Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Một số loại hình bảo hiểm xuất nhập khẩu và khả năng áp dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.61 MB, 91 trang )

BẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
INH TẾ NGOẠI THƯƠNG
ÍLJÊầBSMSi
"ÓT NGHIỆP
NAM
viên
hướng
dẫn :
TS.
Trịnh
siêu thác
hiện
: Lê
Kẩm
h
15-K40D-KTNT

NỘI
-11/2005
li
ì
TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH
TẾ


NGOẠI
THƯƠNG
fye
í
V
«ể»
FOREIGN TIMDE
ÍINIVERSI1Y
KHÓA LUÂN
TÓT
NGHIÊP
Đề
tài
MỘT SỐ
LOẠI
HÌNH
BẢO
Hlến/l
XUẤT
NHỘP
KHÂU

• •

KHẢ
NĂNG
ÁP DỤNG
TẠI
Vlậ
NOM

Giáo viên
hướng
dẫn
Sinh
viên
thực
hiện
Lớp
TS.
Trịnh
Thu
Hương

Kẩm
Nhung
Anh
15- K40D
-
KTNT
ĩiPị
hLŨẦẲíLÌ
1
„i*s2S&-**í~—
t
"

NỘI
-
11/2005
Ì

Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
MỤC LỰC
LỜI
MỞ
ĐẦU
3
BẢNG
CHỮ
CÁI VIẾT TẮT
4
CHƯƠNG
ì.
NHỮNG VẤN ĐỂ CHUNG VỀ
RỦI
RO
VÀ.BẢO
HIỂM

XUẤT
NHẬP KHẨU 5
ì.
Rủi
ro
trong kinh
doanh
xuất
nhập
khẩu
5
1.
Khái
niệm
rủi
ro
5
2.
Khái
niệm

thực
tế
rủi
ro
trong kinh
doanh
xuất
nhập
khẩu

7
3.
Các
biện
pháp
quản

rủi
ro
trong kinh
doanh
xuất
nhập
khẩu
12
3.1.
Tránh
rủi
ro
13
3.2.
Phòng
ngừa, ngăn chặn
tổn
thất
13
3.3.
Tự
khắc phục
rủi

ro
16
j^ĩ/Bảo hiểm
xuất
nhập
khẩu
16
/
Ì.
Khái
niệm

bẳn
chất
của bảo hiểm
16
lị
2.
Khái
niệm

các
loại
hình
bảo hiểm
xuất
nhập
khẩu
22
(

3. Lợi
ích của bảo hiểm
xuất
nhập
khẩu
24
\
CHƯƠNG
li.
CÁC
LOẠI
HÌNH
BẢO
HIỂM
XUẤT NHẬP KHAU

24
IJBẳo hiểm
hàng hóa
xuất
nháp
khẩu
24
1.
Khái
niệm, đặc
điểm
24
2.
Phạm

vi
bảo hiểm và các
rủi
ro
loại
trừ
25
3.
Giá
tr
bảo
hiếm,
Số
tiền
bảo hiểm

Phí bảo hiểm
29
li.
Bảo
hiểm tín
dụng
xuất
nhập
khẩu
31
Ì.
Sự
ra
đời

của bảo hiểm tín
dụng
xuất
nhập
khẩu
31
2.
Khái
niệm

đặc
điểm
33
3.
Phạm
vi
bảo hiểm của bảo hiểm tín
dụng
xuất
nhập
khẩu
35
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu


khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
4.
Giá
trị
bảo
hiểm,
Số
tiền
bảo
hiểm,
Phí bảo hiểm
36
5.
Phân
loại
các
sản
phẩm
bảo hiểm tín
dụng
xuất
khẩu
40
6.
Lợi

ích của bảo hiểm tín
dụng
xuất
nhập
khẩu
42
7.
Phân
biệt
bảo hiểm
hàng hóa
xuất
nhập
khẩu

bảo hiểm tín
dụng
xuất
nhập
khẩu
* 45
HI.
Bảo
hiểm
thăm dò
thị
trường
48
1.
Sự

cần
thiết
của bảo hiểm
thăm dò
thị
trường
48
2.
Các
loại
sản
phẩm
bảo hiểm
thăm dò
thị
trường
49
IV.
Bảo
hiểm
rủi
ro
hối
đoái 61
1.
Rủi
ro
hối
đoái 61
2.

