Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Skkn một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động giáo dục phát triển vận động cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.41 KB, 25 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Mỗi một người dân yếu,
tức là cả nước yếu, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe”,
luyện tập bồi dưỡng sức khỏe đó là bổn phận của mỗi người dân yêu nước. Sức
khỏe không chỉ là tài sản cá nhân mà còn là tài sản chung. Tạo nguồn sức khỏe
không chỉ là trách nhiệm của cá nhân mà còn là trách nhiệm của cả cộng đồng.
Quán triệt tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nghị quyết trung ương 4 về
những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân
dân có ghi rõ: “Sức khỏe là cái vốn q nhất của mỗi con người và của tồn xã
hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đảng
và nhà nước ta ln quan tâm tới vấn đề chăm sóc sức khỏe của nhân dân, đặc
biệt là vấn đề chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Vì trẻ em là những mầm non tương
lai của đất nước, là trụ cột của nước nhà. Chính vì vậy các em cần được chăm
sóc tốt từng bữa ăn, giấc ngủ cần được học tập và đặc biệt là cần được bảo vệ
chăm sóc tốt về sức khỏe bởi cơ thể trẻ là cơ thể đang lớn, đang phát triển. Đây
là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời điểm này tất cả mọi việc đều bắt
đầu: bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và vận động bằng đội chân, đơi
tay của mình.... tất cả những cử chỉ đó đều làm lên nhưng thói quen, kể cả thói
xấu. Trẻ em là cơng dân của xã hội, là tương lại của đất nước nên ngày từ nhỏ
trẻ cần được chăm sóc, giáo dục một cách toàn diện. Đặc biệt là giáo dục phát
triển thể chất.
Vận động là sự hoạt động tích cực của các cơ quan vận động của trẻ, là
phương tiên cơ bản, đặc biệt của quá trình giáo dục thể chất. Giáo dục thể chất
cho trẻ trong trường mầm non chủ yếu thông qua hoạt động tự vận động của trẻ.
Giáo dục phát triển vận động cho trẻ góp phần củng cố, tăng cường sức
khỏe, phát triển cân đối, hài hòa về hình thái và chức năng của cơ thể trẻ. Rèn
luyện tư thế vận động cơ bản; phát triển các tố chất nhanh, mạnh, khéo, bền;
phát triển khả năng định hướng trong khơng gian. Góp phần rèn luyện và phát
triển cảm giác nhịp điệu, khả năng cảm nhận cái đẹp qua vận động nhanh nhẹn,


nhịp nhàng, đứng tư thế, sự hứng thú đối với các loại vận động và đối với hoạt
động tập thể. Rèn tính trung thực, tính tổ chức kỷ luật, tinh thần tập thể, lòng
dũng cảm, tự tin và khả năng tự lập của trẻ. Hình thành cho trẻ những thói quen
vận động cần thiết cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ. Vậy giáo dục phát triển vận
động là một trong những nội dung giáo dục quan trọng của nhà trường nhằm đào
tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú
về tinh thần và trong sáng về đạo đức.
1

skkn


Trong những năm gần đây cùng với sự chuyển biến về mọi mặt của xã hội
và đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, trẻ em đã có điều kiện
được chăm sóc tốt hơn và cũng chính điều đó đã làm cho tình trạng béo phì ở trẻ
ngày càng nhiều hơn. Mặt khác do cơ thể trẻ còn non yếu dễ bị phát triển lệch
lạc, mất cân đối nếu khơng được chăm sóc giáo dục đúng đắn. Chính vì vậy giáo
dục thể chất cho trẻ ngay từ nhỏ cần tiến hành thường xuyên và đồng bộ.
Trong trường mầm non có thể phát triển vận động cho trẻ thông qua thể
dục sáng, các tiết thể dục, các trị chơi vận động ở hoạt động ngồi trời, hoạt
động góc, hoạt động ngoại khóa, trị chơi giao lưu, ngày hội thể thao… Trên
thực tế qua 5 năm thực hiện chuyên đề Giáo dục phát triển vận động trong nhà
trường tôi thấy một số giáo viên chưa chủ động, sáng tạo khi tổ chức các hoạt
động phát triển vận động cho trẻ. Chưa linh hoạt, mềm dẻo khi xây dựng các nội
dung, kế hoạch vận động, môi trường vận động sao cho phù hợp với chủ đề, với
độ tuổi và điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp. Giáo viên chưa tích cực làm
đồ dùng, đồ chơi phục vụ hoạt động; Đồ dùng, đồ chơi trang thiết bị phục vụ
cho hoạt động phát triển vận động chưa phong phú. Một số trẻ thiếu mạnh dạn,
tự tin khi tham gia các vận động.
Chính vì vậy, từ những kinh nghiệm và thực tế sau 5 năm thực hiện

chuyên đề Giáo dục phát triển vận động cho trẻ trong trường mầm non. Tơi đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài «Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt
động Giáo dục phát triển Vận động cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trong trường mầm
non  »
2. Tên sáng kiến:
- Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động phát triển vận
động cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi trong trường mầm non.
3. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên: Hoàng Thị Hồng
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường mầm non Hoa Sen- P. Tích Sơn- Thành
phố Vĩnh Yên- Tỉnh Vĩnh Phúc.
Điện thoại: 0973570742
E-mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Hoàng Thị Hồng - Giáo viên trường mầm non Hoa Sen- TP Vĩnh Yên.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực phát triển thể chất.
- Vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết: Tìm hiểu thực trạng việc tổ chức
các hoạt động phát triển vận động cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi tại trường mầm non
Hoa Sen và đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động giáo
dục phát triển vận động cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi, giúp trẻ có một cơ thể khỏe
mạnh, phát triển cân đối, hài hịa; có kỹ năng vận động và khả năng phối hợp
các giác quan tốt; mạnh dạn tự tin khi tham gia các hoạt động.
2

skkn


6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 9/2017
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:

7. 1. Về nội dung của sáng kiến
7.1.1. Biện pháp 1: Lập kế hoạch giáo dục phát triển vận động cho trẻ
khoa học, phù hợp độ tuổi:
Kế hoạch giáo dục vận động là một tập hợp những hoạt động vận động
được sắp xếp theo lịch trình, có thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ
thể và xác định biện pháp tốt nhất… để thực hiện mục tiêu giáo dục. Lập kế
hoạch giáo dục là một trong những điểm mới trong chương trình giáo dục mầm
non hiện nay đó là giáo viên tự xây dựng kế hoạch, lựa chọn sắp xếp nội dung
và thiết kế hoạch động giáo dục phù hợp với trẻ với điều kiện thực tiễn của
trường lớp. Từ đó giúp giáo viên chủ động trong việc tiến hành tổ chức thực
hiện các hoạt động giáo dục và giúp trẻ phát triển theo mục tiêu yêu cầu đã đề ra.
Trong chương trình giáo dục mầm non nội dung phát triển vận động cho
trẻ rất phong phú, không chỉ nhiều về số lượng mà còn đa dạng về thể loại bài
tập như đi, chạy, nhảy,bò, trườn, trèo, tung ném...Nhưng khơng phải vận động
cơ bản, trị chơi vận động, các bài tập thể dục nào cũng phù hợp với trẻ ở từng
độ tuổi. Vì thế để tổ chức tốt hoạt động giáo dục phát triển vận động cho trẻ tôi
luôn làm tốt công tác xây dựng kế hoạch vận động cho trẻ.
Muốn lập được kế hoạch phù hợp với lớp mình phụ trách, ngay từ đầu
năm học tơi đã dựa vào kế hoạch chuyên đề phát triển vận động của nhà trường
xây dựng và căn cứ vào nội dung trong chương trình theo độ tuổi mà mình đang
dạy. Căn cứ vào thời gian và thời điểm thực hiện các bài tập ở vào giai đoạn nào
của chương trình năm học. Căn cứ vào mức độ phát triển, khả năng thực tế của
trẻ. Bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch nội dung vận động cho trẻ tập luyện , xác
định độ khó của từng bài tập và sắp xếp theo trình tự để đưa vào hướng dẫn trẻ
cho phù hợp đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp đảm bảo củng cố, phát
triển những vận động trẻ đã biết, đồng thời chuẩn bị cho những kỹ năng vận
động cao hơn. Đồng thời phù hợp với từng chủ đề, phù hợp với các hoạt động và
các sự kiện.
Ví dụ:
KẾ HOẠCH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT

LỚP MẪU GIÁO 3-4 TUỔI
Stt
Chủ đề
Nội dung hoạt động
1 Trường mầm non + Tết - VĐCB: Đi thay đổi tốc độ theo hiệu lệnh
trung thu
TCVĐ: Kéo cưa lửa xẻ
- VĐCB: Đi theo đường dích dắc
TCVĐ: Chó sói xấu tính
2 Bản thân
- VĐCB: Bật về phía trước
3

skkn


3

Gia đình + Ngày hội
20/11

4

Nghề nghiệp

5

Thế giới động vật

6

7

Tết và mùa xuân
Thế giới thực vật +
Ngày vui 8/3

8

Nước và hiện tượng tự
nhiên
Quê hương, Đất nước,
Bác Hồ.

