Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Bài 2 các cơ quan nhà nước ở tw và thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.48 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................3
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ VĂN BẢN
QUY PHẠM PHÁP LUẬT.........................................................................4
1.1. Về bộ máy nhà nước...........................................................................4
1.1.1 Khái niệm:....................................................................................4
1.1.2. Đặc điểm của cơ quan quản lý nhà nước.....................................5
1.2. Lý luận về văn bản quy phạm pháp luật.............................................9
1.2.1. Khái niệm....................................................................................9
1.2.2. Đặc điểm.....................................................................................9
CHƯƠNG 2: HIỆU LỰC CÁC LOẠI VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP
LUẬT VÀ THẨM QUYỀN BAN HÀNH LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN
NHÀ NƯỚC...............................................................................................11
2.1. Thẩm quyền ban hành pháp luật của cơ quan nhà nước..................11
2.1.1. Văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và uỷ ban thường vụ
quốc hội...............................................................................................11
2.1.2. Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước.......................12
2.1.3. Văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao....................................................................13
2.1.5. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân..............................................................................................13
2.2. Hiệu lực các loại văn bản quy phạm pháp luật.................................13
2.2.1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.................................14
2.2.2. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội............14


2.2.3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.........................................14
2.2.4. Nghị định của Chính phủ..........................................................14
2.2.5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.......................................15
2.2.6. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ...........15


2.2.7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao 16
2.2.8. Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao...........................................................16
2.2.9. Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước...............................16
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................18


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội và đời sống cộng
đồng, là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan, vừa
mang tính chủ quan. Chính vì vậy, pháp luật có một ý nghĩa và vai trị đặc
biệt quan trọng. Trong bối cảnh xã hội Việt nam hiện nay, pháp luật là vũ khí
chính trị sắc bén để nhân dân đấu tranh chống lại các lực lượng thù địch, giữ
vững an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội; là cơ sở pháp lý để bộ máy
Nhà nước Việt Nam tổ chức và hoạt động; là công cụ để Nhà nước quản lý
hữu hiệu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; là phương tiện thiết lập
và bảo đảm công bằng, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; là cơ sở bảo vệ
hữu hiệu quyền công dân; đồng thời, pháp luật tạo điều kiện cho những công
cụ quản lý xã hội khác phát triển vì một xã hội cơng bằng, văn minh, tốt đẹp
hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta luôn coi xây dựng pháp
luật là một hoạt động cơ bản và quan trọng hàng đầu. Những năm qua, đặc
biệt là khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 ra đời, hoạt động
xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước
đã gặt hái được những kết quả đáng kích lệ. Góp phần to lớn vào sự thành
cơng chung đó, phải kể tới hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan Nhà nước ở trung ương.
Do đó, nay e viết bài tiểu luận này mong bản thân sẽ có thêm nhiều
hiểu biết về bộ máy nhà nước, hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật
và thầm quyền ban hành pháp luật của các cơ quan nhà nước.



PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ THẨM
QUYỀN BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Bộ máy nhà nước
1.1.1 Khái niệm:
Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước từ trung ương tới
địa phương hợp thành hệ thống được tổ chức, hoạt động theo những nguyên
tắc thống nhất, tạo thành cơ chế đồng bộ nhằm thực hiện nhiệm vụ, chức năng
của nhà nước.
Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo chiều
ngang, bao gồm 4 hệ thống:
1) Các cơ quan quyền lực nhà nước, bao gồm Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Đây là các cơ quan đại diện của nhân dân, do nhân dân trực
tiếp bầu ra theo nguyên tắc bầu cử phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín;
2) Các cơ quan hành chính nhà nước, cịn gọi là các cơ quan quản lí nhà
nước bao gồm Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân các
cấp và các cơ quan quản lí chun mơn của Uỷ ban nhân dân như sở, phòng,
ban và tương đương;
3) Các cơ quan xét xử bao gồm Toà án nhân dân tối cao, các tòa án
nhân dân địa phương và các toà án quân sự;
4) Các cơ quan kiểm sát bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các
viện kiểm sát nhân dân địa phương và các viện kiểm sát qn sự. Ngồi bốn
hệ thống nói trên cịn có một thiết chế đặc biệt là Chủ tịch nước - nguyên thủ
quốc gia, người thay mặt nhà nước về mặt đối nội cũng như đối ngoại, có
chức năng chủ yếu nghiêng về hành pháp nhưng không nằm trong hệ thống


cơ quan hành chính nhà nước. Trực quan ta có sơ đồ cơ cấu bộ máy Nhà nước

như sau:

1.1.2. Đặc điểm của cơ quan quản lý nhà nước.
Các cơ quan hành chính Nhà nước là các cơ quan chủ thể chủ yếu của
quan hệ pháp luật hành chính. Là một bộ phận hợp thành của bộ máy Nhà
nước, cơ quan quản lý Nhà nước có những đặc điểm chung của cơ Nhà nước
đó là:
+ Mang tính quyền lực Nhà nước;
+ Nhân danh Nhà nước để thực thi quyền lực Nhà nước;
+ Trong phạm vi thẩm quyền của mình, cơ quan Nhà nước có quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản áp dụng pháp luật;
+ Giám sát thực hiện các văn bản mà mình ban hành
+ Có quyền thực hiện biện pháp cưỡng chế khi cần thiết.


+ Thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có những giới hạn về không
gian (lãnh thổ), về thời gian có hiệu lực, về đối tượng chịu sự tác động. Thẩm
quyền của cơ quan phụ thuộc vào địa vị pháp lý của nó trong bộ máy nhà
nước. Giới hạn thẩm quyền của cơ quan nhà nước là giới hạn pháp lý vì được
pháp luật quy định.
+ Mỗi cơ quan nhà nước có hình thức và phương pháp hoạt động riêng
do pháp luật quy định.
1.1.3. Phân loại cơ quan nhà nước
Căn cứ vào hình thức thực hiện quyền lực:
+ Cơ quan quyền lực nhà nước: Quốc hội là cơ quan quyền lực cao
nhất; HĐND là cơ quan quyền lực ở địa phương;
+ Cơ quan hành chính Nhà nước: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, các UBND cấp tỉnh, huyện và các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND.
+ Cơ quan tư pháp: Tòa án, Viện kiểm sát;

Căn cứ vào trình tự thành lập:
+ Cơ quan Nhà nước do dân bầu ra;
+ Cơ quan Nhà nước không do dân bầu ra.
Căn cứ vào tính chất thẩm quyền:
+ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chung;
+ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chun mơn.
Căn cứ vào cấp độ thẩm quyền:
+ Cơ quan Nhà nước ở Trung ương;
+ Cơ quan Nhà nước ở địa phương


1.2. Thẩm quyền ban hành pháp luật của cơ quan nhà nước
Thẩm quyền cơ quan Nhà nước quan trọng nhất là quyền ban hành
quyết định pháp luật. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước thì việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực hiện hoạt động chấp hành và điều
hành. Những văn bản này đều có những đặc điểm của văn bản Nhà nước nói
chung, đặc biệt là tính chất pháp lý của nó tuy nhiên là những văn bản hành
chính Nhà nước bao giờ cũng là những văn bản dưới luật được ban hành trên
cơ sở để chấp hành Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các Nghị quyết của các cơ
quan quyền lực.
1.2.1. Quốc hội và uỷ ban thường vụ quốc hội
Quốc hội và uỷ ban thường vụ quốc hội có thẩm quyền ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật như sau:
* Nghị quyết của Quốc hội: Nghị quyết là Hình thức văn bản quyết
định về những vấn đề cơ bản sau khi được hội nghị bàn bạc, thông qua bằng
biểu quyết theo đa số, biểu thị ý kiến hay ý định của một cơ quan, tổ chức về
một vấn đề nhất định.
Ví dụ: Nghị quyết về việc tăng cường chống buôn lậu.
* Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội
+ Pháp lệnh được ban hành nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ

bản, quan trọng nhưng chưa ổn định, lĩnh vực điều chỉnh hẹp hơn so với các
bộ luật.
Ví dụ: Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính.
+ Nghị quyết dùng để giải thích luật, pháp lệnh hoặc đề ra các quy định giám
sát việc thi hành pháp luật đó.