Các
biện
pháp phòng
chống
rủi
ro
hối
đoái
62
3.
Bảo
hiểm
rủi
ro
hôi
đoái
65
CHƯƠNG
HI.
KINH
NGHIỆM
CỦA CÁC
NƯỚC
VÀ KHẢ NĂNG ÁP
DỤNG
CÁC
LOẠI
HÌNH BẢO
HIỂM
XUẤT

NHẬP
KHẨU
MỚI Ở
VIỆT
NAM 72
ì.
Kinh
nghiệm của
các nưc
trên
thế
giói
72
li.
Tinh
hình áp
dụng
bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu

Việt
Nam 77
1.
Tinh
hình
bảo hiểm
hàng hóa

xuất
nhập
khẩu
77
2.
Tinh
hình
bảo hiểm tín
dụng
xuất
nhập
khẩu
77
3. Tinh
hình
bảo hiểm
thăm dò
thị
trường

Việt
Nam 79
4.
Tinh
hình
bảo hiểm
rủi
ro
hối
đoái


Việt
Nam 79
IU.
Khả năng áp
dụng
các
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu
mi ở
Việt
Nam . 79
1.
Sự
cần
thiết
áp
dụng
các
loại
hình
bảo hiểm mi

Việt
Nam 79
2.

Phân
tích
khả
năng hình thành các
loại
hình
bảo hiểm mi

Việt
Nam 81
KẾT
LUẬN
83
TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO
84
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt

Nam
LỜI
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp
thiết
của đề tài
Tại Việt
Nam, bảo
hiểm
hàng hóa
xuất
nhập khẩu
đang
trở
thành một
bộ phận quan
trọng trong
hoạt
động
kinh
doanh quốc
tế.
Loại
hình bảo
hiểm
này đã và đang giúp các
doanh
nghiệp xuất
nhập khẩu
Việt

Nam
đối
phó
với
rủi
ro,
nhờ đó
tự
tin
kinh
doanh
xuất
nhập
khẩu,
đóng góp vào sự phát
triển
kinh tế
đất
nước.
Tuy
nhiên,

thể
nhận
thấy rững,
vẫn còn
nhiều
rủi
ro không nữm
trong

phạm
vi
của bảo hiểm
hàng hóa
xuất
nhập
khẩu.
Rủi
ro
chính
trị, rủi
ro
thương
mại,
rủi
ro
thất
bại thị
trường,
rủi
ro
hối
đoái vẫn luôn ngăn cản
những
nỗ
lực
mở
rộng thị
trường
của cấc doanh

nghiệp xuất
nhập khẩu
Việt
Nam.
Các
loại
hình
bảo hiểm
dành
cho
các
rủi
ro
nói
trên
đã được
nhiều
công
ty
bảo
hiểm
lớn
trên
thế
giới
xây
dựng
và phát
triển
từ

vài
thập
kỷ trước đây.
Chính
phủ
nhiều
nước
trên
thế
giới
cũng
đã có
những
động
thái tích
cực
nhữm
khuyến
khích các
sản
phẩm bảo
hiểm
mới
này,
với
hy
vọng phần
nào hỗ
trợ
cấc

doanh
nghiệp xuất
nhập khẩu vượt
qua khó khăn
khi
đưa hàng hóa xâm
nhập
vào
thị
trường
toàn
cầu.
Đứng
trước nhu cầu
đối
phó
với
các
rủi
ro
trong
xuất
nhập khẩu
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam và nhu cầu tìm
ra

các cách
thức
mới để Chính
phủ
Việt
Nam hỗ
trợ hoạt
động
xuất
nhập
khẩu,
em đã
tập
trung
tìm
hiểu
những
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu
đã được
triển
khai
trên
thế
giới