9

TCVĐ: Tạo dáng
- VĐCB: Tung bóng cho cơ
TCVĐ: Bắt bướm
- VĐCB: Bật xa 25cm
TCVĐ: Về đúng nhà
- VĐCB: Bò, chườn, chui dưới dây
- VĐCB: Tung bóng bằng 2 tay.
TCVĐ: Người làm vườn
- VĐCB: Ném xa bằng 1 tay.
TCVĐ: Chó sói xấu tính
- VĐCB: Tung bắt bóng với cơ bằng 2 tay.
TCVĐ: Bắt bướm
- VĐCB: Thi kéo co
- VĐCB: Bật qua dây, chuyền bóng
- VĐCB: Đi thăng bằng trên ghế thể dục, Ném

trúng đích bằng 1 tay.
- VĐCB: Bị theo đường dích dắc
TCVĐ: Gieo hạt
- VĐCB: Bước lên, bật xuống bục cao 30cm
- VĐCB: Trèo thang, tung bóng
- VĐCB: Chuyền bắt bóng 2 bên theo hàng
ngang
TCVĐ: Mèo đuổi chuột

Khi đã lập được kế hoạch vận động tơi thấy rất n tâm và thực hiện có
hiệu quả hơn. Tôi thường xuyên bám sát kế hoạch để cho trẻ làm quen thực hiện
và rèn luyện cho trẻ. Đặc biệt đối với những trẻ nhút nhát, ít vận động tơi ln
tìm cách để lơi cuốn trẻ để trẻ tham gia vào các bài tập vận động, các trò chơi.
7.1.2. Biện pháp 2: Tạo môi trường phát triển vận động cho trẻ.
Môi trường vận động là một phần quan trọng trong mơi trường phát
triển tồn diện cho trẻ. Mơi trường vận động với các trang thiết bị, đồ dùng,
dụng cụ luyện tập đa dạng về chủng loại, phong phú về màu sắc, kích thước…
đã thúc đẩy sự phát triển tồn diện ở trẻ. Đúng như nhà giáo dục học người Ý,
Maria Montessori đã nói “Chỉ khi ở trong một mơi trường thuận lợi đứa trẻ mới
có một cơ hội phát triển đầy đủ và bộc lộ những tính cách tiềm ẩn của mình”.
Chính vì vậy việc xây dựng mơi trường vận động cho trẻ là vô cùng quan trọng
và cần thiết; trong đó có mơi trường vật chất và mơi trường xã hội:
7.1.2.1. Môi trường vật chất:
4

skkn


Mơi trường vật chất gồm có mơi trường trong lớp học và mơi trường ngồi
lớp học:

* Mơi trường cho trẻ hoạt động trong phịng nhóm/lớp
Muốn trẻ hứng thú với các hoạt động phát triển vận động thì việc đầu tiên
phải làm là xây dựng mơi trường, tạo cho trẻ tình cảm yêu trường, yêu lớp thích
được đến trường, đến lớp. Vì thế ngay từ đầu năm học tơi đã trang trí lớp thật
đẹp, thật hấp dẫn trẻ và phù hợp với chủ đề. Với mỗi chủ đề tơi ln có sự thay
đổi cho phù hợp nhằm gợi mở ý tưởng sáng tạo và phát huy tính chủ động, tích
cực vận động của trẻ. Việc xây dựng môi trường giáo dục phát triển vận động
cho trẻ mầm non gắn với việc lựa chọn trang thiết bị, đồ dùng, dụng cụ luyện
tập; Việc sử dụng các thiết bị.
Về đồ dùng - đồ chơi – trang thiết bị trong lớp học.
Như chúng ta đã biết, tư duy của trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi là tư duy trực quan
hình tượng, “Trẻ học bằng chơi, chơi mà học”. Chính vì vậy đồ dùng - đồ chơi,
đặc biệt là đồ chơi vận động có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với trẻ. Ngồi
những đồ dùng- đồ chơi- thiết bị tối thiểu theo danh mục đã qui định mà nhà
trường trang bị tôi đã chủ động tận dụng những nguyên vật liệu sẵn có ở địa
phương làm thêm rất nhiều đồ dùng, đồ chơi vận động đẹp, có giá trị phục vụ
hoạt động giáo dục phát triển thể chất cho trẻ như:
Bộ cổng chui từ bìa cát tông, vỏ lon bia hay vỏ chai nước trà xanh.
Thang trèo từ vỏ lốp xe
Đường dích dắc, đường hẹp từ ống nhựa.
Nơ, cờ, túi cát
Các đồ dùng, đồ chơi phát triển các vận động tinh như:
Bộ xâu hạt từ ống hút, ống nhựa, nắp chai, hoa, lá…
Bộ cái thắt nút: Cài khuy áo, kéo khóa áo, buộc dây già…
Bộ Đan- tết: Đan phên tre; vải - len; Tết tóc, vải…
Những đồ dùng đồ chơi trang thiết bị phong phú, đẹp mắt đã thu hút được
sự chú ý của trẻ và lôi cuốn trẻ vào hoạt động. Việc sắp xếp đồ dùng đồ chơi
trong lớp cũng cần được quan tâm đúng mức. Tôi đã sắp xếp thiết bị, đồ dùng,
đồ chơi trong lớp đảm bảo an toàn với trẻ, trẻ dễ quan sát, dễ lấy, dễ sử dụng,
tạo mọi điều kiện giúp trẻ tăng cường vận động trong thời gian trẻ ở trường

mầm non. (Ảnh H.1.a)
Xây dựng góc vận động:
Góc vận động là một phần quan trọng trong môi trường phát triển của trẻ,
thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ. Mỗi lớp học cần có một góc nhỏ để sắp
đặt các trang thiết bị, các đồ chơi, đồ dùng phục vụ cho hoạt động phát triển vận
động đó chính là góc vận động; Cách lựa chọn và sắp xếp đồ dùng đồ chơi trong
góc góp phần khuyến khích trẻ tích cực tham gia vận động mà trẻ thích và trẻ có
thể. 
5

skkn


Chính vì vậy ngay từ đầu năm học tơi đã xây dựng “góc vận động” của
lớp. Để thuận tiện cho trẻ sử dụng và tuyên truyền đến tất cả các bậc phụ huynh,
tơi chọn vị trí xây dựng góc vận động ở phía hành lang trước cửa lớp. Khơng
gian trong góc vận động tơi để rộng rãi, thống mát để trẻ có thể tham gia một
cách thoải mái và cha mẹ trẻ cũng có thể tham gia cùng trẻ hoặc quan sát được
trẻ hoạt động trong các giờ đón trả trẻ. Đồng thời tôi sắp xếp các đồ dùng dụng
cụ trong góc sao cho trẻ dễ lấy, dễ sử dụng. Các thiết bị lớn tơi đặt dọc theo
tường. Cịn các dụng cụ nhỏ như bóng mát xa, các loại bóng nhựa, bóng cao su,
bóng da, vịng cao su, … tơi lưu giữ trong sọt hoặc hộp mở để trẻ có thể tự do sử
dụng.
Trong góc vận động tơi sử dụng 1 tủ gỗ có các ngăn kéo và bánh xe đẩy
để tơi có thể thay đổi vị trí của góc chơi (thay đổi vị trí, di chuyển từ chỗ này
sang chỗ khác). (Ảnh H.2.a)
Ngồi ra tơi thường xun bổ sung thêm đồ dùng, đồ chơi mới phù hợp
với chủ đề để cho trẻ hoạt động một cách tích cực và hiệu quả hơn.
Ví dụ:
Với chủ đề Nghề nghiệp: Đồ dùng đồ chơi trong góc vận động là đồ dùng

