Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

XÂY DỰNG BỘ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC MÔN TỰ CHỌN TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.9 KB, 116 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn
Đinh Bộ Lĩnh
1
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa Giáo dục thể chất,
Ban giám hiệu trường Đại học sư phạm Hà Nội đã truyền đạt cho tôi những
kiến thức và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy hướng dẫn:
PGS.TS.Vũ Đức Thu, đã tận tình động viên, giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong


suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý thầy, cô giảng dạy cho
lớp cao học K21 Giáo dục thể chất, đã dành nhiều tâm huyết để truyền thụ
cho chúng tôi những kiến thức quý báu về công tác giáo dục thể chất, làm tiền
đề cho việc nghiên cứu luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn cán bộ giảng viên, nhân viên khoa
Giáo dục thể chất, các em sinh viên trường Đại học Mỹ Thuật công nghiệp Hà
Nội, cùng bạn bè, gia đình đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi hoàn thành khóa học.
Học viên cao học
Đinh Bộ Lĩnh
2

KÝ HIỆU VIẾT TẮT
BCH – TW Ban chấp hành Trung ương
GD – ĐT Giáo dục và Đào tạo
GDTC Giáo dục thể chất
GS.TS Giáo sư tiến sĩ
NXB Nhà xuất bản
PGS.TS Phó giáo sư tiến sĩ
K10 Khóa 10
K11 Khóa 11
TDTT Thể dục thể thao
3
MỤC LỤC

PHỤ LỤC
4
DANH MỤC BẢNG
5
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hệ thống Giáo dục Thể chất trong các trường đại học là một bộ phận
hữu cơ của hệ thống Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Mục tiêu của Giáo dục
Thể chất (GDTC) là củng cố và tăng cường sức khỏe, phát triển năng lực thể
chất, hình thành và hoàn thiện các kỹ năng vận động để chuẩn bị sẵn sàng xây

dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), sức khỏe con người là vốn quý. Đảng và
Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí của công tác GDTC nhằm bồi dưỡng, nâng
cao sức khỏe đối với thế hệ trẻ và xem đó là mục tiêu quan trọng, cần phải có
chính sách chăm sóc giáo dục đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển hài hòa
về mặt thể chất, tinh thần, trí tuệ và đạo đức.
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần II khóa VIII năm 1996
như sau: “ Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; có tư duy sáng tạo, tính độc lập và tích cực cá nhân; có năng lực

thực hành giỏi, yêu nghề, làm chủ khoa học, kỹ thuật hiện đại; có ý thức tổ
chức kỷ luật; tác phong công nghiệp; ý thức cộng đồng và tinh thần hợp tác;
có ý thức bảo vệ môi trường; có nếp sống lành mạnh và có sức khỏe tốt.”
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và X Đảng ta đã xác định mục
tiêu là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh,
mục đích đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta thành một nước công nghiệp,
theo hướng hiện đại thì yếu tố con người luôn luôn là yếu tố quyết định, là
nhân tố quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã
hội, bảo vệ tổ quốc. Muốn làm được điều đó như Bác Hồ nói là cần phải
thường xuyên tập luyện Thể dục thể thao, mà Thể dục thể thao là một môn
7
khoa học, không chỉ giải quyết nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thiện về mặt thể

chất mà nó còn thúc đẩy sự phát triển của các mặt giáo dục khác. Thông qua
hoạt động Thể dục thể thao chúng ta từng bước nhận thức đúng đắn hơn về
bản chất của Giáo dục thể chất, làm cho các mối quan hệ này càng gắn bó
chặt chẽ hơn. Thể dục thể thao không phân biệt đẳng cấp, tôn giáo, mầu da và
vùng miền… Tất cả đều vì hòa bình hợp tác cùng phát triển.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra chiến lược về sức khỏe cho dân tộc
Việt Nam. Bác nói “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới,
việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công”. Và Bác cũng chỉ ra rằng vận
mệnh của đất nước dâng hiến với sức khỏe của từng người dân, vì “ mỗi
người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi người dân mạnh khỏe là cả nước
mạnh khỏe”. [31]
Thể dục thể thao là một hoạt động mang tính chất quần chúng xã hội

rộng rãi, kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì càng đòi hỏi phát triển sự
nghiệp thể dục thể thao phục vụ sức khỏe và nâng cao thể chất cho con người
và đây cũng là một trong những nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của con người
trong thế kỷ 21.Trong những năm gần đây Thể dục thể thao đã khẳng định và
nâng cao tầm ảnh hưởng của mình đối với các lĩnh vực khác trong xã hội.
Với quan điểm của Đảng ta: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là động
lực phát triển đất nước”. Trong những năm gần đây ngành giáo dục đã và
đang tiến hành đổi mới một cách khá toàn diện về chương trình đào tạo, đào
tạo đội ngũ giáo viên, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa
người học và cùng với đó là đổi mới công tác kiểm tra đánh giá kết quả học
tập.

