Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.87 KB, 61 trang )

Nguyễn Thị Ngà - HC31D 1
LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội và đời sống cộng đồng,
là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính khách quan, vừa mang tính
chủ quan. Chính vì vậy, pháp luật có một ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng.
Trong bối cảnh xã hội Việt nam hiện nay, pháp luật là vũ khí chính trị sắc bén
để nhân dân đấu tranh chống lại các lực lượng thù địch, giữ vững an ninh quốc
phòng và trật tự an toàn xã hội; là cơ sở pháp lý để bộ máy Nhà nước Việt Nam
tổ chức và hoạt động; là công cụ để Nhà nước quản lý hữu hiệu các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội; là phương tiện thiết lập và bảo đảm công bằng,
thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; là cơ sở bảo vệ hữu hiệu quyền công dân;
đồng thời, pháp luật tạo điều kiện cho những công cụ quản lý xã hội khác phát
triển vì một xã hội công bằng, văn minh, tốt đẹp hơn. Nhận thức được tầm quan
trọng đó, Nhà nước ta luôn coi xây dựng pháp luật là một hoạt động cơ bản và
quan trọng hàng đầu. Những năm qua, đặc biệt là khi Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 2008 ra đời, hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước đã gặt hái được những kết quả đáng
kích lệ. Góp phần to lớn vào sự thành công chung đó, phải kể tới hoạt động ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, hoạt động ban hành
văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương cũng bộc
lộ những hạn chế và bất cập, nhất là vào giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Một số quan hệ xã hội quan trọng vẫn chưa được điều chỉnh; quy trình
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn chưa được thực hiện nghiêm túc; nội
dung nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, không
thống nhất, thiếu tính khả thi; văn bản quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành
còn “nợ đọng”;…
Xuất phát từ thực trạng đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực
tiễn về hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
Khóa luận tốt nghiệp - 2010


Nguyễn Thị Ngà - HC31D 2
quan Nhà nước ở trung ương là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Do vậy, em
đã mạnh dạn chọn đề tài: “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan Nhà nước ở trung ương” với hy vọng sẽ góp phần cung cấp cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Song, trong phạm vi của một đề tài
khóa luận tốt nghiệp cử nhân, em chỉ dừng lại xem xét, tìm hiểu khái niệm, đặc
điểm, đánh giá thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan
Nhà nước ở trung ương, từ đó đưa ra những giải pháp cho việc hoàn thiện hoạt
động này.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận truyền
thống của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, đề tài còn
sử dụng các phương pháp bổ trợ như phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, thống
kê, kết hợp lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
Luận văn được trình bày theo bố cục như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về văn bản quy phạm pháp luật do các
cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành.
Chương 2: Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan Nhà nước ở trung ương và một số kiến nghị hoàn thiện.
Đây là một đề tài rộng và khó, với kiến thức còn hạn hẹp và thiếu kinh
nghiệm thực tế nên mặc dù đã được sự chỉ bảo nhiệt tình và tận tâm của Cô giáo
hướng dẫn cùng sự giúp đỡ của bè bạn, luận văn vẫn không thể tránh khỏi
những hạn chế. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp của các
Thầy, Cô giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 3
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM

PHÁP LUẬT DO CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở
TRUNG ƯƠNG BAN HÀNH.
1.1 Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội đa dạng, phức tạp và
không thể tách rời. Nhà nước hình thành để thực hiện nhiệm vụ tác động tới các
quan hệ xã hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý theo ý chí của giai cấp thống trị.
Thực hiện mục tiêu đó, Nhà nước phải sử dụng một công cụ điều chỉnh tồn tại
song song với sự tồn tại của Nhà nước, đó là pháp luật. Pháp luật được hình
thành, phát triển bằng con đường nhà nước và Nhà nước chỉ tồn tại được khi có
pháp luật. Nhà nước sử dụng pháp luật dưới nhiều hình thức như: tập quán pháp,
tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Trong những hình thức đó, văn bản
quy phạm pháp luật là hình thức tiến bộ nhất. Với những đặc điểm đặc biệt và
ưu thế mà tập quán pháp, tiền lệ pháp không có, văn bản quy phạm pháp luật trở
thành hình thức pháp luật chủ đạo và phù hợp nhất với kiểu pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, dù vai trò của văn bản quy phạm pháp luật đã được nhận định
từ lâu thì phải tới năm 1996, khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật lần
đầu tiên ra đời, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định cụ thể
và thống nhất. Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 quy
định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự
chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước,
năm 2004, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân ra đời, vì vậy, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật cũng
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 4
có sự thay đổi: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình
tự, thủ tục được quy định trong luật này hoặc luật ban hành văn bản quy phạm

pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự
chung, có hiệu lực bắt buộc chung được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều
chỉnh các quan hệ xã hội” (khoản 1, Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật 2008).
Căn cứ vào khái niệm văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì chủ thể có
thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải là các cơ quan Nhà
nước. Tuy nhiên, Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008
lại liệt kê các cá nhân có thẩm quyền ban hành như Chủ tịch nước; Thủ tướng
Chính phủ; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Tổng Kiểm toán Nhà
nước (khoản 2,5,6,7,8,9, Điều 2). Như vậy, có thể thấy giữa hai Điều luật này đã
có sự không thống nhất, dễ tạo ra lầm tưởng về chủ thể ban hành văn bản. Sẽ
hợp lý hơn nếu Luật quy định rõ văn bản quy phạm pháp luật do các cá nhân và
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Với đề tài khóa luận “Thực trạng ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan Nhà nước ở trung ương”, người viết xin đi sâu vào tìm hiểu
thực trạng ban hành nhóm văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà
nước ở trung ương, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội; Pháp
lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị định của Chính phủ;
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết liên
tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung
ương của tổ chức chính trị xã hội; Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 5
ngang bộ (khoản 1,2,4,6,10,11, Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 2008).
1.2 Đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước

ở trung ương ban hành.
Các cơ quan nhà nước ở trung ương là những cơ quan đầu não của cả
nước, thể hiện tập trung nhất quyền lực của một chế độ xã hội. Vì vậy, văn bản
quy phạm pháp luật do những chủ thể này ban hành có một vai trò rất đặc biệt.
Nó không chỉ là những văn bản có phạm vi áp dụng rộng rãi nhất mà còn là cơ
sở pháp lý để nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác ra đời. Giữ vị trí đặc biệt
quan trọng trong hệ thống pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan
Nhà nước ở trung ương ban hành mang những đặc điểm sau:
Văn bản quy phạm pháp luật do chủ thể có thẩm quyền ban hành
theo quy định của pháp luật.
Với vai trò quan trọng là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội , là cơ sở
cho việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính, văn bản
quy phạm pháp luật do đó chỉ được ban hành bởi các chủ thể nhất định theo quy
định của pháp luật. Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008
quy định những cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
bao gồm: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, có
sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với nhau hoặc giữa các cơ quan nhà
nước với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. Ngoài ra, các cá
nhân cũng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó là: Chủ tịch
nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tổng
Kiểm toán Nhà nước
Vì vậy, dấu hiệu đầu tiên để khẳng định văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành là văn bản được ban hành bởi
những chủ thể: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; Chính phủ; Hội đồng
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 6
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà
nước với nhau hoặc với các cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội .

Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi các cơ quan Nhà
nước ở trung ương có hình thức do pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức của văn bản quy phạm
pháp luật bao gồm hai yếu tố cấu thành là: tên gọi và thể thức của văn bản.
Điều 2, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 có quy định tên
gọi của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương
ban hành, bao gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị
quyết liên tịch, Thông tư liên tịch. Việc quy định tên gọi của văn bản như trên đã
thể hiện thẩm quyền về hình thức của các cơ quan ban hành văn bản: trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan được quyền ban hành những loại văn
bản nào và khi điều chỉnh một vấn đề pháp lý cụ thể, cơ quan ban hành phải ban
hành đúng hình thức văn bản đó. Việc tuân thủ quy định về tên gọi nói riêng và
hình thức của văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung
ương ban hành nói chung là điều kiện cần để khẳng định nội dung của văn bản
(là có chứa quy phạm pháp luật). Đồng thời, nó còn giúp phân biệt với các loại
văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác cũng như với văn
bản do các cá nhân ban hành; xác định thứ bậc, hiệu lực của từng loại văn bản.
Bên cạnh tên gọi, pháp luật còn quy định về thể thức của văn bản quy
phạm pháp luật. Thể thức văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là kết cấu về
hình thức của văn bản. Hiện nay, thể thức của văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nói riêng và của các chủ thể có
thẩm quyền nói chung được quy định cụ thể trong Thông tư liên tịch số
55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/05/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng
Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kĩ thuật trình bày văn bản và Quyết định số
20/2002/QĐ-BKHCN, ngày 31/12/2002 của Bộ Khoa học và công nghệ ban
hành tiêu chuẩn Việt nam số 5700 năm 2002.
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 7
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương
ban hành phải tuân theo trình tự, thủ tục luật định.

Với vai trò là công cụ không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước,
văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải đảm bảo sự thống nhất, chặt
chẽ về mọi mặt, trong đó có trình tự và thủ tục ban hành. Vì thế, Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật 2008 đã có những quy định khá chi tiết và hợp lý
về thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở
trung ương. Các cơ quan Nhà nước ở trung ương có vị trí, chức năng nhất định,
ban hành văn bản để điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất và vai trò khác
nhau. Chính vì thế, mỗi cơ quan Nhà nước cần tuân theo trình tự và thủ tục ban
hành văn bản quy phạm pháp luật riêng. Theo đó, trình tự, thủ tục ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy
định cụ thể tại chương III (từ Điều 22 đến Điều 57); của Chính phủ được quy
định tại chương V (từ Điều 59 đến Điều 66); của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao tại chương VI (Điều 69); trình tự thủ tục ban hành văn bản quy
phạm pháp luật liên tịch được quy định tại chương VII (Điều 73, Điều 74).
Việc quy định cụ thể về trình tự, thủ tục ban hành đối với mỗi loại văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương không chỉ
nhằm thống nhất hóa các hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật mà còn có vai trò trợ giúp cho người soạn thảo, tạo cơ chế trong việc
phối hợp, kiểm tra, giám sát của những cơ quan có thẩm quyền, từ đó hạn chế
khiếm khuyết trong hoạt động của Nhà nước. Một văn bản quy phạm pháp luật
có chất lượng cao phụ thuộc rất lớn vào việc thực hiện đúng, đủ, nghiêm túc quy
trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền và sự
hoàn thiện của pháp luật trong quy định đối với thủ tục ban hành văn bản quy
phạm pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương
ban hành có nội dung là các quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 8
chung, được áp dụng nhiều lần đối với nhiều đối tượng, có hiệu lực trong
phạm vi toàn quốc.

Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm
thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội. Các quy tắc xử sự là những khuôn mẫu, những chuẩn mực mà mọi cơ
quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia các quan hệ xã hội được các
quy tắc đó điều chỉnh.
Với nội dung là các quy tắc xử sự chung, văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành cũng giống như các văn bản quy
phạm pháp luật khác: đều mang tính bắt buộc chung. Tính bắt buộc chung của
văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là bắt buộc đối với mọi chủ thể nằm
trong những điều kiện nhất định mà quy phạm pháp luật đó đã dự liệu. Đồng
thời, để tính bắt buộc chung của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu quả trên
thực tế, Nhà nước đã đề ra những biện pháp để bảo đảm thực hiện như: tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục, hành chính, kinh tế , cưỡng chế,…
Hơn nữa, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung
ương ban hành nhằm dự liệu những trường hợp, tình huống để áp dụng cho mọi
đối tượng có đủ điều kiện như trong dự liệu đó. Vì vậy, chúng không như văn
bản áp dụng pháp luật chỉ được áp dụng cho một chủ thể hoặc được áp dụng một
lần, mà còn được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong thực tế.
Văn bản quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền khác nhau ban
hành thì có nội dung và hiệu lực áp dụng không giống nhau. Thông thường, văn
bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành có
hiệu lực pháp lý trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, cũng có trường hợp văn bản
quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành nhưng chỉ
có hiệu lực pháp lý trên phạm vi một số địa phương. Và trường hợp ngoại lệ này
thường áp dụng đối với các địa phương có đặc thù về điều kiện kinh tế - xã hội,
điều kiện địa lý, dân cư,…
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 9
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương
ban hành được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Pháp luật mang tính giai cấp, thông qua pháp luật giai cấp lãnh đạo đã thể
hiện ý chí của mình nhằm thực hiện hoạt động quản lý xã hội. Để thực hiện điều
đó, việc thực thi pháp luật cũng phải được đảm bảo bằng nhiều biện pháp trên
thực tế.
Trước hết, Nhà nước thực hiện tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật
để mọi chủ thể tự nguyện, tự giác tuân thủ và thực hiện đúng nội dung văn bản
quy phạm pháp luật. Nếu các chủ thể có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng thì Nhà nước sẽ có những biện pháp cưỡng chế thích hợp buộc
các chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước. Ngược lại, nếu các
chủ thể thực hiện tốt thì có thể được khích lệ về tinh thần hoặc vật chất như:
tặng huân chương, huy chương, bằng khen, thưởng tiền,…
Với vai trò là công cụ quản lý của Nhà nước, cũng giống như các văn bản
quy phạm pháp luật khác, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước
ở trung ương ban hành luôn được Nhà nước bảo đảm thực hiện trên thực tế.
1.3 Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nước ở Trung ương.
Hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động
chuyên môn do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện hoặc phối hợp
thực hiện bằng việc xác lập những hình thức văn bản khác nhau. Thông qua các
văn bản quy phạm pháp luật, ý chí của nhà nước cùng các giá trị khách quan của
xã hội được thể hiện thông qua ý chí chủ quan của những chủ thể có thẩm quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, để hoạt động ban hành văn bản
quy phạm pháp luật đạt hiệu quả cao, chất lượng văn bản được bảo đảm thì một
trong những vấn đề phải chú ý trước nhất đó là thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
Theo quy định của pháp luật hiện nay, thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước ở
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 10
Trung ương nói riêng được xem xét dưới hai góc độ: thẩm quyền về hình thức

và thẩm quyền về nội dung.
Thứ nhất, thẩm quyền về hình thức là thẩm quyền của các chủ thể trong
việc ban hành những hình thức văn bản do pháp luật quy định. Theo đó, mỗi chủ
thể có thẩm quyền chỉ được ban hành một số loại văn bản nhất định. Vì vậy, vai
trò của mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật sẽ khác nhau, được áp dụng phù
hợp với từng công việc cụ thể.
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996,
sửa đổi bổ sung năm 2002, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nước bao gồm hơn 20 loại văn bản do nhiều cơ quan có thẩm quyền
ban hành, trong đó có những chủ thể có thẩm quyền ban hành từ 2 đến 3 loại văn
bản. Quy định đó đã dẫn đến một thực tế là việc xác định thứ bậc hiệu lực của
các văn bản quy phạm pháp luật gặp không ít khó khăn, đặc biệt trong nhiều
trường hợp khó xác định được khi nào và vấn đề gì cần ban hành văn bản dưới
hình thức nào. Điều đó đã làm cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chồng
chéo, phức tạp và khó áp dụng. Trước thực tế như vậy, Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật 2008 đã có sự thay đổi đáng kể, hình thức văn bản quy
phạm pháp luật đã được thu hẹp lại, nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành văn
bản chỉ có thẩm quyền ban hành một hình thức văn bản. Theo đó, hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở Trung ương hiện nay bao
gồm: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban thường vụ Quốc hội; Nghị định của Chính phủ; Nghị quyết của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ
Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã
hội; Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (Điều 2, Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật 2008).
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 11