dụng cụ của các nghề như: Bóng đá, đồ chơi cuốc, xẻng …
Sang chủ đề giao thơng thì góc vận động có vẽ ngã tư đường phố, có PTGT
bằng bìa cattơng, các loại vịng, gậy để làm vơ lăng lái xe, mái chèo thuyền…
* Mơi trường cho trẻ hoạt động ngồi trời
Hoạt động ngoài trời (HĐNT) là một trong những hoạt động hàng ngày của
trẻ ở trường mầm non, có nhiều ưu thế để phát triển mọi mặt cho trẻ mà ít thời
điểm sinh hoạt nào trong ngày có thể so sánh được. Trẻ có hiểu biết tốt hơn khi
tham gia vào các hoạt động quan sát, khám phá, tiếp xúc trực tiếp với thiên
nhiên. Trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn khi được thỏa mãn nhu cầu vận động trong
môi trường thuận lợi. Trẻ được tăng cường mối quan hệ giao lưu với bạn bè và
mọi người xung quanh, học cách hợp tác, chia sẻ, giúp đỡ và nhường nhịn nhau,
giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn, dễ dàng thích nghi, hịa nhập trong môi trường xã
hội hiện đại.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của mơi trường hoạt động ngồi trời đối
với sự phát triển của trẻ tôi đã tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường xây
dựng khu “Bé vui vận động” ở ngoài trời, khu vui chơi vận động ngoài trời
được trang bị, săp xếp phù hợp với từng độ tuổi. Với tuổi nhà trẻ thì có khu vui
chơi riêng được sắp xếp ở khu vực gần phịng nhóm/lớp cịn với trẻ mẫu giáo có
khu vui chơi riêng, được quy hoạch, thiết kế phù hợp, đảm bảo vệ sinh sạch sẽ,
an tồn, tạo mơi trường xanh, thống đãng để trẻ chơi, luyện tập PTVĐ. Nhà
trường đã trang bị thiết bị, đồ chơi ngoài trời đa dạng, giúp trẻ luyện tập các kỹ
năng vận động cơ bản và phát triển tố chất trong vận động: các kiểu đi, đứng,
chạy, nhảy; bò, trườn, trèo; tung, ném, lăn, bắt; thổi, vươn, …(theo Chương
6

skkn


trình GDMN). Sắp xếp các khu vực chơi đảm bảo an toàn, dễ quan sát trẻ, tuân
theo nguyên tắc đảm bảo nhiều cơ hội cho trẻ vận động, sáng tạo. Nhà trường

đã cũng đã tận dụng khoảng đất trống để tạo sân cát, đường đi đa dạng, gò đất,
núi đồi, vườn cổ tích, nhà, lều với các thiết bị, dụng cụ thể dục chuyên biệt giúp
trẻ tích cực tham gia vận động.
Mặt khác tôi đã kết hợp với giáo viên trong nhà trường bố trí thời gian để
thường xuyên thay đổi cảnh quan nhà trường thêm mới mẻ, hấp dẫn.
(Ảnh H.3.a)
7.1.2.2. Môi trường xã hội
Xây dựng môi trường thân thiện, trẻ tích cực, hứng thú với các hoạt động
PTVĐ. Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ tơi ln tạo cho trẻ một mơi an
tồn về mặt tâm lí, tơi ln gần gũi, yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng
với trẻ; tạo cho trẻ có cảm giác gần gũi như ở gia đình. Hành vi, cử chỉ, lời nói,
thái độ của tôi đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo.
7.1.3. Biện pháp 3: Lựa chọn hình thức tổ chức phong phú và đa dạng.
Để thực hiện nhiệm vụ giáo dục thể chất nói chung, phát huy tính tích cực
vận động cho trẻ nói riêng, người ta tiến hành thơng qua nhiều hình thức giáo
dục như trong tiết học và ngoài tiết học, bao gồm thể dục sáng, thể dục chống
mệt mỏi, trò chơi vận động, dạo chơi, thăm quan, hội khỏe, giáo dục cá biệt.
nhưng hình thức tổ chức trong tiết học là cơ bản hơn, giáo viên có thể rèn luyện
và phát triển cho trẻ các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vận động một cách có mục
đích, có hệ thống, có tổ chức và có kế hoạch. Hiệu quả của việc phát triển tính
tích cực vận động khơng chỉ phụ thuộc vào cánh lựa chọn các phương pháp dạy
học, mà con phụ thuộc đáng kể vào các hình thức dạy học. Vì vậy trong tiết học
giáo dục thể chất tơi đã sử dụng các hình thức sau:
Hình thức tập cả lớp- đồng loạt:
Khi áp dụng hình thức này tơi cho tất cả trẻ cùng thực hiện một bài tập vận
động giống nhau. Hình thức dạy học này cho phép giáo viên cùng một lúc chỉ
đạo toàn bộ trẻ, tăng lượng vận động, tạo điều kiện củng cố kỹ năng vận động,
phát triển tố chất thể lực, tính tập thể, khả năng phối hợp vận động khi thực hiện
bài tập.
Ví dụ: Khi dạy trẻ bài tập: “Đi thay đổi tốc độ theo hiệu lệnh” tôi cho cả

lớp đi theo hiệu lệnh của cơ (Hiệu lệnh bằng lời nói hoặc âm thanh sắc xô).
Hoặc khi tập vận động “Bật nhảy tại chỗ”, tôi cho cả lớp bật nhảy tại chỗ
cùng cơ.
Hình thức tập cả lớp - nối tiếp:
Khi áp dụng hình thức này, tôi cho trẻ cùng thực hiện một bài tập, liên tiếp
trẻ nọ nối tiếp trẻ kia. Có thể một nhóm có từ 3 - 5 trẻ tập xong bài tập rồi tiếp
theo đến nhóm khác, giống như tập quay vịng. Tập theo nhóm nối tiếp trẻ rất
hứng thú và thi đua nhau tập. (Ảnh 4b)
7

skkn


Hình thức tập theo nhóm:
Trong q trình áp dụng hình thức này tơi thường chia lớp thành 2 hoặc 3
nhóm, mỗi nhóm tập bài tập ở các vị trí khác nhau và có giáo viên 2 phụ trách.
Trong khi thực hiện bài tập theo nhóm, nếu tiết học có 1 vận động cơ bản thì tập
theo kiểu nhóm khơng chuyển đổi: Các nhóm tập xong bài tập đã cho thì cả lớp
chuyển sang phần tiếp theo của buổi tập. Nếu tiết học có 2 vận động cơ bản thì
tơi cho trẻ tập theo kiểu nhóm chuyển đổi, chia lớp thành 2 nhóm: Nhóm 1 tập
xong vận động thứ nhất, cùng lúc nhóm 2 tập xong vận động thứ hai. Sau đó
nhóm 1 tập vận động 2 đồng thời nhóm 2 tập vận động 1. Cuối cùng cả lớp
chuyển sang phần tiếp theo của buổi tập. (Ảnh 4a)
Hình thức tập cá nhân: Khi tiến hành hình thức này, trẻ tập lần lượt một bài
tập, giáo viên hướng dẫn, kiểm tra chất lượng bài tập các trẻ còn lại quan sát và
nhận xét ưu, nhược điểm của trẻ khi thực hiện bài tập
7.1.4. Biện pháp 4. Sử dụng có hiệu quả nhóm phương pháp trực quan.
Dạy trẻ bằng phương pháp trực quan là cách dạy bằng hình ảnh cụ thể, có
tác động trực tiếp lên các giác quan, đảm bảo tính rõ ràng, phù hợp với tư duy và
nhận thức theo lối trực quan cảm tính của trẻ. Vì vậy mọi hoạt động giảng dạy