Đánh giá kết quả học tập là rất quan trọng cần thiết trong quy trình đào
tạo học sinh, sinh viên.Qua đánh giá các nhà quản lý giáo dục và các nhà giáo
dục mới biết họ đã làm tốt cái gì và cái gì chưa tốt cần thay đổi, để đào tạo
8
sinh viên được tốt hơn. Đồng thời qua đó người học cũng tự biết được mình
đã tiếp thu được cái gì và cái gì chưa tiếp thu được, qua đó đánh giá được
trình độ của người học và chất lượng của người dạy. Kết quả này còn nói lên
khả năng, chất lượng đào tạo của một trường.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, cùng với yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy và học trong các hình thức lên lớp, phương pháp và kỹ thuật
trong khâu kiểm tra đánh giá học sinh cũng được coi trọng.Cùng với lý thuyết
hoạt động, người ta đã tìm tòi, thử nghiệm các hình thức kiểm tra đánh giá

thích hợp để thực hiện một cách có hiệu quả nhất khâu kiểm tra đánh giá kiến
thức, kỹ năng cũng như thái độ của học sinh. Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã bắt đầu thay đổi hình thức kiểm tra đánh giá tự luận sang trắc nghiệm
biểu hiện bằng các kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông và tuyển sinh Đại
học một số môn đã được tổ chức thi bằng hình thức trắc nghiệm. Đây là một
điểm mới làm cho thi cử không còn là áp lực lớn cho xã hội và học sinh.
Trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp Hà Nội là một cơ sở đào tạo ra
những nhà thiết kế trong lĩnh vực mỹ thuật. Cùng với các hình thức giáo dục
khác, giáo dục thể chất cho sinh viên được nhà trường hết sức coi trọng, từ
việc xây dựng chương trình, tổ chức hoạt động dạy học đến việc kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của sinh viên đều được thực hiện tương đối hợp lý.
Tuy nhiên cũng giống như thực trạng giáo dục thể chất trong phần lớn

các trường học hiện nay đó là việc đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục
Thể chất chủ yếu thiên về đánh giá mục tiêu kỹ năng, còn mục tiêu kiến thức
vẫn bị bỏ ngỏ dẫn đến công tác đánh giá kết quả học tập của sinh viên còn
chưa toàn diện.
Nắm bắt được thực trạng đó, cùng việc tìm hiểu cơ sở lý luận và khoa
học của phương pháp trắc nghiệm khách quan và đặc điểm của sinh viên
trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp Hà nội chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan đánh giá kiến
9
thức môn tự chọn trong chương trình Giáo dục Thể chất cho sinh viên
Trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp Hà Nội”.
2. Mục tiêu nghiên cứu.

Xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan đánh giá kiến thức môn
tự chọn nhằm nâng cao ý thức học tập về lý luận và thực hành từ đó nâng cao
chất lượng môn học cho sinh viên Trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp
Hà Nội.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong đánh giá kiến thức
môn tự chọn theo chương trình Giáo dục thể chất.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên khóa 11 Trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp Hà Nội.
Số lượng sinh viên tham gia thực nghiệm là 155 em.
4. Phạm vi nghiên cứu.

Trắc nghiệm khách quan về kiến thức môn học tự chọn gồm: Cầu lông,
đá cầu và sử dụng các câu hỏi trắc nghiệm loại đúng sai, loại câu hỏi có nhiều
lựa chọn.
5. Giả thuyết khoa học.
Đánh giá kiến thức là một mắt xích tất yếu của quá trình giáo dục. Nếu
quá trình này được tổ chứ một cách khoa học, với bộ câu hỏi trắc nghiệm
khách quan đánh giá kiến thức môn tự chọn hợp lý thì đánh giá chất lượng
môn học của sinh viên không những được đầy đủ, chuẩn xác, mà còn nâng
cao ý thức học tập của sinh viên đối với môn học tự chọn theo chương trình
Giáo dục thể chất.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu.
10

6.1. Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập môn tự chọn trong chương trình GDTC của sinh viên Trường Đại
học Mỹ Thuật Công Nghiệp Hà Nội.
6.2. Nhiệm vụ 2: Xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan về kiến
thức môn tự chọn theo chương trình GDTC cho sinh viên Trường Đại học Mỹ
Thuật Công Nghiệp Hà Nội.
6.3. Nhiệm vụ 3: Ứng dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan
trong đánh giá kiến thức môn tự chọn theo chương trình GDTC của sinh viên
K11 Trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp Hà Nội và đánh giá kết quả.
7. Phương pháp nghiên cứu.
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra , đề tài sử dụng các phương pháp sau:
7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu.