1.2.2. Chủ tịch nước
Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước: dùng để cơng bố tình trạng khẩn
cấp như chiến tranh, giới nghiêm hoặc công bố các văn bản pháp luật được
Quốc hội thơng qua.
1.2.3. Chính phủ, Thủ tương Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ
Nghị quyết, nghị định của Chính phủ
+ Nghị quyết: Là hình thức văn bản quyết định về những vấn đề cơ bản
sau khi được hội nghị bàn bạc, thông qua bằng biểu quyết theo đa số, biểu thị
ý kiến hay ý định của một cơ quan, tổ chức về một vấn đề nhất định.
+ Nghị định: là Hình thức văn bản do chính phủ ban hành và dùng để
hướng dẫn luật hoặc quy định những việc phát sinh mà chưa có luật hoặc
pháp lệnh nào điều chỉnh. Mặt khác, nghị định do Chính phủ ban hành để quy
định những quyền lợi và nghĩa vụ của người dân theo Hiến pháp và Luật do
Quốc hội ban hành.
Quyết định chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ là phương tiện pháp luật
mà Thủ tướng sử dụng trong hoạt động điều hành Chính phủ, chỉ đạo, đơn
đốc giám sát hoạt động của mọi cơ quan Nhà nước thuộc Chính phủ ở Trung
ương và địa phương.
Quyết định, chỉ thị, thông tư của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các
cơ quan khác thuộc Chính phủ. Dùng để ban hành các văn bản dưới dạng nội
quy, quy định cơ chế hoạt động, đôn đốc giám sát hoạt động của cấp dưới
hoặc dùng để giải thích, hướng dẫn việc thực hiện văn bản luật.
1.2.4. Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao

- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao.
- Quyết định chỉ thị, thông tư của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối
cao.


1.2.5. Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch
Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền hoặc giữa các cơ quan Nhà nước với các tổ chức xã hội.
1.2.6. Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
- Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp: để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trên các lĩnh vực mang tính chất địa phương.
- Quyết định, chỉ thị của UBND các cấp: để thực hiện các văn bản của cơ
quan Nhà nước cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp và để điều hành hoạt
động quản lý Nhà nước địa phương.


CHƯƠNG 2: VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LỰC VÀ HIỆU LỰC
CÁC LOẠI VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ THẨM
QUYỀN BAN HÀNH LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
2.1. Lý luận về văn bản quy phạm pháp luật.
2.1.1. Khái niệm
Theo giáo trình của trường đại học Luật Hà Nội định nghĩa: Văn bản
quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
theo thủ tục trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự chung, được Nhà
nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống.
Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật do PGS.TS. Nguyễn Minh
Đoan soạn thảo có đề cập: một văn bản được coi là VBQPPL khi có 4 tiêu
chí:
+ Do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;

+ Theo trình tự, thủ tục, hình thức, tên gọi được luật định;
+ Chứa đựng quy tắc xử sự chung;
+ Được áp dụng nhiều lần trong đời sống khi xảy ra tình huống mà
pháp luật đã dự liệu.
Theo các văn bản pháp quy chính thống do nhà nước ban hành quy định về
vấn đề này thì khái niệm VBQPPL được đề cập lần đầu tiên trong Luật ban
hành VBQPPL năm 1996 được định nghĩa như sau: Văn bản quy phạm pháp
luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục,
trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo
đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa


2.1.2. Đặc điểm
Các cơ quan nhà nước ở trung ương là những cơ quan đầu não của cả
nước, thể hiện tập trung nhất quyền lực của một chế độ xã hội. Vì vậy, văn
bản quy phạm pháp luật do những chủ thể này ban hành có một vai trị rất đặc
biệt. Nó khơng chỉ là những văn bản có phạm vi áp dụng rộng rãi nhất mà còn
là cơ sở pháp lý để nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác ra đời. Giữ vị trí
đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành mang những đặc điểm sau: Văn
bản quy phạm pháp luật do chủ thể có thẩm quyền ban hành
theo quy định của pháp luật. Với vai trị quan trọng là cơng cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội , là cơ sở cho việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật và văn
bản hành chính, văn bản quy phạm pháp luật do đó chỉ được ban hành bởi các
chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật.
Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định
những cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật bao
gồm: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng thẩm phán
tịa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, có sự

phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa các cơ quan nhà
nước với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. Ngồi ra, các cá
nhân cũng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó là: Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ, Tổng Kiểm tốn Nhà nước.
Vì vậy, dấu hiệu đầu tiên để khẳng định văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành là văn bản được ban hành bởi
những chủ thể: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chính phủ; Hội đồng
thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao và có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà
nước với nhau hoặc với các cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã
hội . Trong phạm vi bài tiểu luận này, cho phép em chỉ đề cập đến các văn
bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành.
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi các cơ quan Nhà nước
ở trung ương có hình thức do pháp luật quy định, cụ thể như sau:


Về tên gọi của văn bản quy phạm pháp luật (do cơ quan Nhà nước ở
TW ban hành), điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 có
quy định tên gọi của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà
nước ở trung ương ban hành, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết, Pháp
lệnh, Nghị định, Nghị quyết liên tịch, Thông tư liên tịch. Việc quy định tên
gọi của văn bản như trên đã thể hiện thẩm quyền về hình thức của các cơ quan
ban hành văn bản: trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan
được quyền ban hành những loại văn bản nào và khi điều chỉnh một vấn đề
pháp lý cụ thể, cơ quan ban hành phải ban hành đúng hình thức văn bản đó.
Việc tn thủ quy định về tên gọi nói riêng và hình thức của văn bản quy
phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nói chung là
điều kiện cần để khẳng định nội dung của văn bản (là có chứa quy phạm pháp
luật). Đồng thời, nó cịn giúp phân biệt với các loại văn bản quy phạm pháp

luật của các cơ quan Nhà nước khác cũng như với văn bản do các cá nhân ban
hành; xác định thứ bậc, hiệu lực của từng loại văn bản.
Bên cạnh tên gọi, pháp luật còn quy định về thể thức của văn bản quy
phạm pháp luật, nhưng trong phạm vi của bài tiểu luận nên em xin phép
không đề cập đến.
2.2. Hiệu lực các loại văn bản quy phạm pháp luật
Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật đúng nguyên tắc, phù hợp sẽ
dẫn đến kết quả xử lý công việc được chính xác và ngược lại, nếu áp dụng
văn bản quy phạm pháp luật sai nguyên tắc thì sẽ dẫn đến sai sót, làm ảnh
hưởng đến đối tượng bị áp dụng văn bản quy phạm pháp luật. Hệ thống pháp
luật hiện hành ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều văn bản nội dung chồng chéo,
mâu thuẫn nhau. Về cơ bản, văn bản quy phạm pháp luật chia làm 2 loại:
- Văn bản luật: gồm Hiến pháp, các đạo luật, bộ luật, đó là những văn
bản do Quốc hội ban hành theo hình thức và thủ tục được quy định trong Hiến
pháp. Đó là những văn bản có hiệu lực pháp lí cao nhất.
- Văn bản dưới luật: là những văn bản quy phạm pháp luật do các cơ
quan nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức được pháp luật
quy định. Những văn bản này có hiệu lực pháp lí thấp hơn các văn bản luật.


Các văn bản này gồm: các pháp lệnh, nghị quyết, quyết định, nghị định, lệnh,
chỉ thị, thông tư do Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Chủ tịch nước, các Bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan ngang bộ ban
hành.
Các văn bản pháp luật sắp xếp theo hiệu lực pháp lý giảm dần như sau:
2.2.1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội
1. Quốc hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.
Việc soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và thủ tục,
trình tự giải thích Hiến pháp do Quốc hội quy định.
2. Luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã

hội, quốc phịng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tơn giáo,
văn hố, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền
và nghĩa vụ của công dân.
3. Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung
ương; điều chỉnh ngân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước; quy định chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề khác thuộc
thẩm quyền của Quốc hội.
2.2.2. Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
1. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định những vấn đề được
Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định
ban hành luật.
2. Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành để giải thích
Hiến pháp, luật, pháp lệnh; hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân;
quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, tổng động viên hoặc động viên cục
bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương và quyết
định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.


2.2.3. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
2.2.4. Nghị định của Chính phủ
Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:
+ Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;

+ Quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội, quốc
phịng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tơn giáo, văn hố,
giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ,
cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc
thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ;
+ Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của
Chính phủ;
+ Quy định những vấn đề cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành
luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế,
quản lý xã hội. Việc ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
2.2.5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề
sau đây:
+ Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành
chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; chế độ làm việc với các thành viên
Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
+ Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm
tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban
nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
2.2.6. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được ban hành để quy
định các vấn đề sau đây:


+ Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước,

nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
+ Quy định về quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế - kỹ thuật của
ngành, lĩnh vực do mình phụ trách;
+ Quy định biện pháp để thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực do
mình phụ trách và những vấn đề khác do Chính phủ giao.
2.2.7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được ban hành
để hướng dẫn các Tịa án áp dụng thống nhất pháp luật.
2.2.8. Thơng tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao
1. Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao được ban hành để thực
hiện việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương và Toà án quân sự về tổ
chức; quy định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chánh án Tồ án
nhân dân tối cao.
2. Thơng tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành
để quy định các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự; quy định những
vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
2.2.9. Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước
Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước được ban hành để quy định, hướng
dẫn các chuẩn mực kiểm toán nhà nước; quy định cụ thể quy trình kiểm tốn,
hồ sơ kiểm tốn.