xem xét

khả
năng áp
dụng
các
loại
hình này
tại
Việt
Nam. Em
xin
được trình
bày
nội
dung

kết
quả nghiên cứu
của
mình
trong
Khoa
luận
"Một
số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu


khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam".
-Ì-
Một số
loại
hình
bảo hiểm
xuất
nhập khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
2.
Mục đích nghiên cứu
Giới
thiệu
những
vấn đề cơ bản về bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu,

trình bày

chế vận
hành của các
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu,
thực trạng
và xu
hướng
áp
dụng
các
loại
hình này
tại
các
quốc
gia
trên
thế
giới.
Dựa trên cơ sở

luận
cùng
với những

bài hợc
kinh
nghiệm
từ các
nước,
khóa
luận
đề ra
những
kiến
nghị
cho
việc
áp
dụng
các
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu
tại
Việt
Nam.
3.
Nhiệm
vụ nghiên cứu
Để đạt
được
những

mục đích
trên,
đề
tài

những nhiệm
vụ cụ
thể
như
sau:
Thứ
nhất,
làm rõ khái
niệm
nội
hàm về bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu
Thứ
hai,
phân tích cơ chế
hoạt
động của các
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu
Thứ

ba,
trình bày
kinh
nghiệm của
các nước trên
thế
giới
trong lĩnh
vực
bảo hiểm
xuất
nhập khẩu
Thứ
tư,
xem xét và đề
ra kiến
nghị
cho khả năng áp
dụng
các
loại
hình
bảo hiểm
xuất
nhập khẩu
mới
tại
Việt
Nam.
4. Đôi

tượng
và phạm
vi
nghiên cứu
Những

tả
đặc
điểm
sản
phẩm và cơ
chế vận
hành các sản phẩm bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu
tại
một số công
ty
bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu
trên
thế
giới,

thực trạng
áp
dụng

bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu
trên
thế
giới

Việt
Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài
nghiên cứu dựa trên phương pháp
luận
của
chủ
nghĩa
Mác Lênin
về
duy
vật
biện
chứng
và duy
vật
lịch
sử,
các
quan
điểm

của
Đảng
và nhà
nước
ta
về phát
triển
kinh tế
để phân tích
đối tượng
nghiên
cứu.
Ngoài
ra
đề
tài cũng
sử
dụng những
phương pháp như:
• Thu
thập

tổng
hợp
tài
liệu
«
Thống
kê hợc đơn
giản

và phân tích so sánh
-2-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
6. Kết câu của khóa
luận tốt
nghiệp
Khoa
luận
được
chia
làm 3 chương:
o Chương
ì:
Những vấn đề
chung
về
rủi
ro và bảo

hiểm
xuất
nhập
khẩu
o Chương
li:
Một
số
loại
hình
bảo hiểm
xuất
nhập khẩu
o Chương
HI:
Kinh
nghiệm
của các nước và khả năng áp
dụng
các
loại
hình
bảo hiểm
xuất
nhập khẩu mới

Việt
Nam
Em
xin

chân thành cảm ơn
Tiến
sĩ Trịnh
Thị Thu Hương đã
tận
tình
giúp đ em
trong việc
hoàn thành
khoa
luận
này.
Hà Nội, ngày 5 tháng li năm 2005
Sinh
viên
Lê Rẩm Nhung
Một số
loại
hình
bảo hiểm
xuất
nhập
khẩu và khả
năng
áp
dụng
tại
Việt
Nam
BẢNG

CHỮ CÁI VIẾT TẮT
L/C : Thư
tín
dụng
(Letter
of
credit)
TÍT : Chuyển
tiền
bằng
điện
(Telegraphic
transíer)
D/A : Chứng
từ
khi
chấp
nhận
(Documents
against
acceptance)
D/P : Chứng
từ
khi trả tiền
(Documents
against
payment)
O/A : Thanh toán
bằng
phương

thức ghi
sổ
(Open
account)
Coíace Cõng
ty
bảo
hiểm
ngoại
thương Pháp
CIF
: Điều
kiện