Đây là phương pháp được sử dụng nhằm hệ thống hóa các kiến thức có
liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu, phương pháp được sử dụng trong suốt quá
trình nghiên cứu.Thông qua sưu tầm , đọc, tra cứu văn bản của Đảng và Nhà
nước, văn bản pháp quy của Bộ Giáo dục và Đào tạo về công tác Giáo dục
Thể chất cho học sinh, sinh viên, sách, tạp chí tài liệu khoa học có liên quan
đến Giáo dục Thể chất. Phương pháp này còn sử dụng để thu thập các số liệu
nhằm kiểm chứng và so sánh với những số liệu đã thu thập được trong quá
trình nghiên cứu.
7.2. Phương pháp phỏng vấn.
Để tổng hợp kinh nghiệm và thu thập thông tin của các nhà khoa học,
các giáo viên, sinh viên,trong quá trình nghiên cứu.
Đề tài sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp và phương pháp

phỏng vấn gián tiếp.
11
7.3. Phương pháp trắc nghiệm khách quan.
Đề tài sử dụng các câu hỏi trắc nghiệm về kiến thức môn tự chọn bao
gồm: Cầu lông, đá cầu và các kiến thức về Thể dục Thể thao… nhằm tác
động đến đối tượng nghiên cứu để đánh giá mức độ tiếp thu kiến thức các
môn học.
Do đặc thù môn học Giáo dục Thể chất cũng như phạm vi nghiên cứu mà
đề tài chỉ sử dụng hai loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan: loại câu hỏi trắc
nghiệm đúng, sai và loại câu hỏi trắc nghiệm có nhiều phương án lựa chọn.
7.4. Phương pháp quan sát sư phạm.
Phương pháp này giúp các nhà nghiên cứu tiếp cận đối tượng nghiên

cứu. Tôi sử dụng phương pháp này nhằm mục đích đánh giá quá trình học
môn học tự chọn của sinh viên, qua đó ta đánh giá được hiệu quả tiếp thu kiến
thức của sinh viên.
7.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Trên cơ sở hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm đã xây dựng về kiến thức
môn học tự chọn để kiểm tra kiến thức môn học của sinh viên.
7.6. Phương pháp toán học thống kê. [19]
Phương pháp này được sử dụng trong việc phân tích và sử lý các số liệu
thu thập được trong quá trình nghiên cứu của đề tài.
+ Số trung bình cộng.
X
=

n
x
i

Trong đó:
X
: Trị số trung bình cộng
x
i
: Kết quả từng cá thể
n: Số cá thể


: Ký hiệu tổng
12
* So sánh tần số quan sát:
X
2
= ∑
( )
i
ii
L
LQ
2


Trong đó:
X
2
: Chỉ số để so sánh.
Q
i
: Tần số quan sát.
L
i
: Tần số lý thuyết.
∑: Ký hiệu tổng.

* Xác định mức độ khó của câu hỏi.
K =
N
NNN
LMH
++
%
Trong đó:
N
H
: Là số sinh viên thuộc nhóm giỏi chọn câu hỏi đúng.
N

L
: Là số sinh viên thuộc nhóm kém chọn câu trả lời đúng.
N
M
: Là số sinh viên thuộc nhóm trung bình chọn câu trả lời đúng.
N: Là tổng số sinh viên thuộc nhóm giỏi hoặc kém.
* Công thức tính độ phân biệt của đáp án:
P =
n
NN
LH


Trong đó:
N
H
: Là số sinh viên thuộc nhóm giỏi chọn câu trả lời đúng.
N
L
: Là số sinh viên thuộc nhóm kém chọn câu trả lời đúng.
n: Là tổng số sinh viên thuộc nhóm giỏi hoặc kém.
8. Những đóng góp mới của đề tài.
13
Đề tài được nghiên cứu sẽ thể hiện được thực trạng công tác kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập môn GDTC của sinh viên Trường Đại học Mỹ Thuật

Công Nghiệp Hà Nội.
Xây dựng được hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan sử dụng cho
việc kiểm tra, đánh giá kiến thức môn tự chọn bao gồm môn cầu lông, môn đá
cầu, dành cho đối tượng là sinh viên Trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp
Hà Nội.
9. Kế hoạch và tổ chức nghiên cứu.
9.1. Thời gian nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện trong 1 năm được chia làm 3 giai đoạn theo kế
hoạch sau:
9.1.1. Giai đoạn 1 (từ tháng 10 - 2012 đến tháng 11 - 2012): Xác định
đề tài, chuẩn bị đề cương.
9.1.2. Giai đoạn 2 (từ tháng 11 - 2012 đến tháng 02 - 2013): Giải quyết

nhiệm vụ 1 và 2.
9.1.3. Giai đoạn 3 (từ tháng 02- 2013 đến tháng 09 - 2013). Giải quyết
nhiệm vụ 3 và tiến hành viết bản thảo, chuẩn bị bảo vệ đề tài trước hội đồng
khoa học.
9.2. Địa điểm nghiên cứu.
Trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp Hà Nội.
Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
14
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Quan điểm chủ trương của Đảng – Nhà nước về công tác TDTT và
GDTC trong những năm đổi mới.