Thứ hai, Thẩm quyền về nội dung là giới hạn quyền lực của các chủ thể
trong quá trình giải quyết công việc do pháp luật quy định. Về thực chất, đó là
“giới hạn của việc sử dụng quyền lực nhà nước mà pháp luật thực định đã đặt ra
đối với từng cơ quan trong bộ máy nhà nước về mỗi loại công việc nhất
định”
[8,tr.71]
.
Thẩm quyền này của các cơ quan Nhà nước ở trung ương trước hết được
pháp luật quy định trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước như
Luật Tổ chức Quốc hội 2001, Luật Tổ chức Chính phủ 2001, Luật Tổ chức Tòa
án nhân dân 2002.
Hiến pháp nước ta quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, do đó, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp. Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, là cơ sở của hệ thống
pháp luật, Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản về chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa, an ninh quốc phòng, hình thức và bản chất của nhà nước. Bên cạnh
quyền thông qua Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, Quốc hội còn có quyền thông
qua luật và sửa đổi luật. Luật quy định về các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh
tế, xã hội, quốc phòng, an ninh tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn
giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức,
quyền và nghĩa vụ của công dân. Ngoài ra, Quốc hội còn có quyền quyết định
nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội; các vấn đề về ngân sách nhà nước; quy định
chế độ làm việc của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc,
Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết
định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội thông qua hoạt động ban
hành văn bản quy phạm pháp luật là Nghị quyết.
Với vai trò là cơ quan thường trực của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội có một vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước. Theo quy định của pháp

luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội được trao quyền ban hành hai loại văn bản là
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 12
Pháp lệnh và Nghị quyết. Pháp lệnh được ban hành để quy định những vấn đề
được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện sẽ trình Quốc hội xem xét và
quyết đinh ban hành thành luật. Bên cạnh đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội còn
ban hành Nghi quyết để giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, quyết định tuyên
bố tình trạng chiến tranh, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng
địa phương,… và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Ủy ban thường vụ
Quốc hội.
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, số
lượng các loại văn bản quy phạm pháp luật có sự thay đổi theo hướng thu hẹp lại
so với quy định trước đây. Do đó, để đảm bảo thẩm quyền của các chủ thể ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật
cũng được mở rộng hơn.
Nếu Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 (sửa đổi, bổ sung
2002) quy định Chính phủ có thẩm quyền ban hành Nghị quyết và Nghị định thì
pháp luật hiện hành đã quy định Chính phủ chỉ còn ban hành một hình thức văn
bản quy phạm pháp luật là Nghị định. Theo quy định tại Điều 14, Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật 2008, Nghị định của Chính phủ được ban hành để
quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. Nghị định quy định
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Nghị
định của Chính phủ còn quy định những vấn đề thuộc Nghị quyết trước đây:
những biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội , quốc phòng, an
ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế,
khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ cán bộ, công chức, quyền và
nghĩa vụ của công dân,... Khi có những vấn đề phát sinh cần thiết phải giải quyết
nhưng chưa được luật hoặc pháp lệnh quy định thì Chính phủ có thể ban hành

Nghị định để giải quyết vấn đề đó, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế, quản lý xã hội với sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 13
Trong hệ thống cơ quan tư pháp, chỉ có Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao là có thẩm quyền độc lập trong việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. So với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
1996 (sửa đổi, bổ sung 2002), nội dung Nghị quyết do Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao ban hành theo quy định của pháp luật hiện nay đã thu hẹp
hơn, không còn nội dung tổng kết kinh nghiệm xét xử mà Nghị quyết được ban
hành chỉ nhằm hướng dẫn các Tòa án thống nhất áp dụng pháp luật.
Để hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện một cách hiệu quả, đáp
ứng kịp thời nhu cầu của xã hội, đặc biệt là trong việc giải quyết các vấn đề liên
quan tới nhiều bộ, ngành đòi hỏi sự phối hợp của các cơ quan trong việc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 2008 có quy định hình thức văn bản quy phạm pháp luật liên tịch của các cơ
quan nhà nước ở trung ương là Nghị quyết liên tịch và Thông tư liên tịch. Nghị
quyết liên tịch được ban hành bởi Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính
phủ với cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội nhằm hướng dẫn
thi hành những vấn đề khi tổ chức chính trị - xã hội đó tham gia vào hoạt động
quản lý nhà nước. Thông tư liên tịch là văn bản được ban hành giữa Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để hướng dẫn việc áp dụng thống
nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng và những vấn đề khác liên quan đến
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.
1.4 Hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở
Trung ương ban hành.
Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được hiểu là khả năng tác động
của văn bản vào các quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở pháp luật hiện