sở
giao
hàng
Incoterms "Tiền
hàng + bảo
hiểm
+ cước"
CIP
: Điều
kiện

sở
giao
hàng
Incoterms
"Cước và bảo

hiểm
trả tới
đích"
APS : Bảo
hiểm
thâm dò
thợ
trường
giản
đơn
(l'Assurance Prospection
Simpliíiée)
APN : Bảo
hiểm
thăm dò
thợ
trường thông thường
(l'Assurance Prospection
Normale)
NEGO
: Bảo
hiểm
rủi
ro
hối
đoái thương lượng
NEGO+
: Bảo
hiểm
rủi

ro
hối
đoái thương lượng có
tham
gia chia
lãi
CIME
: Bảo
hiểm
rủi
ro
hối
đoái
xuất
nhập
khẩu
thông thường
(change
import
export)
4
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu

khả

năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
CHƯƠNG
ì
NHŨtoG VẤN ĐỂ CHUNG VE RỦI RO VÀ
BẢO
HIỂM
XUẤT NHẬP KHAU
ì. Rủi ro
trong
kinh
doanh
xuất
nhập
khẩu
1. Khái niệm
rủi
ro
Thế
giói
xung
quanh
chúng
ta
luôn
chứa
đựng

những
yếu
tố,
những
sự
kiện bất
lợi,
những
nguy
hiểm,
bất
trắc,
những
rủi ro.
Trong
cuộc
sống

trong kinh
doanh,
con
ngưịi
luôn
phải
đối
mặt
với rủi ro. Khi ra
quyết
định,
con

nguôi luôn
phải
cân
nhắc
về
những
rủi
ro

thể
xảy
ra.
Vậy
rủi
ro
là gì?
Sau
đây

một
số
định
nghĩa
về
rủi
ro:
Rủi ro là
sự
bất
trắc


thể
đo lưịng được
1
.
Rủi ro là bất
trắc
cụ
thể
liên
quan
đến một
biến
cố không mong
đợi
2
.
Rủi ro là
sự
bất
trắc
gây
ra
mất mát
thiệt
hại
3
.
Rủi
ro là một

hiện
tượng khách
quan,
liên
quan
đến
và có
thể
ảnh
hưởng
tới
mục
tiêu do con
ngưịi
vạch
ra

con
ngưịi

thể
thấy
được các
hiện
tượng khách
quan
đó
nhưng
lại
không lượng hóa được


sẽ xảy
ra
lúc
nào,
ở đâu và mức độ
thiệt
hại
thực
sự đối với
mục
tiêu
đó
4
.
Rủi ro

những
tai
họa,
tai
nạn,
sự cố
bất ngị,
ngẫu
nhiên xảy
ra,
gây
thiệt
hại

về
ngưịi

tài
sàn
trong
cuộc
sống
hàng ngày

trong
hoạt
động
kinh tế của con
ngưịi
5
.
Như
vậy, tựu
chung
lại

thể hiểu
rủi
ro là
những
sự kiện tồn
tại
khách
quan,


tính
bất
định

khi
xảy
ra
sẽ
gây
tổn
thất.
Đó

những
sự
kiện
ngưịi
ta
không
thể
lưịng trước một cách
chắc
chắn.
Mọi
rủi
ro
đều
là bất ngị,
cho


mức
độ
bất
ngị có
thể
khác
nhau.
Một
sự kiện ta
biết
chắc
chắn
sẽ
xảy
1
"Risk
managcment",
tr.
23
Frank
Knight,
Prentice
Han, 1998
2
"Risk
and
insurance",
McGraw-Hill,
1995

3
"Phương pháp
mạo
hiếm
và phòng
ngừa
rủi
ro trong kinh
doanh",
Nguyễn Hữu
Thản,
NXB
Thông
tin,
1991.
*
"Thị
trưịng
chứng
khoán",
NXB
Giáo
dục,
1998.
5
Tr. 7,
"Bảo
hiếm
trong kinh
doanh",