Từ sau cách mạng tháng tám năm 1945, đất nước ta bước vào giai đoạn
đổi mới, Đảng và Nhà nước rất coi trọng và quan tâm xây dựng nền TDTT
Việt Nam mang tính: Dân tộc, khoa học và nhân dân để tăng cường sức khỏe
cho nhân dân, phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. [10]
Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới công tác GDTC trường học, nhằm
đào tạo những lớp người phát triển toàn diện, kế tục sự nghiệp cách mạng,
xây dựng kinh tế xã hội theo định hướng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
Quốc, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh”. [34]
Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo nói
chung, về GDTC trong trường học nói riêng, được xuất phát từ những cơ sở
tư tưởng lý luận của học thuyết Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về

con người và sự phát triển con người toàn diện.
Bước vào thời kỳ đổi mới cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường
và hội nhập thế giới vấn đề thể lực và tầm vóc con người Việt Nam càng trở
nên thiết yếu và cấp bách chính vì vậy công tác TDTT trong thời kỳ đổi mới
được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm.
1.1.1. Khái quát quan điểm chủ trương của Đảng – Nhà nước về TDTT.
Từ năm 1986, Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI đã mở đầu
cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Về TDTT, nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ VI đã đề cập đến các vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng
phong trào TDTT quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thân thể thành
thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân, trước hết là của thế hệ trẻ. Nâng
15

cao chất lượng GDTC trong các trường học. Củng cố và mở rộng hệ thống
trường, lớp năng khiếu thể thao, phát triển lực lượng vận động viên trẻ. Lựa
chọn và tập trung sức nâng cao thành tích một số môn thể thao. Coi trọng việc
giáo dục đạo đức, phong cách thể thao Xã hội chủ nghĩa. Cố gắng bảo đảm
các điều kiện về cán bộ, về khoa học, kỹ thuật, cơ sở vật chất và nhất là về tổ
chức, quản lý cho công tác TDTT.
1.1.1.1. Giai đoạn 10 năm đổi mới đầu tiên ( 1986 – 1995).
Đảng ta đã khẳng định TDTT là một bộ phận quan trọng trong công
cuộc cây dựng xã hội mới, đồng thời Đảng ta cũng xác định tính chất khoa
học là một trong những yếu tố cơ bản của nền TDTT Việt Nam.Từ việc nhận
thức đúng đắn những giá trị truyền thống của dân tộc, cùng với thực tiễn của
nền TDTT trong khu vực và thế giới Đảng và Nhà nước ta đã có những quan

điểm và đường lối rất sâu sắc.
Đại hội lần thứ VI, Hội đồng Bộ trưởng nay là chính phủ ban hành chỉ
thị số 112/CT – TW, ngày 09 / 05 / 1989 của hội đồng Bộ trưởng về công tác
TDTT trong những năm trước mắt có ghi: “…Đối với học sinh, sinh viên
trước hết là nhà trường phải thực hiện nghiêm túc việc dạy và học môn thể
dục theo chương trình quy định, có biện pháp tổ chức, hướng dẫn các hình
thức tập luyện và hoạt động thể thao tự nguyện ngoài giờ học…”. [5]
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đề ra kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng và chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 10 năm ( 1991 – 2000).[35]
Nghị quyết Đại hội Đảng VII tháng 6 / 1991 về TDTT đã đề ra. “… Bắt
đầu đưa việc dạy thể dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình

học tập của các trường phổ thông, chuyên nghiệp và các trường đại học …”.
“… Công tác TDTT cần coi trọng nâng cao chất lượng GDTC trong
các trường học, tổ chức hướng dẫn và vận động đông đảo nhân dân tham gia
16
rèn luyện thân thể hàng ngày, nâng cao cao chất lượng các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng vận động viên, nâng cao thành tích một số môn thể thao. Cải tiến tổ
chức, quản lý các hoạt động TDTT theo hướng kết hợp chặt chẽ các tổ chức
nhà nước và các tổ chức xã hội. Tạo điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất và
khoa học, kỹ thuật để phát triển nhanh một số môn thể thao Việt Nam có
truyền thống và triển vọng”.[35]
Chỉ thị số 36 – CT/TW, ngày 24/03/1994 về công tác TDTT trong giai
đoạn mới. “Những năm gần đây, công tác thể dục thể thao đã có tiến bộ,

phong trào TDTT từng bước được mở rộng với nhiều hình thức, nhiều môn
thể thao được khôi phục và phát triển một số môn thể thao đạt thành tích đáng
khích lệ, cơ sở vật chất, kỹ thuật TDTT ở một số địa phương và ngành đã
được chú ý đầu tư và nâng cấp, xây dựng mới. Đạt được những tiến bộ đó là
do sự quan tâm của Nhà nước, của các đoàn thể, do sự cố gắng của đội ngũ
cán bộ, huấn luyện viên, vận động viên và sự tham gia của nhân dân trong quá
trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng”. Chỉ thị còn nêu rõ: “…Cải tiến
trương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT
trong trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để
thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học”. [4]
1.1.1.2. Giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển TDTT là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng ,chính quyền, các

đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội, là nhiệm vụ của toàn xã hội, trong đó
ngành TDTT giữ vai trò nòng cốt. Xã hội hóa tổ chức hoạt động TDTT dưới
sự quản lí thống nhất của nhà nước.
Bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập toàn diện về ngoại giao, kinh tế. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ: “ Giáo dục và Đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu”. [36]
17
Nghị quyết nhấn mạnh “Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh, không chỉ có con người phát triển về trí tuệ, trong sáng về
đạo đức lối sống, mà còn có con người cường tráng về thể chất, chăm lo cho con
người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả các cấp, các ngành,

các đoàn thể…”. [36] Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn này Đại hội
Đảng đã định hướng cho đến năm 2015 và tiếp tục đòi hỏi nhân tố con người với
tầm cao mới vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển.
Vì thế văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ phải thực hiện nhiệm vụ rất cấp thiết hành
trang kiến thức và thể lực cho thế hệ trẻ bước vào thế kỉ 21”. Đại hội còn đề
cập đến nhiệm vụ của TDTT: “Phát triển phong trào TDTT sâu rộng trong cả
nước, trước hết là trước hết là trong thanh thiếu niên, tạo sự chuyển biến tích
cực về chất lượng và hiệu quả của GDTC trong trường học”. [36]
Để khẳng định vai trò tất yếu của TDTT đối với toàn xã hội, cũng như
nhằm thúc đẩy nhanh mạnh hơn nữa phong trào TDTT quần chúng và phong
trào GDTC trong trường học, Đảng và nhà nước đã đưa ra những chỉ thị và

nghị quyết để đề ra chính sách đầu tư cho công tác GDTC đối với học sinh,
sinh viên trong hệ thống nhà trường các cấp và luôn khuyến khích đấy mạnh
xã hội hóa trong hoạt động TDTT. Đổi mới chương trình đào tạo, nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo là một yêu cầu đặc biệt quan trọng để
“nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài” chính là để phát
triển nguồn lực con người. Nghị quyết BCH-TW (1996) Khẳng định giáo dục
và đào tạo là nền tảng đào tạo nguồn lực lao động có trí tuệ và sức khỏe, đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Chính vì vậy đòi hỏi ngày càng
cao đối với chất lượng học tập trong các trường cao đẳng và đại học không
chỉ là nhiệm vụ riêng của các trường học mà là yêu cầu của sự phát triển kinh
tế - xã hội trên con đường công nghiệp hóa.
18

Chỉ thị 133/TTg, ngày 07/03/1995 của thủ tướng chính phủ về việc xây
dựng quy hoạch phát triển TDTT về GDTT trường học đã ghi rõ: “Bộ giáo
dục và Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc GDTC trong nhà trường, cải tiến
nội dung giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể cho học sinh ở các cấp học, có quy chế bắt buộc đối với các
trường”. [6]
Nghị quyết Đại hội Đảng IX, Ban bí thư Trung ương Đảng ban hành
chỉ thị số 17/CT-TW năm 2002 về phát triển TDTT đến năm 2010 chỉ thị tiếp
tục yêu cầu đổi mới công tác GDTC trong nhà trường các cấp cụ thể “đẩy
mạnh hoạt động TDTT trong trường học, tiến tới bảo đảm mỗi trường học đều
có giáo viên TDTT chuyên trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn tạo điều
kiện nâng cao chất lượng GDTC, xem đây là tiêu chí công nhận trường chuẩn

quốc gia”. [3]
Đại hội Đảng X (2006) Đảng ta đã nhận định: Giáo dục, đào tạo tiếp
tục được phát triển và đầu tư nhiều hơn, quy mô đào tạo tăng nhanh và cơ cấu
ngành nghề mở rộng nhưng nhìn chung chất lượng còn thấp chưa đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chương trình, phương pháp dạy và học còn
lạc hậu, không hợp lí đặc biệt là công tác quản lí, giáo dục đào tạo chậm đổi
mới và còn nhiều bất cập.
Qua 20 năm đổi mới, tại Đại hội X (2006) Đảng đề ra chủ trương đổi
mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng để
làm được điều này giáo dục đào tạo cần chuyển dần mô hình giáo dục hiện
nay sang mô hình giáo dục mở, gắn đào tạo Đại học với sử dụng cải tiến công
tác thi cử, kiểm tra cả về nội dung và phương pháp đánh giá trình độ tiếp thu