hành. Để mỗi văn bản quy phạm pháp luật phát huy được vai trò của mình và
điều chỉnh các quan hệ xã hội một cách hiệu quả thì việc quy định hiệu lực của
văn bản quy phạm pháp luật là điều không thể thiếu. Mỗi văn bản quy phạm
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 14
pháp luật có hiệu lực khác nhau tùy thuộc vào vị trí, tính chất, mục đích điều
chỉnh của văn bản đó và thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản. Cũng như
hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, hiệu lực văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương được xem xét trên ba
yếu tố là thời gian, không gian và đối tượng thực hiện.
Hiệu lực theo không gian
Hiệu lực theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật là giới hạn
phạm vi tác động của văn bản về mặt không gian, có thể là toàn bộ lãnh thổ
quốc gia, một địa phương hoặc một vùng nhất định. Hiệu lực về không gian của
văn bản quy phạm pháp luật phụ thuộc vào thẩm quyền của cơ quan ban hành
văn bản, phạm vi và mức độ điều chỉnh của văn bản. Cơ quan nhà nước ở trung
ương là các cơ quan có vị trí đặc biệt quan trọng, giữ vai trò đầu não chỉ đạo
hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương, nên văn bản quy phạm pháp
luật của các cơ quan nhà nước trung ương “có hiệu lực trong cả nước trừ trường
hợp văn bản có quy định khác hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác” (Điều 82, Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật 2008).
Hiệu lực về không gian của văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan
Nhà nước ở trung ương ban hành có thể có hoặc không được nêu cụ thể trong
các văn bản quy phạm pháp luật. Trong trường hợp hiệu lực không được quy
định cụ thể như vậy, chúng ta có thể căn cứ vào tính chất quan hệ xã hội được
điều chỉnh cũng như phạm vi điều chỉnh của các văn bản để xác định hiệu lực về
không gian.
Hiệu lực theo thời gian
Hiệu lực theo thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là sự tác động

của văn bản lên các quan hệ xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, thể
hiện ở thời điểm bắt đầu có hiệu lực và thời điểm kết thúc hiệu lực. Việc quy
định hiệu lực theo thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là rất cần thiết vì
các văn bản được ban hành vào những thời điểm khác nhau, với mục đích điều
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 15
chỉnh khác nhau trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định nên chỉ phù hợp khi
những điều kiện đó còn tồn tại. Hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nước ở trung ương theo thời gian được quy định cụ thể từ Điều 78 đến
Điều 81 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008.
Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định
như sau: “Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định
trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi năm ngày, kể từ ngày kí hoặc ban
hành” (khoản 1, Điều 78, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
Trong trường hợp văn bản quy định những biện pháp thi hành trong trường hợp
khẩn cấp hoặc văn bản ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng chống thiên
tai, dịch bệnh “thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành nhưng
phải được đăng trên trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được
đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt nam chậm nhất sau hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố
hoặc ký ban hành” (khoản 1, Điều 78, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 2008). Hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở
trung ương cũng tuân thủ theo quy định chung này.
So với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 (sửa đổi, bổ sung
2002), quy định về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật trong Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu như
trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 (sửa đổi, bổ sung 2002),
hiệu lực của luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội; văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước; văn bản
quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ

trưởng cơ quan ngang bộ, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các văn bản quy phạm pháp luật liên
tịch khác được quy định những thời điểm có hiệu lực khác nhau thì hiện nay thời
điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật đã được quy định chung.
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 16
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có tính dự báo cao. Đồng thời, để
tạo sự ổn định cho hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của đối tượng tác
động nên văn bản quy phạm pháp luật được quy định áp dụng nhiều lần trong
thực tế. Vì vây, thời điểm kết thúc hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
thường không được quy định cụ thể. Tuy nhiên, về mặt lý luận và thực tiễn có
thể xác định thời điểm kết thúc hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Điều
81, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 quy định văn bản quy
phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp: hết
thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản; được sửa đổi, bổ sung
hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn
bản đó; bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương về
thời điểm kết thúc hiệu lực cũng không nằm ngoài những trường hợp trên.
Hiệu lực về đối tượng thực hiện
Hiệu lực về đối tượng thực hiện được hiểu là việc các cơ quan Nhà nước
ban hành văn bản quy phạm pháp luật giao cho một hoặc nhiều chủ thể có trách
nhiệm triển khai, tổ chức thực hiện văn bản của mình. Để văn bản quy phạm
pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành được thực hiện một
cách nghiêm chỉnh và thực sự đi vào cuộc sống thì vai trò của đối tượng thi hành
những văn bản đó là rất quan trọng. Theo nguyên tắc, đối tượng thực hiện văn
bản quy phạm pháp luật là các cơ quan cấp dưới của cơ quan ban hành văn bản.
Thực hiện nhiệm vụ của mình, các chủ thể là đối tượng thực hiện tiến hành quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp
luật hoặc cũng có khi chỉ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một điều

khoản cụ thể được giao trong văn bản quy phạm pháp luật đó. Ngoài ra, các chủ
thể là đối tượng thi hành còn thực hiện việc hướng dẫn các nội dung khác phù
hợp với yêu cầu quản lý Nhà nước. Ví dụ: Chính phủ ban hành nghị định để quy
định chi tiết thi hành luật của Quốc hội; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ được ban hành để quy định chi tiết thi hành nghị định của Chính
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 17
phủ; nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được ban
hành để hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật;…
Trên thực tế, các văn bản pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành thường được nhân dân biết đến nhiều hơn cả. Điều đó đòi hỏi trách nhiệm
của các chủ thể là đối tượng thực hiện trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Trách nhiệm của chủ thể là đối tượng thi hành được quy định cụ thể, chi tiết
trong từng văn bản quy phạm pháp luật.
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 18
Chương 2:
THỰC TRẠNG BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Ở
TRUNG ƯƠNG.
2.1 MỘT SỐ THÀNH TỰU TRONG HOẠT ĐỘNG BAN HÀNH
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Ở TRUNG ƯƠNG.
2.1.1 Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung
ương ban hành đã thể chế hóa được nhiều đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội.
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng ta đã đề ra nhiều đường lối, chủ
trương, chính sách phù hợp và đúng đắn. Để đường lối, chủ trương, chính sách