CHƯƠNG III: NHỮNG KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN ĐẾN BỘ MÁY NHÀ
NƯỚC VÀ VIỆC BAN HÀNH CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT
Theo Hiến pháp năm 1992 đã có nhiều điểm thay đổi, tiến bộ phù hợp
với công tác quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước. Song riêng vấn đề
ban hành các văn bản pháp lý thì cong nhiều chỗ bất cập đó là:

Hiến pháp 1992 đã bỏ qua những khía cạnh quan trọng trong quan hệ
giữa văn bản của Chính phủ và Chủ tịch nước. Theo điều 115 văn bản của
Thủ tướng Chính phủ vẫn phải phù hợp với văn bản của Chủ tịch nước,
nhưng khi nó khơng phù hợp thì lại khơng quy định cơ quan nào có thẩm
quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ. Chủ tịch nước khơng có quyền này (điều 113).
Mặt khác, tương quan về hiệu lực pháp lý giữa văn bản của Chính phủ
và Thủ tướng lại không rõ. Đây cũng là điểm mắc mớ quan trọng trong "bước
chuyển" sang nguyên tắc kết hợp chế độ tập thể lãnh đạo và chế độ Thủ
trưởng đối với Chính phủ trong hiến pháp 1992.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương thì Bộ, các cơ
quan chuyên môn của Bộ và các cơ quan khác trực thuộc Bộ đặt tại địa
phương phải chấp hành các quy định của UBND các cấp về vấn đề thuộc
chức năng quản lý theo lãnh thổ như: an ninh, trật tự an tồn cơng cộng, bảo
vệ mơi trường đất đai… nhưng trong thực tiễn quản lý vẫn còn nhiều mâu
thuẫn giữa Bộ và UBND rất phức tạp, khó giải quyết.
Các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương thì việc ban hành văn bản
pháp luật thì cả Hiến pháp 1992 và luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
1996 (sửa đổi bổ sung 2002) chưa quy định rõ ràng văieọt nam bản nào là của
tập thể UBND và văn bản nào là của Chủ tịch UBND.
Trên đây là những điểm hạn chế với việc ban hành và thực thi các văn
bản pháp luật của các cơ quan Nhà nước - đây cũng chính là những kiến nghị
với các cơ quan quyền lực Nhà nước cần xem xét và quy định sao cho phù
hợp với từng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để các cơ quan quản lý
xã hội được tốt trong thời gian tới.


PHẦN III: KẾT LUẬN

Pháp luật về trách nhiệm hình sự và hành chính về cơ bản đã đáp ứng
được yêu cầu quản lý. Tuy nhiên, pháp luật về trách nhiệm kỷ luật và vật chất

còn nhiều tồn tại, cần thiết phải có sự điều chỉnh chi tiết hơn đối với sự vi
phạm kỷ luật nhiều lần và tái phạm kỷ luật, cũng như sự chi tiết hóa các hành
vi vi phạm kỷ luật cụ thể và tương ứng với nó là các biện pháp trách nhiệm kỷ
luật. Pháp luật nước ta về trách nhiệm kỷ luật và còn thiếu vắng các quy định về
trách nhiệm của người đứng đầu để xảy ra tiêu cực, tham nhũng tại cơ quan,
đơn vị mình phụ trách, trách nhiệm liên đới của Thủ trưởng cơ quan, trách
nhiệm pháp lý tập thể, trách nhiệm của người tham mưu và người ra các quyết
định hành chính sai trái; cịn nặng chú trọng hồn thiện pháp luật về trách
nhiệm pháp lý dưới giác độ tiêu cực, mà ít chú trọng đến việc hoàn thiện và
kiểm tra thực hiện trách nhiệm pháp lý dưới giác độ tích cực


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Wikipedia.com
- Giáo trình pháp luật đại cương – Đại học BK Hà Nội
- Luật tổ chức Chính phủ
- Luật ban hành văn bản vi phạm pháp luật 1996 (sửa đổi bổ sung 2002)
- Giáo trình pháp luật đại cương của trường Đại hoc kinh tế Quốc dân.
- />- />


×