tri thức và khả năng kết quả học tập. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác
định đường lối phát triển TDTT giai đoạn 2006-2007 và định hướng đến năm
19
2015 là tiếp tục nâng cao phong trào TDTT quần chúng, chú trọng chất lượng
và hiệu quả công tác GDTC trong trường học.[34]
Vì vậy, chúng ta có thể nhận định được rằng GDTC nhằm tăng cường
sức khỏe và đồng thời phát triển thể chất cho tầng lớp học sinh, sinh viên.
GDTC tạo ra một nền tảng sức khỏe vững chắc cho thế hệ trẻ tạo đà giúp cho
con người tham gia có hiệu quả vào các hoạt động xây dựng xã hội, phát triển
hài hòa giữa con người và xã hội.Đưa nền TDTT nước nhà hội nhập và tranh
đua với các nước trong khu vực và trên thế giới.
1.1.2. Sự chỉ đạo của Đảng- Nhà nước về công tác GDTC.

Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng
thời là vốn quý tạo ra sản phẩm trí tuệ và vật chất cho xã hội. Vì vậy, chăm lo
cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội nói chung và của
ngành TDTT nói riêng. Đó chính là mục tiêu cơ bản, quan trọng nhất của nền
TDTT nước ta mà Đảng, Nhà nước luôn coi trọng và quan tâm.
Đối với công tác hoạt động TDTT trong nhà trường thì TDTT được
diễn ra dưới hình thức GDTC. GDTC là nội dung, chương trình quy định bắt
buộc trong chương trình đào tạo của các nhà trường nói chung và nhà trường
Đại học nói riêng. Điều này được thể hiện rõ trong chương trình GDTC các
trường Đại học và cao đẳng ban hành theo quyết định số 203/QĐ – TDTT
ngày 23 tháng 01 năm 1989 và chỉ thị 112/CT (09/05/1989) của Hội đồng Bộ
trưởng về việc yêu cầu các cấp ngành thực hiện tốt nhiệm vụ và biện pháp

sau: “Đối với học sinh, sinh viên trước hết là nhà trường phải thực hiện
nghiêm túc việc dạy và học môn Thể dục theo chương trình quy định, có biện
pháp tổ chức hướng dẫn các hình thức tập luyện và hoạt động TDTT ngoài
giờ học”.[5] Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Chính phủ thì
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành: Thông tư số 11/TT/GD-ĐT (01/08/1994)
về việc hướng dẫn chỉ thị 36/CT/TW về công tác TDTT trong giai đoạn mới
20
[1], ngành Giáo dục và đào tạo nhận thức cơ chế quản lý, chế độ chính sách
về các điều kiện đảm bảo về cán bộ, cơ sở vật chất kinh phí cho công tác
GDTC. Thông tư số 2869/GDTC (04/05/1995) về việc hướng dẫn thực hiện
chỉ thị 113/TTg của Thủ tướng chính phủ về quy hoạch phát triển ngành
TDTT. [2] Thông tư số 2869/GDTC chỉ rõ tới việc cải tiến vấn đề nội dung

giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho sinh
viên các cấp học về điều tra quy hoạch đảm bảo cán bộ và cơ sở vật chất cho
GDTC cho học sinh, tăng cường tổ chức và quản lí GDTC cho học sinh, sinh
viên tăng cường tuyên truyền sâu rộng tới đội ngũ giáo viên, đội ngũ quản lý
giáo dục đào tạo học sinh, sinh viên và toàn xã hội nhận thức đứng đắn về vị
trí quan trọng của công tác GDTC trong chiến lược phát triển con người toàn
diện của Đảng và Nhà nước.
Như vậy GDTC đối với học sinh, sinh viên bao giờ cũng là mối quan
tâm sâu sắc của Đảng- Nhà nước Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đặt vấn đề
GDTC là một mặt không thể thiếu trong chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ
khoa học, cán bộ quản lí về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, để phục vụ
nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Bộ Giáo dục đào

tạo đã coi trọng công tác TDTT cho học sinh, sinh viên và tổ chức triển khai
các quy hoạch, kế hoạch để đảm bảo các trường học có chương trình giảng
dạy thống nhất có đội ngũ cán bộ giảng viên,thầy giáo được đào tạo chuyên
ngành có cơ sở vật chất phục vụ học tập TDTT và thi đấu.Ngoài ra để thúc
đẩy sinh viên tham gia tập luyện ngoại khóa thì Bộ giáo dục và đào tạo đã kết
hợp với ủy ban TDTT phát động phong trào TDTT như: “Toàn dân tham gia
tập luyện TDTT theo gương Bác Hồ vĩ đại”. “Thể thao đẩy lùi ma túy”.Đã
được học sinh, sinh viên và mọi người hưởng ứng và tham gia tích cực.
21
1.2. Vài nét về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong giáo dục. [29]
Trong lịch sử phát triển của nền giáo dục nói chung và hoạt động dạy
học nói riêng, kiểm tra đánh giá được coi là một khâu quan trọng và không