ấy thực sự đi vào cuộc sống, đòi hỏi chúng phải được thể chế hóa thông qua hoạt
động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Trong
những năm qua, các văn bản quy phạm pháp luật mà đi đầu là văn bản quy phạm
pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương đã bám sát được nhiệm vụ
cách mạng trong từng thời kì, thể chế hóa được nhiều đường lối, chính sách lớn
của Đảng trên nhiều lĩnh vực.
Trong thời kì đổi mới, Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, kinh tế
tăng trưởng nhanh và bền vững, giữ vững an ninh quốc phòng, cải thiện và nâng
cao đời sống của nhân dân, cùng với việc giải quyết những vấn đề bức xúc trong
xã hội,…đều được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật. Chúng ta
đã xây dựng được nhiều đạo luật tạo khung pháp lý cho sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 19
doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh, các cơ chế bảo đảm và khuyến khích đầu
tư,… Pháp luật trong lĩnh vực hành chính nhà nước đã có những thay đổi tích
cực. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn của
công chức, nội dung và trách nhiệm công vụ được phân định rành mạch, rõ ràng;
thủ tục hành chính được cải cách theo hướng đơn giản, công khai, dễ tiếp cận,
dễ kiểm tra, giám sát đã đạt được những kết quả tích cực; các dịch vụ công đang
được xác lập, từng bước đáp ứng nhu cầu của nhân dân và yêu cầu của cải cách
hành chính. Pháp luật về lao động, việc làm, an sinh xã hội và các lĩnh vực xã
hội khác đã được quan tâm xây dựng, góp phần phát triển kinh tế đi đôi với hạn
chế những tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Pháp luật trong lĩnh vực quốc
phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được tăng cường, góp phần giữ vững ổn
định chính trị, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Chúng ta có thể kể
đến những văn bản quy phạm pháp luật tiêu biểu như: Luật Lao động 1994; Luật
Đất đai 2003; Luật Thương mại 2005; Luật Giáo dục 2005; Luật Quốc phòng
2005; Luật Đầu tư 2005; Luật Bảo hiểm y tế 2008; và Luật Giáo dục sửa đổi bổ

sung 2009; Luật Cán bộ công chức 2010; …cùng các Nghị định, Thông tư liên
tịch quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành. Việc thể chế hóa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng trở thành bước tiền đề tạo nên những thắng lợi to
lớn về kinh tế - xã hội của đất nước ta trong những năm qua.
Để xây dựng một Nhà nước vững mạnh và hoàn thiện, một Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân và vì dân”, cùng với việc đề ra
đường lối đổi mới về kinh tế, Đảng ta luôn luôn chú trọng tới việc đổi mới hệ
thống chính trị về tổ chức bộ máy Nhà nước. Điều đó được thể hiện trong nhiều
văn kiện của Đảng và được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật biểu hiện ở:
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992; Luật Tổ chức
Quốc hội 2001; Luật Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội 2003; Luật Tổ
chức Chính phủ 2001; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002; Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân 2002; Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002; Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003;… Qua những văn bản quy phạm
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 20
pháp luật này có thể nhận thấy tư duy lý luận trong hoạt động xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương đã có
sự phát triển trong quá trình đổi mới, thể hiện một bước tiến lớn về xây dựng
Nhà nước so với trước đây, đó là nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống nhất, có
sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
2.1.2 Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước ở trung
ương ban hành ngày càng thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của đối tượng
chịu sự tác động trực tiếp của văn bản.
Đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật là
những chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội mà các văn bản đó điều chỉnh.
Văn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản quy phạm pháp luật do các
cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành nói riêng không chỉ phản ánh ý chí và
nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà còn bảo vệ quyền