đối với lứa tuổi này đều cần phải sử dụng những hình mẫu trực tiếp và hấp dẫn.
Có hai hình thức giảng dạy trực quan là trực quan trực tiếp và trực quan gián
tiếp. Khi tổ chức hoạt động phát triển vận động cho trẻ tôi cần thường phối hợp
vận dụng cả hai loại trực quan trên, nhất là ở giai đoạn đầu khi mới học động tác
vì ở giai đoạn này, nguyên tắc trực quan là tiền đề để trẻ tập và làm quen với
động tác mới. Nhóm phương pháp trực quan bao gồm làm mẫu, mơ phỏng, sử
dụng vật chuẩn thị giac, thính giác, và tài liệu trực quan.
Làm mẫu:
Trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi còn nhỏ nên lượng dự trữ biểu tượng vận động càng
ít, do đó làm mẫu chiếm một vị trí rất lớn trng việc hình thành những biểu tượng
vận động cho trẻ. Tơi thường sử dụng phương pháp làm mẫu khi dạy bài tập mới
cho trẻ hoặc khi ôn luyện.
Với một bài tập vận động mới, tôi thường làm mẫu 2 lần.
Lần 1: Làm mẫu tơi làm mẫu tồn phần khơng giải thích nhằm cung cấp
biểu tượng khái quát về bài tập.
Lần 2: Tôi làm mẫu chậm từng phần, kết hợp với giải thích kỹ từng vận
động.
Lần 3: Tơi cho trẻ quan sát mẫu của bạn mình, tự nhận xét, phát hiện ra cái
sai của bạn
Ví dụ: Khi dạy vận động “Ném xa bằng 2 tay”
- Tôi làm mẫu cho trẻ xem 2 lần:
+ Lần 1: Cơ tập khơng giải thích.
+ Lần 2: Cơ tập kết hợp với giải thích kỹ thuật vận động.
8

skkn


. TTCB: Đứng trước vạch, chân rộng bằng vai, 2 tay cầm túi cát.
. Thực hiện: Đưa 2 tay lên cao quá đầu, người hơi ngả về phía sau. Khi có

hiệu lệnh ném thì các con ném mạnh bóng về phía trước, càng xa càng tốt.
- Mời 1 trẻ lên tập mẫu.
Khi làm mẫu tôi luôn chú ý chọn vị trí đứng sao cho tất cả trẻ đều nhìn
thấy và nhận đứng mẫu.
Ví dụ: Động tác của bài tập phát triển chung thì tơi đứng cao và gần trẻ;
Động tác bật tôi đứng cùng chiều với trẻ. Với bài tập vận động cơ bản: Tập đi,
tôi đi ngược chiều với trẻ, nếu đi tay để sau lưng, sau gáy thì tơi đi cùng phía với
trẻ.
Khi làm mẫu tơi ln tập đúng, chính xác, nhẹ nhàng để trẻ có biểu tượng
đúng về bài tập và kích thích trẻ thực hiện tốt.
Mơ phỏng:
Đặc điểm của trẻ mầm non là thích bắt chước các hiện tượng thiên nhiên,
hiện tượng xã hội như đặc điểm lao động của người lớn, các phương tiện giao
thông, các đặc điểm đi lại, hành động của một số con vật… Chính vì vậy trong
q trình dạy trẻ các bài tập vận động tơi thường lựa chọn những hình ảnh phù
hợp với đặc điểm của bài tập vận động để trẻ mơ phịng theo, điều đó giúp trẻ
hứng thú hơn với bài tập, tránh được sự mệt mỏi, nhàm trán.
Ví dụ: Khi dạy trẻ vận động nhảy bằng 2 chân tiến về phía trước tơi đã sử
dụng hình ảnh của chú chim hoặc chú thỏ nhảy đi chơi sẽ giúp trẻ hứng thú hơn
với bài tập.
Hoặc Dạy trẻ vận động bật nhảy tại chỗ, tơi sử dụng hình ảnh quả bóng
nảy.
Sử dụng vật chuẩn thị giác:
Vật chuẩn thị giác bao gồm vạch vẽ, đồ chơi, các bộ phận trên cơ thể trẻ và
đồ vật xung quanh trẻ. Tôi thường sử dụng vật chuẩn thị giác để giúp trẻ khắc
sâu hơn hình ảnh về động tác đã học, củng cố kỹ thuật khó.
Ví dụ:
Bị đến lá cờ: Xác định hướng thẳng.
Ném trúng vịng: Xác định đích ném
Bật nhảy để hái quả ….

Sử dụng vật chuẩn thính giác: (Sử dụng âm nhạc trong dạy vận động cho
trẻ)
Trực quan bằng thính giác bao gồm vận động thường xuyên của âm thanh.
Âm nhạc là sự quan sát bằng âm thanh tốt nhất. Âm nhạc có tác dụng nâng cao
cảm xúc, xác định tính chất vận động và điều chỉnh âm điệu nhịp điệu của nó.
Trong q trình dạy trẻ vận động tơi thường sử dụng âm thanh của đàn, xắc xô,
tiếng vỗ tay, lời bài hát, chuông … để dạy trẻ. Tùy thuộc vào từng bài vận động
mà tôi sử dụng âm thanh cho phù hợp.
9

skkn


Ví dụ: Khi dạy vận động “Bị chui qua cổng”, chủ đề thế giới động vật.
- Tôi sử dụng tiếng sắc xơ để làm hiệu lệnh di chuyển đội hình khi dạy trẻ.
- Phần khởi động tôi cho trẻ đi thường kết hợp với các kiểu đi bằng gót
chân, mũi bàn chân, má bàn chân, chạy nhanh, chạy chậm dưới nền nhạc của bài
hát “Đố bạn”, sau đó cho trẻ chuyển đội hình để tập bài tập phát triển chung.
- Bài tập phát triển chung tôi cho trẻ tập với nhạc erobic có đầy đủ các
động tác tay-vai, chân, bụng - lườn, bật có nhịp dầy đủ, có động tác nhấn mạnh
cho vận động cơ bản. Tôi cho trẻ tập các động tác cùng với nơ.
- Và khi tập vận động cơ bản, tơi cho trẻ bị thi đua với nhau dưới nền nhạc
bài hát “Chú voi con” .
- Đến phần hồi tĩnh tôi cho trẻ làm những chú chim bay, bay nhẹ nhàng
theo nhạc khơng lời.
Ngồi ra tơi tích cực sưu tầm những bài hát, bản nhạc nước ngoài vui
nhộn, dễ nhớ, dễ vận động để đưa vào dạy trẻ như bản nhạc Chikendacen, bài
Finger Family, A beautiful day… Hay những bài hát vui nhộn có nhịp điệu 2/4
giành cho trẻ mầm non như: Đàn gà con, Đàn gà trong sân…
Khi đưa biện pháp này vào dạy trẻ trong tiết học giáo dục phát triển vận

động tôi thấy trẻ lớp tôi học tốt hơn, hứng thú hơn và kiến thức, kỹ năng của trẻ
được nâng lên rõ rệt.
7.1.5. Biện pháp 5: Tích cực cho trẻ thực hành, trải nghiệm.
Phương pháp thực hành bao gồm Luyện tập, trò chơi, thi đua.
Luyện tập.
Luyện tập là một trong những phương pháp cơ bản để trẻ nắm vững kiến
thức, kỹ năng vận động. Phương pháp này tôi thường sử dụng sau khi làm mẫu
xong.
Đối với trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi vì trí nhớ vận động của trẻ chưa tốt, hay
quên nên khi cho trẻ luyện tập bài tập phát triển chung tôi thường tập cùng với
trẻ. Lúc đầu tôi cho trẻ tập tay không sau đó tơi cho trẻ tập tập với dụng cụ như
cờ, nơ, bóng… tập với nhạc.
Với bài tập vận động cơ bản, trong khi trẻ luyện tập tôi sẽ quan sát trẻ tập,
kịp thời sửa sai cho trẻ, đến tận nơi nhắc nhở, hướng dẫn trẻ nhẹ nhàng để không
ảnh hưởng đến những trẻ khác.
Trị chơi:
Trị chơi có tác dụng gây hứng thú cho trẻ, khi tham gia vào trò chơi, trẻ
vận động tích cực hơn, tự nhiên, thỏa mái. Có 2 cách để tiến hành phương pháp
này đó là:
Đưa yếu tơ chơi vào buổi tập:
Ví dụ “Đi đều”: Hành quân như các chú bộ đội, bài tập “Vươn thở” cho
trẻ bắt chước gà gáy, thổi bóng, ngửi hoa; bài tập “Bò”: Bò như chuột; động tác
“Nhảy”: Nhảy qua rãnh nước, nhảy như thỏ…
10

skkn


Sử dụng trò chơi vận động: Tham gia trò chơi vận động trẻ vận động tích
cực hơn, tự nhiên, thoải mái, có tác dụng củng cố và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo

vận động. Tùy vào mục đích của bài dạy mà tơi lựa chọn trị chơi vận động cho
phù hợp.
Ví dụ: Muốn rèn luyện vận động chạy cho trẻ tơi chọn trị chơi “Đuổi bắt”,
“Mèo đuổi chuột”… Hoặc Rèn luyện định hướng âm thanh bằng trị chơi
“Chng reo ở đâu”.
Tơi đã tích cực sưu tầm lựa chọn trị chơi vận động, trò chơi dân gian phù
hợp với chủ đề như:
Chủ đề: Giao thơng.
- Trị chơi vận động: “Bánh xe quay”, “Ai nhanh nhất”; “Chèo thuyền”;
“Thuyền vào bến”; “Ơ tơ vào bến ”; “Đèn xanh, đèn đỏ”; “Máy bay”; “Ơ tơ và
chim sẻ”; “Về đúng bến”; “Tín hiệu”.
- Trị chơi dân gian : “Kéo cưa lừa xẻ”; “Dung dăng dung dẻ”
Chủ đề:  Nước và các hiện tượng tự nhiên.
- Trò chơi vận động: “Trời nắng trời mưa”; “Nắng mưa”;
“Nhảy qua suối”; “Tung và bắt bóng”; “Ném bóng vào chậu”.
- Trị chơi dân gian :“Nhảy lò cò”; “Lộn cầu vồng”.
Để các trò chơi vận động khơng bị nhàm chán, tăng thêm hứng thú cho
trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, mạnh dạn, tự tin. Tơi đã tổ chức cho trẻ
vừa chơi trị chơi vừa đọc bài thơ, bài ca, bài đồng dao, vừa hát vừa vận động.
Phương pháp thi đua:
Thi đua là một trong những hiện tượng xã hội phổ biến rộng rãi. Nó có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng, nhằm hồn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động ở mức
độ cao, làm tăng hứng thú, tăng khả năng vận động, kích thích, lơi cuốn trẻ vào
tập luyện. Trong q trình tổ chức hoạt động phát triển vận động tôi rất hay sử
dụng phương pháp thi đua, thi đua được tiến hành dưới 2 dạng:
Thi đua cá nhân: Để tránh tình trạng trẻ chán nản giữa các cháu thì khi tổ
chức tơi thường chọn các cháu ngang sức, ngang về kỹ năng vận động thi đua
với nhau. Và tôi nâng cao dần yêu cao trẻ thực hiện bài tập.
Ví dụ:
Lúc đầu yêu cầu trẻ thực hiện đúng bài tâp: “Ai đi đúng”; “Ai ném đúng”

Sau đó địi hỏi cao hơn: “Thi xem ai nhảy giỏi”; “Ai chạy nhanh tới cờ”:
“Ai ném trúng vòng”…
Thi đua đồng đội: Tôi phân chia hai đôi tương đương về sức, bằng nhau về
số lượng. Trước khi thi đua tơi ln giải thích rõ cho trẻ biết cách thực thi đua
và luật thi, sau đó mời trẻ nhắc lại. Sau khi trẻ thi đua tôi luôn là người phân xử
thắng thua một cách khách quan, không thiên vị; động viên khen ngợi trẻ kịp
thời.
11

skkn


Kết quả sử dụng phương pháo này hay phương pháp khác chịu tác động bởi
nhiều yếu tố như nhận thức, khả năng sư phạm của giáo viên, sự tham gia của
trẻ … Để nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động phát triển vận động cho trẻ, một
trong những vấn đề quan trọng là phải đảm bảo mật độ vận động cho trẻ và cần
phối hợp các phương pháp một cách linh hoạt, sáng tạo.
7.1.6. Biện pháp 6: Tổ chức tốt giờ học thể dục.
Giờ thể dục được coi là hình thức cơ bản để tổ chức hoạt động giáo dục
phát triển vận động cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. Trong giờ thể dục giáo
viên cung cấp (rèn luyện) cho trẻ những kĩ năng, kĩ xảo vận động có mục đích,
có tổ chức, có hệ thống, có kế hoạch, qua đó phát triển các tố chất vận động cho
trẻ. Để tổ chức tốt giờ học thể dục cho trẻ thì trước tiên tôi cần xác định nội
dung trọng tâm trong giờ thể dục, nội dung trọng tâm trong giờ thể dục cần lựa
chọn theo nguyên tắc hệ thống, phát triển và vừa sức.
Tiếp đến là xác định nội dung hỗ trợ là các bài tậ phát triển chung ở phần
trọng động, bài tập vận động ở phần trò chơi vận động, khởi động, hồi tĩnh, bài
tập đội hình đội ngũ. Về cơ bản đây là những bài tập vận động mà trẻ đã được
làm quen và đảm bảo an toàn, theo nguyên tắc động – tĩnh của vận động.
Ví dụ: Với những vận động cơ bản là tĩnh như bò, trườn thì trị chơi vận

động phải động như trị chơi chạy nhảy “Mèo đuổi chuột”, “cướp cờ”…
Nếu vận động cơ bản là động như Ném kết hợp với chạy nhảy thì trị chời
phải tĩnh như trị chơi “Tìm cờ”, “Tiếng gọi của ai”…
Sau khi xác định được nội dung trọng tâm, nội dung hỗ trợ và mục tiêu
của bài học thì tôi phải chuẩn bị địa điểm phù hợp với bài dạy, chuẩn bị đầy đủ
đồ dùng, dụng cụ, trang phục cho cô và trẻ hoạt động.
Bước tiếp theo là tổ chức giờ thể dục: Giờ thể dục gồm có 3 phần đó là
Khởi động, trọng động và hồi tĩnh. Mỗi phần giải quyết nhiệm vụ nhất định và
có sự chuyển tiếp tự nhiên, liên tục.
Phần khởi động: Có nhiệm vụ chuyể trẻ sang trạng thái sẵn sàng vận
động, hình thành thái độ tích cự, hứng thú, tập trung đối với việc thực hiện vận
động. Tùy vào từng độ tuổi mà thời gian giành cho khởi động là khác nhau, với
trẻ 3-4 tuổi thì tơi cho trẻ khởi động từ 2-3 phút. Tơi cho trẻ đi, chạy nhẹ nhàng
theo đội hình vịng tròn, kết hợp các kiểu đi khác nhau với tốc độ khác nhau: đi
thường, đi bằng mũi bàn chân, đi thường, đi bằng gót chân, đi thường, đi bằng
mép chân, đi thường, chạy chậm, chạy nhanh, chạy chậm… Để gây hứng thú và
tập trung sự chú ý của trẻ tôi thường sử dụng âm nhạc cho phần khởi động, âm
nhạc tôi chọn thường vui nhộn, phù hợp với chủ đề.
Ví dụ: Với chủ đề “Bản thân”, tôi chọn nhạc dân vũ: Vũ điệu rửa tay cho
trẻ đi khởi động.
Phần trọng động: Đây là phần trọng tâm của giờ thể dục, nó có tác dụng
nhiều nhất đến sự phát triển của cơ thể trẻ. Thời gian của phần này thường
12

skkn


chiếm 2/3 thời gian của cả giờ học. Ở phần này gồm có hai hay ba giai đoạn: Bài
tập phát triển chung, vận động cơ bản, trò chơi vận động. 
- Giai đoạn 1: Thực hiện bài tập phát triển chung:

+ Đội hình 3 hàng ngang, khoảng cách đều nhau. 
+ Tập các động tác phát triển, rèn luyện các nhóm cơ, theo trình tự Tayvai; bụng- lườn; chân-bật
Số lần tập các động tác phụ thuộc vào mức độ yêu cầu của bài tập vận
động cơ bản, trong đó động tác hỗ trợ cho vận động cơ bản với số lần tập tăng
thêm từ 1- 2 lần. 
Ví dụ: Vận động cơ bản “Bật qua vật cản”, lựa chọn động tác: 
+ Tay-vai: Tay đưa ra phía trước, lên cao.(2l x 4n)
+ Bụng- lườn: Đứng cúi gập người về trước, tay chạm ngón chân. (2l x 4n) 
+ Bật: Bật về phía trước. (4l x 4n) 
Với trẻ 3-4 tuổi, tôi tập mẫu và tập cùng với trẻ. Để tạo hứng thú cho trẻ
tôi thường cho trẻ tập cùng với dụng cụ thể dục như: Cờ, nơ, vòng, gậy, bóng….
- Giai đoạn 2: Thực hiện bài tập vận động cơ bản.
+ Đội hình 2 hàng ngang đứng đối diện nhau
+ Tùy thuộc vào vận động mới hoặc cũ để hướng đẫn trẻ tập. Đối với vận
động cũ tôi tổ chức cho trẻ nhắc lại cách thực hiện và tập thử, sau đó cả lớp tiến
hành tập. Đối với vận động mới tôi hướng dẫn trẻ thật tỉ mỉ, tiến hành theo các
bước:
Bước 1: Cô làm mẫu:
Lần 1: Cô làm không giải thích động tác. 
Lần 2: Cơ làm kết hợp giải thích động tác ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. 
Bước 2: Cho 1-2 trẻ làm thử. 
Bước 3: Tổ chức cho cả lớp thực hiện.
Lần 1: Cô cho lần lượt 2 trẻ lên thực hiện 1 lần.
Lần 2: Cơ có thể tăng dần độ khó (vật cản cao hơn, tăng thêm 1-2 vật cản)
và cho 2 đội thi đua nhau lên thực hiện. Trong khi trẻ tập tôi luôn chú ý sửa sai
cho trẻ (nếu có)
- Giai đoạn 3: Trị chơi vận động: Thay đổi trạng thái vận động, rèn luyện,
củng cố những kĩ năng vận động đã được hình thành ở các giờ thể dục trước.
Với trẻ mẫu giáo bé thì tơi thường chơi cùng trẻ, đóng 1 vai trong trị chơi để
hướng dẫn trẻ chơi.

Ví dụ: Trong trị chơi “Mèo đuổi chuột” thì tơi thường đóng làm vai mèo.
Hoặc trị chơi “Cáo ơi ngủ à” thì tơi đóng vai “cáo”…
Phần hồi tĩnh: Có nhiệm vụ đưa cơ thể về trạng thái bình thường, tạo cảm
giác thoải mái, phấn khởi ở trẻ.
+ Thời gian giành cho phần này khoảng 2-3 phút. 
13

skkn


+ Tơi tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau như: Cho trẻ đi vòng tròn
vừa đi vừa hát nhẹ nhàng theo nhạc hoặc cho trẻ đi tự do trên sân vừa đi vừa
vươn vai hít thở, thả lỏng tay chân; tiến hành trò chơi vận động tĩnh như: “Chim
bay”, “Bóng bay xa”, “Tìm đồ chơi”.
7.1.7. Biện pháp 7: Lồng ghép tích hợp nội dung vận động vào các hoạt
động và tổ chức cho trẻ tham gia vận động ở mọi lúc, mọi nơi.
Việc lồng ghép các hoạt động vận động nhằm củng cố bài học và thay đổi
tư thế, hình thức trong hoạt động là rất cần thiết, chính vì vậy tơi ln đưa các
nội dung vận động vào các hoạt động trong ngày, thay đổi trạng thái động tĩnh
bằng các trò chơi động, trò chơi dân gian
+ Lồng ghép vào làm quen với Tốn:
Thơng qua các trị chơi ở phần luyện tập mà tôi đã đưa ra cách tích hợp
hoạt động phát triển vận động như: Bật nhảy qua suối, bật liên tục qua các vòng,
đi trong đường hẹp….Qua đó củng cố các kiến thức mà trẻ đã được học và tăng
sức hút với trẻ ở khả năng thi đua.
Ví dụ: Giờ hoạt động làm quen với tốn “Đếm đến 4, nhận biết các nhóm
có số lượng là 4”, chủ đề: Giao thông. Sau khi tôi cho trẻ học đếm đến 4, nhận
biết các nhóm có 4 đối tượng. Tơi đã tổ chức cho trẻ tham gia trị chơi “Bé thơng
minh nhanh trí”, tơi chia trẻ thành 3 đội, nhiệm vụ của các đôi là lần lượt đi
trong đường hẹp lên gắn toa tàu sao cho mỗi con tàu có 4 toa.

+ Hoạt động khám phá khoa học: Tìm hiểu về nghề thợ xây, chủ đề nghề
nghiệp.
Tơi gây hứng thú cho trẻ bằng trò chơi “Kéo cưa lửa xẻ”.
Đến phần ôn luyện củng cố tôi tổ chức cho trẻ chơi trị chơi “Tìm đồ dùng
của nghề thợ xây”. Tôi chia trẻ thành 2 đội, nhiệm vụ của 2 đội là bật liên tục
của qua 3-4 vòng lên lấy đồ dùng của nghề thợ xây để vào rổ của đội mình.
+ Lồng ghép vào hoạt động phát triển ngơn ngữ:
Với hoạt động làm quen với văn học như đọc thơ kể chuyện, tơi cũng đã
đưa các trị chơi vận động nhẹ nhàng vào phần gây hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: PTNN: Truyện “Chị thợ may”, để gây hứng thú cho trẻ tơi tổ chức
cho trẻ chơi trị chơi “Dệt vải”, sau đó trị chuyện, dẫn dắt vào nội dung câu
truyện.
Hoặc khi dạy trẻ bài thơ “Đèn giao thông”, sau khi đọc thơ cho trẻ nghe
và dạy trẻ đọc thơ, để củng cố thêm kiến thức về nội dung bài thơ tơi tổ chức
cho trẻ chơi trị chơi “Đèn xanh đèn đỏ”….
+ Lồng ghép vào hoạt động tạo hình:
Sau khi trẻ tập tô màu, tập vẽ xong khiến tay, chân bị mỏi thì tơi đưa thể
dục chống mệt mỏi (phút thể dục) vào để dạy trẻ. Cho trẻ dừng lại tập khớp cổ
tay và ngón tay: xoay hai cổ tay vào trong – ra ngoài và ngược lại, co duỗi các
14

skkn


ngón tay, thả lỏng bàn tay, ngón tay và lắc. Vừa tập vừa đọc bài thơ “Vẽ mãi
tay, cúi mãi mỏi lưng, tập thể dục thế này, là hết mệt mỏi”
Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tôi ln ln tìm cách giáo dục
phát triển vận động cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi và kết hợp vào tất cả các hoạt
động trong một ngày của trẻ như: Giờ đón trả trẻ, chơi hoạt động ở các góc, vận
động nhẹ sau khi ngủ dậy, chơi ngoài trời, chơi hoạt động theo ý thích...

+ Giờ đón, trả trẻ:
Tơi cho trẻ tự do chơi ở các góc mà trẻ thích, trẻ chơi lắp ghép, hoặc xâu
hột hạt, đan, tết... nhằm phát triển sự linh hoạt của bàn tay, ngón tay, phối hợp
tay – mắt.
Hoặc tôi tổ chức cho trẻ tham gia các trò chơi vận động, trò chơi dân gian
một cách nhẹ nhàng phù hợp chủ đề.
Ví dụ: Trong giờ đón trả trẻ ở chủ đề: Thế giới động vật
Ngồi chơi ở các góc, nhóm tơi cịn tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi như:
Bắt chước tạo dáng, Con vịt, con cào cào…
Hoặc với chủ đề “Thế giới thực vật”, tơi tổ chức cho trẻ chơi trị chơi gieo
hạt, cây cao cỏ thấp…
+ Giờ thể dục sáng:
Buổi sáng trẻ được tập thể dục sẽ nâng cao hoạt động của các cơ quan
trong cơ thể, phát triển kỹ năng vận động cần thiết tạo cho trẻ trạng thái sảng
khoái, vui tươi. Thể dục sáng giúp trẻ khôi phục khả năng làm việc của toàn bộ
các cơ quan, cuốn hút trẻ vào các hoạt động. Đặc biệt khi trẻ được tham gia thể
dục sáng thường xuyên sẽ giúp trẻ tự tin, mạnh dạn hơn trong cuộc sống, trong
học tập, nâng cao tinh thần tập thể, ý thức lao động tinh thần trách nhiệm với
công việc cho trẻ.
Trong giờ thể dục sáng tôi lựa chọn, sắp xếp các động tác phù hợp và hấp
dẫn đối với trẻ. Bài tập phải có các động tác hoàn thiện các kỹ năng đi, chạy
nhảy để hình thành tư thế đúng, giúp cho các cơ quan hơ hấp, tuần hồn và các
nhóm cơ hoạt động tích cực.
Khi tổ chức giờ thể dục sáng tôi thường sử dụng kết hợp bài hát, bản nhạc
phù hợp để trẻ hào hứng, buổi tập không bị đơn điệu. Một tuần tơi thay đổi 1-2
động tác trong bài.
+ Chơi ngồi trời:
Chơi ngoài trời tạo cho trẻ nhiều cơ hội vận động toàn phần, phát triển kĩ
năng vận động, phát triển các cảm giác khác nhau…Tôi luôn tận dụng tối đa môi
trường sẵn có ở sân trường để cho trẻ thực hiện nhiều vận động khác nhau như:

Đi chạy nhảy tự do theo ý thích, chạy đuổi bắt, nhảy lị cị, bắt chước vận động
của các con vật: Ngựa phi, rùa bò, gấu đi, ếch nhảy…
Tôi cho trẻ chơi tự do với các thiết bị ngồi trời: Cầu trượt, bập bênh, xích
đu, đu quay, thang leo trèo, đường ống để chui qua, lốp xe dựng đứng, bóng, ơ
15

skkn


tơ… Qua đó giúp trẻ phát triển các kĩ năng vận động thô của cơ bắp, các tố chất
nhanh, mạnh, khéo léo, phối hợp nhịp nhàng tay mắt…
Tơi cịn tận dụng mơi trường tự nhiên sẵn có để trẻ được tham gia vận
động như chạy xung quanh gốc cây, nhảy qua rãnh nước, đi trên tường thấp,
chạy bắt bướm, bắt chuồn chuồn…
Tơi cũng đã lựa chọn những trị chơi vận động, trị chơi dân gian mà trẻ
u thích và phù hợp với chủ đề để trẻ được tham gia chơi khi chơi ngồi trời.
Ví dụ: Chủ đề: Trường mầm non
Tổ chức cho trẻ chơi trị chơi: Chuyền bóng cho nhau, Cáo và thỏ, Chạy
tiếp cờ, vượt chướng ngại vật…
Chủ đề: Tết và mùa xuân
Tổ chức trò chơi: “Mèo đuổi chuột”, “Bịt mắt bắt dê”, “Kéo co”, “Bốn
mùa”…
Trong quá trình trẻ chơi tôi luôn bao quát để hướng dẫn trẻ chơi, kịp thời
xử lí các tình huống xảy ra khi chơi.
Với hình thức tổ chức cho trẻ đi dạo chơi, đi tham quan cũng mang lại
cho trẻ bầu khơng khí trong lành, ánh sáng làm thỏa mãn về nhu cầu vận động
của trẻ.
+ Chơi, hoạt động ở các góc:
Qua hoạt động góc trẻ được thực hiện và phối hợp các cử động của bàn tay,
ngón tay, phối hợp tay – mắt với các bài tập.

Ví dụ: Ở góc học tập: Trẻ thực hiện gập, mở lần lượt từng ngón tay để
đếm, thêm, bớt, tạo ra các hình học...
Ở góc tạo hình: Trẻ được dùng bàn tay, ngón tay để vẽ, các ngón tay kết
hợp với nhau cầm phấn, bút vạch ra những đường nét theo sự tưởng tượng của
trẻ. Trẻ dùng đất nặn nhào, bóp, lăn dọc, xoay trịn, ấn, dí cũng cần có sự khéo
léo và sức mạnh của đơi bàn tay.
Ở góc xây dựng: Trẻ được luyện tập các cử động của bàn tay, ngón tay
khi lắp ghép hình, xếp gạch xây hàng rào....
7.1.8. Biện pháp 8: Tổ chức tốt ngày hội thể dục thể thao ở cấp độ lớp và
cho trẻ giao lưu với lớp khác.
“Ngày hội thể dục thể thao” chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong
trường mầm non nói chung và trong lĩnh vực giáo dục phát triển vận động nói
riêng. Tổ chức tốt “Ngày hội thể dục thể thao” nhằm rèn luyện cơ thể trẻ, khích
lệ lịng u thích thể dục, thể thao, góp phần củng cố và hồn thiện kỹ năng vận
động ở trẻ.
Tổ chức “Ngày hội thể dục thể thao” ở trường mầm non với nhiều cấp độ
khác nhau: “Ngày hội thể dục thể thao” tổ chức ở cấp độ lớp và “Ngày hội thể
dục thể thao” tổ chức ở cấp độ trường hay liên trường. Với trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi
16

skkn


thì tơi chọn cách tổ chức “Ngày hội thể dục thể thao” tổ chức ở cấp độ lớp vì trẻ
cịn nhỏ.
Để tổ chức tốt “Ngày hội thể dục thể thao” trước tiên tôi cần phải lựa
chọn nội dung của ngày hội, nội dung được xây dựng trên cơ sở những bài tập,
trò chơi quen thuộc theo cấu trúc:
Một trò chơi chung với lượng vận động trung bình (thực hiện 2-3 lần)
Các bài tập vận động (khơng q ba bài tập)

Trị chơi vận động mạnh dành cho tất cả trẻ.
Trò chơi vận động tĩnh (Nếu cần thiết)
Ví dụ:
- Trị chơi chung: Chơi trò chơi “Kết bạn”
- Bài tập vận động:
+ Đi kiễng chân qua đường hẹp lấy hoa đưa cho bạn đầu hàng.
+ Bò thấp chui 3 cổng
- Trò chơi vận động mạnh: Chơi “Kéo co”
Chuẩn bị: chuẩn bị chu đáo về giáo án, địa điểm, dụng cụ luyện tập, trang
trí bằng băng, cờ, biểu tượng, huy hiệu…
Tổ chức: Khi tổ chức tơi đưa ra u cầu của trị chơi, khẩu lệnh vắt đầu và
kết thúc trò chơi, bài tập vận động, đưa ra kết luận, làm trọng tài chính của cuộc
thi. Bao quát, thúc đẩy trẻ, kịp thời nhắc nhỏ và tác động chung đến khơng khí
của ngày hội.
Xây dựng nội dung trên cơ sở những trò chơi thể thao mà tất cả trẻ đã
được làm quen hay các yếu tố cơ bản của trò chơi đã được trẻ nắm vững.
Ví dụ: Nội dung ngày hội gồm trị chơi với bóng. Bắt đầu từ chơi đơn giản
sau đó đến phức tạp và đưa ra yêu cầu vận động cao hơn như.
Trị chơi vừa ném bóng vừa tiến về phía trước, vượt qua chướng ngại vật
Trị chơi ném và bắt bóng
Trị chơi ném bóng vào giỏ.
Trong “Ngày hội thể dục thể thao”, tất cả trẻ đều được tham gia trực tiếp
vào hoạt động thể dục, thể thao. Trẻ được thi đấu một cách tích cực, hào hứng,
sơi nổi và trẻ được giao lưu cùng các bạn trong lớp, trong khối. Từ đó phát triển
ở trẻ tính linh hoạt, mạnh dạn, tự tin và tinh thần tập thể.
Ngoài ra mở rộng mối quan hệ bạn bè không những ở trong lớp mà với
các bạn ở lớp khác để trẻ được giao lưu học hỏi, giúp trẻ mạnh dạn tự tin trong
giao tiếp, mạnh dạn chia sẻ cảm xúc và thể hiện mình, trẻ giao lưu và trực tiếp
tham gia hoạt động tôi đã cho trẻ tham gia giao lưu cùng các trẻ khác trong khối,
trong các chủ đề và vào dịp lễ hội.