thể thiếu được. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của người học là quá trình
kiểm tra đánh giá kết quả nắm kiến thức cơ bản, rèn luyện kỹ năng và kỹ xảo
phù hợp với yêu cầu, mục đích dạy học đề ra.
Việc đánh giá đúng đắn thành tích của người học có tác dụng định hướng
và kích thích họ học tập nhằm đạt được mục đích giáo dục của nhà trường.Bên
cạnh đó, kiểm tra thành tích học tập của người học trong nhà trường như là một
hệ thống bao gồm nhiều yếu tố ảnh hưởng sâu sắc tới chất lượng đánh giá. Đó là
nội dung kiểm tra, sự chú ý của người học khi kiểm tra, trạng thái cơ thể và tâm
lý của người học, tinh khách quan của giáo viên đánh giá.
Ở Việt Nam hiện nay vấn đề kiểm tra đánh giá ngày càng được quan
tâm nhiều hơn. Nhưng xét về mức độ và tính đáp ứng nhu cầu đối với thực
tiễn giáo dục, thì công tác kiểm tra đánh giá còn chưa được quan tâm đúng

mức. Bởi kiểm tra đánh giá chất lượng dạy học là một trong những khâu cơ
bản của quá trình dạy học, thông qua kiểm tra đánh gia mới có điều kiện để
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo,đánh giá được hết công lao của
người dạy và người học. Ngoài ra kiểm tra đánh giá còn là cơ sở để thực hiện
công tác chỉ đạo hoạt động giáo dục theo yêu cầu của nguyên lý và phương
châm giáo dục.
1.2.1. Sự tác động của đánh giá kết quả học tập. [17]
Trong nhà trường, việc đánh giá thường dựa trên kết quả kiểm tra ,kiểm
tra là phương tiện của đánh giá. Người học trong nhà trường qua được hết các
kì thi, kiểm tra coi như đã đến đích cuối cùng của sự đánh giá.
Đánh giá kết quả học tập có tác động tích cực đối với đào tạo. Một
trong những thuận lợi của đánh giá kết quả học tập là sau khi thực hiện đánh

22
giá nó sẽ mang lại nhiều lợi ích cho tất cả mọi người trong cơ sở đào tạo, từ
sinh viên đến giáo viên và cả những nhà quản lý.
Đối với người học đánh giá kết quả học tập giúp người học thấy rõ
mình đã tiếp thu được những gì, ở mức độ nào và những gì là quan trọng
trong môn học, xác định trình độ lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của người
học trong sự tương ứng với các yêu cầu của chương trình. Thông qua kiểm tra
đánh giá học sinh có đều kiện để tiến hành các thao tác và tư duy vận dụng
những kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề một cách linh hoạt sáng
tạo, giúp người học nâng cao ý chí, tinh thần trách nhiệm, ý chí vươn lên củng
cố niềm tin.
Đối với gáo viên, tham gia vào đánh giá kết quả học tập đòi hỏi giáo

viên phải đưa ra những nhận định, phán đoán về thực chất trình độ của học
sinh, đồng thời đề xuất những định hướng bổ khuyết sai sót hoặc phát huy kết
quả và xá định rõ cái gì tốt cái gì chưa tốt trong môn học, cũng là cơ sở để
nâng cao, điều chỉnh hoạt động dạy học.
Đối với nhà quản lý giáo dục, thực hiện đánh giá kết quả học tập rộng
khắp trường sẽ là cơ sở để tiếp tục cải tiến chương trình đào tạo, đánh giá
một cách chính xác trình độ quản lý để từ đó có những biện pháp điều chỉnh
cho phù hợp với yêu cầu đào tạo, yêu cầu của xã hội.
Như vậy đánh giá kết quả học tập là vô cùng cần thiết và là một phần
không thể thiếu trong quy trình đào tạo của một trường Đại học, công tác
kiểm tra đánh giá phải không ngừng được cải tiến bổ xung sao cho đánh giá
người học một cách chuẩn xác nhất, đáp ứng được nhu cầu của nhà trường,

của sinh viên, gia đình và những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
1.2.2 Kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học tự chọn.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập chủ đề tự chọn của học sinh là một
khâu quan trọng của quá trình dạy học. Kiểm tra là hình thức, phương tiện của
23
hoạt động đánh giá, kiểm tra sẽ cung cấp các dữ kiện, thông tin làm cơ sở cho
việc đánh giá. Đánh giá là quá trình thu thập thông tin và xử lý kịp thời có hệ
thống thông tin và hiện tượng, khả năng những nguyên nhân của chất lượng
và hiệu quả giáo dục.
Kiểm tra, đánh giá ở bất kỳ góc độ nào cũng nhằm 3 mục đích chủ yếu sau:
- Xác định mức độ chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục đào tạo.
- Phát hiện sai lệch và điều chỉnh hoạt động nhằm đạt mục tiêu môn học, mục