lợi cho mọi tầng lớp nhân dân trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước.
Việc đơn giản hóa các thủ tục thành lập doanh nghiệp thể hiện trong Luật Doanh
nghiệp 2005; việc dành nhiều ưu tiên cho lao dộng nữ thể hiện trong Bộ luật Lao
động; việc tăng cường và tạo cơ chế cho đại biểu Quốc hội tiến hành giám sát
đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước thể hiện trong Luật Hoạt động giám
sát tối cao của Quốc hội;… là những ví dụ cho thấy nhiều quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật đã ngày càng bám sát cuộc sống và phản ánh trung
thực ý chí, nguyện vọng của nhân dân, góp phần phát huy sức sản xuất và làm
chủ của nhân dân, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước. Qua
đó, tăng cường lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước ta. Ngày càng
nhiều các văn bản quy phạm pháp luật phản ánh và đáp ứng mong muốn của
nhân dân được các cơ quan Nhà nước ở trung ương ban hành như: Luật Phòng
chống tham nhũng 2005; Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí 2005; Luật
Đấu thầu 2005;…với những quy định về minh bạch tài sản, thu nhập trong hoạt
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 21
động của các cơ quan, tổ chức, thực hành tiết kiệm trong tổ chức hội họp, thực
hiện đấu thầu trong mua bán tài sản công,…
2.1.3 Nội dung văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà
nước ở trung ương đã ngày càng đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Trong xu thế hội nhập của thế giới cùng với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là khi Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, các cơ quan Nhà nước
ở trung ương đã dành ưu tiên cho việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
trong lĩnh vực kinh tế. Rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hôị, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các văn bản liên tịch được ban hành đã
đáp ứng ngày càng kịp thời các yêu cầu đặt ra từ thực tiễn . Theo đó, nền kinh tế
được vận hành theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước, với nhiều
hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Các văn bản chú trọng nhiều tới vấn đề
phát triển doanh nghiệp, ngân hàng, xuất nhập khẩu, mở cửa thị trường thu hút

đầu tư,… Có thể kể đến những văn bản điển hình như: Luật Doanh nghiệp 2005;
Luật Đầu tư 2005; Luật Thương mại 2005; các Luật về thuế; Luật Kí kết, gia
nhập và thực hiện các Điều ước quốc tế 2005; Pháp lệnh số 22/2004/PL-
UBTVQH ngày 20/08/2004 về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Nam; … cùng các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành (Nghị định
57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006 về thương mại điện tử; Nghị định
78/2006/NĐ-CP ngày 09/08/2006 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài;
Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006 về đăng kí kinh doanh; Nghị định
108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn một
số điều của Luật Đầu tư 2005; Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy
định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán, hàng hóa và các hoạt động
liên quan trực tiếp tới hoạt động mua bán hành hóa của doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định 139/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 về
việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp; …). Ngoài ra,
nước ta còn gia nhập nhiều điều ước quốc tế đa phương quan trọng về sở hữu trí
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 22
tuệ và kí kết nhiều điều ước quốc tế song phương về tín dụng, hàng hải,… Các
văn bản quy phạm pháp luật này ra đời đã tạo ra một bước tiến lớn trong việc
hoàn thiện khung pháp luật cho các hoạt động kinh tế. Từ đó, giúp cải thiện thực
chất môi trường kinh doanh, hoàn thiện thể chế kinh tế và thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
Trong lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học – công nghệ và
môi trường, các cơ quan Nhà nước ở trung ương cũng ban hành nhiều văn bản
để đáp ứng các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống xã hội.
Trong lĩnh vực xã hội, nhiều văn bản như Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em; Pháp lệnh người cao tuổi năm 2000; Pháp lệnh cựu chiến binh năm
2005; Bộ luật Lao động 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006;…; Nghị định
118/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 về việc điều chỉnh lương hưu và trợ cấp bảo
hiểm xã hội; Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27/7/2009 quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế;… đã được ban hành.
Hiện nay, dự thảo Luật Thủ đô đang được các đại biểu Quốc hội và cơ quan
chức năng thảo luận, cho ý kiến. Việc soạn thảo Luật Thủ đô được coi là một
bước cấp thiết và hoàn toàn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Luật Thủ đô
không chỉ giúp Hà nội có cơ sở pháp lý nâng cao công tác quản lý, xây dựng,
phát triển Thủ đô mà còn tạo điều kiện giải quyết những yêu cầu cấp bách đặt ra
trong quy hoạch, đầu tư, xây dựng, dân cư,… Vừa qua, Chính phủ đã xây dựng
dự thảo Nghị định về việc bảo đảm nhà ở đối với sĩ quan Quân đội nhân dân
Việt Nam. Sau khi được đăng tải lên trang báo điện tử của Chính phủ, dự thảo
đã được sự ủng hộ và hoan nghênh của nhân dân. Dự thảo Nghị định này được
thông qua sẽ là giải pháp quan trọng góp phần thực hiện chính sách cán bộ, động
viên cán bộ chiến sĩ quân đội yên tâm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ
quốc. Kể từ ngày 1/1/2010, nhiều quy định của pháp luật về vấn đề xã hội cũng
được đưa vào cuộc sống như: bảo hiểm thất nghiệp chính thức thực hiện chi trả,
hút thuốc lá nơi công cộng sẽ bị xử phạt, tăng mức lươngs tối thiểu trong các
doanh nghiệp,… Qua những ví dụ trên cho thấy ngày càng có nhiều văn bản quy
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 23
phạm pháp luật hợp lý được các cơ quan nhà nước ở trung ương xem xét, nghiên
cứu và ban hành kịp thời, đáp ứng những đòi hỏi và yêu cầu bức thiết của xã
hội.
Về giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ, môi trường, nhiều văn bản quy
phạm pháp luật thiết thực cũng đã được thông qua như Luật Khoa học công
nghệ năm 2000; Luật Xuất bản 2004 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Xuất bản năm 2008; Luật giáo dục 2005 và Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung
năm 2009 ; Luật Công nghệ thông tin 2006;… Nghị định 111/2005/NĐ-CP ngày
26/08/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất
bản 2004; Nghị định 56/2006/NĐ-CP ngày 06/06/2006 quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa thông tin; Nghị định 75/2006/NĐ-CP
ngày 02/08/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục 2005; Nghị

