần của tam đoạn luận bao gồm 5 thành phần:
Phán đoán làm tiền đề cần phải chứng minh (đồi có lửa cháy).
Cơ sở của sự chứng minh đó (bởi trên đồi có khói).
Phán đốn chung trong đó ví dụ đưa ra là trường hợp phụ thuộc (ở đâu có
lửa, ở đỏ có khói).
Phán đốn chứng thực cho phán đốn chung trong trường hợp cụ thể (trên
đồi có khói).
9


Kết luận (cho nên đồi có lửa).
+ Giả định: nhờ có giả định mà sự nghi ngờ được cởi bỏ (ví dụ nghi ngờ
đã nêu trên: khơng rõ đằng kia là cây cột hay con người. Nhưng khi thấy con
quạ đậu ở phía trên thì rõ ràng đó chỉ là cây cột chứ không phải con người).
+ Khẳng định hay tin tưởng, là tri thức xác định có sau nghi ngờ và giả
định.
+ Đàm luận: là tranh luận có thiện ý, trong đó cả hai bên đều mong muốn
tìm đến sự thực chân lý.
+ Tranh cãi: là sự bác bỏ ý kiến của đối phương bằng sự xuyên tạc nó.
+ Bắt bẻ: tìm kiếm mâu thuẫn của đối phương.
+ Luận cứ giả: là điều vơ căn cứ.
+ Xun tạc: ví dụ, trong giếng có nước mới.

+ Diễn tả khơng chân thật: là sự xun tạc có tính mờ ám.
+ Luận cứ chính: là luận cứ làm cho đối phương phải tuân phục trong lúc
tranh Trên đây chúng tôi chỉ nêu một số nét khái lược về phạm trù của các hệ
thống triết học ấn Độ cổ đại. So với hệ thống phạm trù của Arixtốt trong triết
học Hy Lạp cổ đại và các quan niệm phạm trù của Lão Tử của phái Danh Gia (?)
trong triết học Trung Quốc cổ đại, chúng ta thấy các hệ thống phạm trù trong
triết học Ấn Độ cổ đại có một số lượng phạm trù tương đối lớn, phạm vi phản
ánh rộng, phong phú, đa dạng, bao quát được nhiều lớp sự vật khác nhau của thế
giới, nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học và nhận thức. Điều này thể hiện
"các nhà triết học Ấn Độ cổ đại đã có một tư duy phân loại đạt đến trình độ cao
và sự phân tích sâu sắc đến kinh ngạc. Họ không dừng lại ở các vấn đề nhân
sinh quan mà đặc biệt quan tâm đến các vấn đề bản thể luận.

10


KẾT LUẬN
Triết học Ấn Độ cổ đại đã tồn tại và phát triển ở suốt hai mươi thế kỷ.
Ngày nay, vấn đề bản thể luận vẫn còn tồn tại với đầy đủ những cơ sở xã hội, cơ
chế vận hành và cơ sở vật chất của nó nữa. Trên cơ sở làm rõ nội hàm của khái
niệm “bản thể luận” và trình bày một cách khái quát lịch sử hình thành, phát
triển của khái niệm này trong triết học Ấn Độ cổ đại, từ cổ đại đến hiện đại, bài
viết đã đưa ra và phân tích nội dung của cách tiếp cận bản thể luận để từ đó đi
đến khẳng định rằng, cách tiếp cận bản thể luận không phải là cách tiếp cận mới,
nhưng là một trong những cách tiếp cận có tính gợi mở cao, cho phép nhìn nhận
tiến trình phát triển của lịch sử triết shọc từ một góc độ khác và là cách tiếp cận
hữu dụng trong việc nghiên cứu lịch sử triết học.

11



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Emile Durkheim (1993), Các quy tắc của phương pháp xã hội học,
Nxb. Khoa học xã hội.
2. Richard L. Warms; R. Jon MC. Gee (2000), Lý thuyết nhân học (người
dịch Bùi Lưu Phi Khanh), tư liệu Viện Văn hóa Thơng tin.
3. Đinh Quang Hổ (2016), “Quan niệm về Bản thể luận trong lịch sử triết
học”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (241).
4. Wikipedia, Bản thể luận, tại địa chỉ:
/>%E1%BA%ADn, ngày truy cập 15/12/2018.

12



×