Ví dụ: Trong dịp Lễ hội Đến Hùng

17

skkn


Tôi tổ chức cho trẻ giao lưu kéo co với các bạn lớp bên cạnh; Khi được
tham gia giao lưu trẻ rất phấn khởi. Hầu hết các trẻ đều cố gắng hết sức mình để
giành phần thắng.
7.1.9. Biện pháp 9: Phối hợp với cha mẹ trẻ trong giáo dục phát triển vận
động cho trẻ.
Q trình chăm sóc – giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non mang đặc tính xã
hội hố cao, để thực hiện có hiệu quả quyền được chăm sóc, vui chơi của trẻ em
ở lứa tuổi này cần thiết có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường – gia đình
và xã hội. Và nội dung giáo dục phát triển vận động cho trẻ cũng vậy, để thỏa
mãn nhu cầu vận động của trẻ và để đạt được kết quả vận động cao nhất thì địi
hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa trường lớp mầm non, gia đình và xã hội. Ý
nghĩa sâu sắc đó đã được Bác Hồ chỉ ra từ lâu: "Giáo dục trong nhà trường dù
tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngồi xã hội thì kết quả
cũng khơng hồn tồn”, (Trích bài nói tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành
giáo dục tháng 6/ 1957).
Trong công tác phối hợp giữa Nhà trường – Gia đình – Xã hội, thì gia
đình có vai trị tác động vơ cùng quan trọng, là trọng tâm của các hoạt động kết
hợp. Gia đình là nơi trẻ  được sinh ra, lớn lên và hình thành nhân cách của
trẻ. Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đến với trẻ là đầu tiên và sớm nhất. Chính
vì vậy trường lớp mầm non cần làm tốt công tác phối kết hợp giữa nhà trường và
cha mẹ trẻ trong cơng tác chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục trẻ nói chung và giáo
dục phát triển vận động nói riêng.
Trong giáo dục phát triển vận động cho trẻ thì cha mẹ có vai trị là người

cung cấp thơng tin về đặc điểm riêng và khả năng của trẻ, cha mẹ hỗ trợ giáo
viên trong việc thực hiện các yêu cầu vận động của lớp tại gia đình, cha mẹ là
người xây dựng môi trường giáo dục vận động tại gia đình, là người tham gia
giám sát các hoạt động giáo dục phát triển vận động tại trường, là hình mẫu nêu
tấm gương về tinh thần rèn luyện thể dục thể thao. Chính vì vậy tơi đã xác định
được các nội dung cần phối hợp với cha mẹ trẻ trong giáo dục phát triển vận
động như sau:
Phối hợp với cha mẹ trẻ tham gia xây dựng môi trường giáo dục phát triển
vận động cho trẻ trong nhà trường. Cụ thể: Tôi tuyên truyền để cha mẹ trẻ hiểu
được ý nghĩa, tầm quan trọng của môi trường đối với sự phát triển vận động của
trẻ; Vận động cha mẹ trẻ cùng tham gia xây dựng mơi trường vận động trong và
ngồi lớp học như: cung cấp các nguyên vật liệu để xây dựng góc vận động như
bìa cát tơng, ống nước, lốp xe, chai lọ… Tùy vào từng ngành nghề của cha mẹ
trẻ mà tôi vận động như : Những phụ huynh làm nghề thợ mộc thì tơi vận động
phụ huynh ủng hộ việc đóng bục bật nhảy, ghế thể dục, thao leo trèo cho trẻ…
Với phụ huynh làm nghề thợ xây thì ủng hộ lốp xe để làm cổng chui, thang leo
trèo, xích đu, bập bênh...
18

skkn


Phối hợp với cha mẹ trẻ tham gia các hoạt động giáo dục phát triển vận
động cho trẻ trong trường mầm non. Tôi trao đổi với cha mẹ trẻ cách hướng dẫn
trẻ thực hiện các nhiệm vụ vận động của trẻ tại gia đình, cha mẹ khuyến khích
trẻ khi trẻ thực hiện tốt; Vận động cha mẹ trẻ cùng tham gia các hoạt động phát
triển vận động cho trẻ tại trường như cùng tham gia hội khỏe, tuần lễ sức khỏe,
ngày hội thể dục thể thao, các hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng…
Các nội dung phối hợp với cha mẹ trẻ được tơi tiến hành với nhiều hình
thức khác nhau như thông qua buổi họp phụ huynh, trao đổi trực tiếp với cha mẹ

trẻ trong giờ đón trả trẻ; thơng qua sổ liên lạc điện tử, đài truyền thanh, pa nơ, áp
phích, góc tun truyền tại trường tại lớp; Thơng qua các hoạt động tập thể hội,
lễ của nhà trường; Thông qua mạng internet, facebook, zalo…
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng tại các lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi trong nhà trường
đạt hiệu quả cao. Giáo viên có thể lựa chọn được nội dung, phương pháp, biện
phát giáo dục phát triển vận động cho trẻ đạt kết quả cao nhất. Đồng thời giúp
trẻ tăng cường sức khỏe, phát triển cân đối, hài hòa về hình thái và chức năng
của cơ thể trẻ. Đồng thời giúp trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt.
8. Những thơng tin cần được bảo mật: Khơng có.
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
+ Các trang thiết bị, đồ dùng học liệu,tài liệu phục vụ các hoạt động giáo
dục phát triển vận động
+ Đồ dùng đồ chơi tự tạo.
+ Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo.
+ Sự ủng nhiệt tình của các bậc phụ huynh.
+ Sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và tổ chun mơn.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có).
Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài này tôi rút ra được một số bài học kinh
nghiệm để nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động giáo dục phát triển vận động
cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi như sau:
Trước hết giáo viên phải có lịng say mê với nghề nghiệp, luôn yêu nghề,
mến trẻ nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giáo dục phát triển thể
chất đối với trẻ mầm non.
Nắm chắc các phương pháp và hình thức tổ chức. Phải biết lập kế hoạch
và xây dựng mơi trường vận động, góc vận động.
Biết lựa chọn nội dung vận động cơ bản, các trò chơi vận động, các bài
tập thể dục phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Cho trẻ tập luyện thường xuyên liên tục

đúng giờ đối với hoạt động giáo dục thể chất.
19

skkn


Tổ chức hoạt động giáo dục phát triển vận động để khuyến khích tính tự
giác và tích cực ở trẻ; Để tổ chức tốt các giờ học giáo dục giáo dục phát triển
vận động cần có sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh.
Khi tổ chức các giờ học giáo dục thể chất, cần có những hình thức phong
phú và đa dạng, lôi cuốn trẻ tham gia hoạt động.
Để hoạt động của trẻ không mệt mỏi, uể oải cần đưa yếu tố âm nhạc,
aerobic vào bài học giáo dục thể chất. Hoạt động vận động để rèn luyện sức
khỏe vì vậy giáo viên cần cho trẻ hoạt động ở mọi lúc mọi nơi.
Tổ chức tốt các hoạt động “Ngày hội thể dục thể thao”, hoạt động giao lưu
giữa các lớp, các khối với nhau.
Làm tốt công tác phối kết hợp với giáo viên trong lớp, tổ chuyên môn , lãnh
đạo nhà trường tạo điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và điều kiện
môi trường xung quanh. Có phịng giáo dục thể chất cho trẻ, có khoảng khơng
gian rộng rải, thống mát để tổ chức hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Qua việc áp dụng những biện pháp trên vào thực tiễn công tác giảng dạy,
tôi nhận thấy rằng hiệu quả việc tổ chức hoạt động giáo dục phát triển vận động
cho trẻ của lớp mẫu giáo 3- 4 tuổi được nâng cao rõ rệt:
Đối với trẻ:
- Trẻ lớp tôi rất hứng thú với tiết học, hăng hái tham gia vào các hoạt
động. Trẻ có nề nếp và thói quen học tập tốt và trật tự.
- Những trẻ nhút nhát đã mạnh dạn, không e dè sợ sệt nữa, những trẻ lười
vận động đến bây giờ đã chăm chỉ luyện tập hơn.

- Trẻ hào hứng tiếp nhận kiến thức một cách thoải mái thơng qua các hoạt
động nhóm, tập thể...
- Đa số trẻ đều nắm được kĩ năng tập các bài tập vân động, đồng thời ghi
nhớ và củng cố lâu hơn. Trẻ được nâng cao những hiểu biết của mình, trẻ hoạt
bát nhanh nhẹn hơn, giờ học, giờ chơi đan xen nhau một cách nhẹ nhàng mà vẫn
đạt được hiệu quả cao.
- Trẻ được củng cố, rèn luyện các kỹ năng vận động, phát triển vận động
cơ bản ( đi, chạy, nhảy…) hoặc vận động tinh ( ngón tay, bàn tay…)
- Củng cố và phát triển các tố chất thể lực: nhanh, mạnh, bền, khéo cho trẻ.
- Trẻ lớp tôi đều phát triển khỏe mạnh, khơng cịn trẻ suy dinh dưỡng.
Qua khảo sát cuối năm kết quả tổ chức hoạt động phát triển vận động cho
trẻ ở 2 lớp mẫu giáo 3A3, 3A4 đạt được cụ thể như sau:
Nội dung

Trước khi áp dụng
Số trẻ đạt
%

Sau khi áp dụng
Số trẻ đạt
%

Kết quả
20

skkn




×