định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27/07/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế 2008; Thông tư liên tịch số
10/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 10/08/2007 hướng dẫn đấu thầu mua thuốc
trong các cơ sở y tế công lập; Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC
ngày 14/05/2009 hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế; …
Đối với lĩnh vực an ninh quốc phòng, hoạt động ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở trung ương đã phát huy được vai
trò quan trọng, góp phần to lớn vào việc bảo đảm an ninh quốc phòng quốc gia
ngày càng vững mạnh. Có thể kể đến nhiều văn bản tiêu biểu như: Luật Biên
giới quốc gia 2003; Luật An ninh quốc gia 2004; Luật Quốc phòng 2005;…;
Nghị định số 86/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Pháp lệnh Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam;… An
ninh quốc phòng là một lĩnh vực rất nhạy cảm và có tính chất đặc biệt quan
trọng, vì vậy, Bộ luật Hình sự 1999 đã dành hẳn chương XI để quy định về các
tội xâm phạm an ninh quốc gia; ngoài ra, Luật còn quy định các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm quân nhân ở chương XXIII nhằm củng cố kỷ luật và sức
mạnh quốc phòng.
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 24
Về đối ngoại, trong nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành
tựu hết sức nổi bật. Đất nước ta từ thoát khỏi tình trạng bị bao vây cô lập, đã mở
rộng hơn bao giờ hết quan hệ quốc tế, không ngừng nâng cao vị thế ở khu vực
và trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Có được những thành tựu ấy một phần quan trọng là nhờ chính sách pháp
luật của Nhà nước, đặc biệt là những quy định pháp luật do các cơ quan Nhà
nước trung ương ban hành. Văn bản quy phạm pháp luật về đối ngoại do các cơ
quan Nhà nước ở trung ương ban hành đã tạo ra một môi trường chính trị ổn
định, thúc đẩy hoạt động đối ngoại diễn ra thuận lợi, từ đó làm cho quan hệ kinh
tế quốc tế phát triển. Hàng loạt các nguyên tắc chung của chế định thương mại
khu vực và trên thế giới như cạnh tranh công bằng, minh bạch hóa chính sách

pháp luật, chống bán phá giá, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tư pháp,…
đã được nội luật hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia. Có thể
kể tới những văn bản quy phạm pháp luật: Pháp lệnh số 24/2000/PL-
UBTVQH10 ngày 28/04/2000 về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam; Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc trong thương mại quốc tế
2002; Luật Kí kết, gia nhập và thự hiện điều ước quốc tế năm 2005; Luật
Thương mại 2005; Luật Cạnh tranh 2005;… Nghị định số 21/2001/NĐ-CP ngày
28/05/2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của
người nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 06/11/2001
về nghi lễ nhà nước và đón tiếp khách nước ngoài;… Thông tư liên tịch số
07/2004/TTLT-BLĐTBXH-BNG ngày 03/06/2004 hướng dẫn thực hiện một số
điều, khoản thuộc Nghị định 183/CP ngày 18/11/1994 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Pháp lệnh về cơ quan nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở nước ngoài trong lĩnh vực lao động thương binh xã hội; Thông tư liên
tịch số 04/2002/TTLT-BCA-BNG ngày 29/01/2002 hướng dẫn thực hiện Nghị
định 21/2001/NĐ-CP ngày 28/05/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam;…
Khóa luận tốt nghiệp - 2010
Nguyễn Thị Ngà - HC31D 25
Trong lĩnh vực tố tụng, những quy định của pháp luật ra đời về cơ bản đã
đáp ứng kịp thời yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội hiện nay. Việc giải quyết
các tranh chấp phát sinh vì thế có cơ sở pháp lý hữu hiệu, tạo điều kiện thuận lợi
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Điều này được thể hiện ở chỗ:
Quốc hội nước ta đã hai lần sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án theo hướng thành lập
các Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án Việt Nam, trên cơ sở đó, Ủy ban
thường vụ Quốc hội đã ban hành: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
1994; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996; Pháp lệnh về
công nhận và cho thi hành án tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài 1993; Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004; … Để các quy định trên
được cụ thể hóa và áp dụng thống nhất, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ

thống Tòa án, không thể thiếu vai trò của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao trong việc ban hành Nghị quyết hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống
nhất pháp luật. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành những
Nghị quyết: Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/05/2003 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế; Nghị
quyết số 03/2003/NQ-HĐTP ngày 18/04/2003 hướng dẫn thi hành một số quy
định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính; Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình;…
2.1.4 Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan
Nhà nước ở trung ương ban hành nhìn chung đã phù hợp với Điều ước
quốc tế mà Việt Nam gia nhập và kí kết.
Hiện nay, trên tinh thần chủ động hội nhập, nước ta đã trở thành thành
viên của nhiều tổ chức quốc tế như: ASEAN, UN, WTO và các diễn đàn hợp tác
kinh tế liên khu vực: APEC, ASEM; tham gia Khu vực Thương mại tự do
ASEAN, thỏa thuận ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Hàn Quốc…; thực hiện
các thỏa thuận song phương như Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ,
Hiệp đinh Đối tác Kinh tế toàn diện với Nhật Bản,… Tuy nhiên, khi nói tới hội
Khóa luận tốt nghiệp - 2010

×