tiêu từng chương trình trong chương trình và mục tiêu từng bài.
- Tạo cơ sở cho những dự đoán trong tương lai( ở những tiết học sau).
Hiện nay kiểm tra, đánh giá kết quả học chủ đề tự chọn căn cứ vào
công văn số 7714/GDTrH, ngày 28 tháng 8 năm 2003 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
Khi kiểm tra, đánh giá việc học chủ đề tự chọn của học sinh cần căn cứ
vào mục tiêu, yêu cầu cụ thể của từng chủ đề, bởi mục tiêu chính là chuẩn tối
thiểu mà học sinh cần đạt được về kiến thức, kỹ năng trong đó các chủ đề đã
có gợi ý về kiểm tra đánh giá. Giáo viên sẽ kiểm tra, đánh giá sau khi học
xong mỗi chủ đề, nhưng trong quá trình học chủ đề tự chọn, giáo viên cần bồi
dưỡng cho học sinh kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của mình.
1.2.3. Những văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về đánh giá kết

quả học tập của sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng.
Chương III về kiểm tra và thi học phần theo Quy chế đào tạo Đại học và
cao đẳng hệ chính quy [28], được ghi trong các điều 10, điều 11, điều 12, điều
13, điều 19, điều 20, điều 21, điều 22, điều 23 được giới thiệu ở phụ lục 1.
1.3. Khái quát tình hình nghiên cứu và ứng dụng phương pháp trắc
nghiệm khách quan trên thế giới và ở Việt Nam.[16, 17, 23, 29]
Ban đầu, phương pháp kiểm tra chủ yếu bằng vấn đáp và viết. Từ thế
kỷ XIX việc nghiên cứu lý thuyết phương pháp trắc nghiệm khách quan đã
được bắt đầu và đến đầu thế kỷ XX đã được triển khai rộng rãi ở các nước
24
kinh tế phát triển như: Anh, pháp, Mỹ… Ngày nay công nghệ trắc nghiệm ở
Mỹ đã trở nên phổ biến và đạt được thành tựu cao nhất.

Đầu thế kỷ XX, E.Thorndike (Mỹ) là người đầu tiên dùng trắc nghiệm
như một phương pháp “ khách quan và nhanh chóng” để đo trình độ kiến thức
học sinh, ban đầu là với một số môn học. Năm 1904, A.Binet ở Pháp đã nghiên
cứu khả năng dùng trắc nghiệm khách quan để xác định mức độ chậm phát triển
về mặt trí tuệ của trẻ em.Năm 1928 Meili đã dùng trắc nghiệm khách quan để
nghiên cứu trí tuệ phục vụ tư vấn nghề nghiệp và giáo dục phổ thông.
Riêng ở Mỹ, trắc nghiệm khách quan đã được sử dụng trong dạy học từ
đầu thế kỷ XX.Sau một thời gian chững lại, từ năm 1937 lại bắt đầu sử dụng
rộng rãi phương pháp trắc nghiệm khách quan trong nhiều lĩnh vực.
Ở Nhật Bản từ năm 1977 “ Trung tâm quốc gia về trắc nghiệm tuyển sinh
đại học” (National center Test for universitty Admisions) được thành lập.
Tại Trung Quốc cơ quan đặc trách về thi của giáo dục quốc gia NEEA

(National Education Exemination Authority) thuộc Bộ Giáo dục được thành
lập vào cuối thập niên 70 để làm nòng cốt thi cử. Đề thi tuyển sinh đại học
chủ yếu dùng trắc nghiệm khách quan tiêu chuẩn hóa ( được thử nghiệm từ
1985 và áp dụng trong toàn quốc năm 1989). Cũng từ năm 1985 Trung Quốc
cải cách kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trong toàn quốc bằng cách sử dụng đề thi
trắc nghiệm khách quan và đánh giá toàn diện các môn học.
Ngày nay trắc nghiệm đã triển khai ở hầu hết các nước trên thế giới
một cách rộng rãi và phổ biến vào quá trình dạy học phổ thông cũng như ở đại
học, đặc biệt là các nước phương tây.
Ở Việt Nam, kiểm tra đánh giá đã hình thành từ rất lâu và chịu ảnh
hưởng rất lớn về cách đánh giá của Nho giáo. Sau cách mạng tháng tám năm
1945, giáo dục Việt Nam có sự thay đổi lớn cả về mục đích, nội dung và

phương pháp.
25

×