Nhà
xuất
bán
khoa
học và kỹ
thuật,
2002
-ố-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
ra
thì không được
coi

rủi
ro.
Và nếu sự
kiện
đó không gây

ra
tổn
thất
thì
cũng
không
gọi

rủi ro.
Khi
rủi
ro
xảy
ra
sẽ gây
ra
tổn
thất
cho con
người,
dù mịc độ nghiêm
trọng
của
tổn
thất

thể
khác
nhau.
Nhà

kinh
doanh
luôn
phải đối
mặt vói các
rủi ro.
Thậm
chí,
trên
thực
tế,

thể
nói,
trừ khi

vị
thế
độc
quyền,
nhà
kinh
doanh
sẽ
thu
được càng
nhiều
lợi
nhuận
nếu họ

phải
đối
mặt vái càng
nhiều rủi ro. Kinh
doanh

những
ngành
rủi
ro
thấp
thì
lợi
nhuận
sẽ
ít
hơn.
Câu
ngạn
ngữ Anh
"Nothing
ventures, nothing gains"

thể
được
hiểu
là nếu không
đối
mặt
với

rủi
ro
thì
cũng
không
thu
được
kết
quả
gì.
Trong
kinh
doanh,
nhà
kinh
doanh
phải đối
mặt
với
những
nhóm
rủi
ro
chính
sau:
Rủi
ro về
kinh
tế:
Mặt hàng sản

xuất
ra
không được
thị
trường
chấp
nhận
dẫn đến
thua
lỗ,
thậm
chí phá
sản;
bị
lừa đảo;
lạm
phát
Rủi
ro
về chính
trị:
Trong
bối
cảnh
chính
trị
biến
động như
chiến tranh,
nội

chiến,
bạo
động,
nhà
xưởng
và hàng hóa có
thể
bị chính
quyền
tịch thu,
quốc
hữu hóa
Rủi
ro
về
luật
pháp:
Đó

sự
thay đổi
quy định của pháp
luật,
ví dụ sự
thay đổi
luật
pháp về ngành
nghề
được phép
kinh

doanh,
thay đổi
mịc
thuế

ràng,
khi
một
doanh
nghiệp
đã đầu tư máy móc và nhân
lực,
chuẩn
bị sản
xuất
nếu có một quy định mới cấm
sản
xuất
sản
phẩm đó
thì doanh
nghiệp
đó
sẽ
gặp khó
khăn,
thậm
chí phá
sản.
Cũng như

vậy,
một sự
thay đổi
mịc
thuế
sẽ
làm cho
mọi
tính toán
tài
chính về giá
thành,
giá bán
của doanh
nghiệp
trở
nên
sai
lầm.
Rủi ro
về công
nghệ:
sản phẩm
sản
xuất ra
không
theo
kịp
tiến
bộ công

nghệ,
bị
đào
thải
2.
Khái
niệm

thực
tế
rủi
ro trong kinh
doanh
xuất
nhập khẩu
Những nhà
kinh
doanh

tham
gia
vào
xuất
nhập khẩu
phải
đối
mặt
vói không
chỉ những
rủi

ro
mà nhà
kinh
doanh
thông thường
phải đối
mạt mà
nhiều
rủi
ro
khác nữa
với tẩn suất cao.
Đó

bởi
vì:
Thứ
nhất,
rủi
ro
trong
hoạt
động
xuất
nhập khẩu
gắn
liền
với
những
-7-

Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
biến
cố
trong
khu vực và trên
thế
giới
về
tự
nhiên,
chính
trị,
tài
chính Xuất
nhập khẩu
khó có
thể
được

thực hiện
nếu
thiếu
việc
vận chuyển
hàng hóa
giữa
các
quốc
gia.
Trong
quá trình
vận chuyển
ấy,
hàng hóa
phải
đi qua
nhiều
khu
vực
thời
tiết
khác
nhau

chịu
nhiều
nguy
cơ thiên
tai.

Hàng hóa đi qua các
nước
còn
phải
chịu những
biến
động chính
trị
như
khứng bố,
bạo
động,
nổi
loạn,
chiến
tranh
Loại
rứi
ro
này khó đoán trước được và gây
tổn
thất
to lớn.
Tháng 8 năm
1990,
khi
Irắc
tấn
công Cô-oét
cũng


khi nhiều
nhà
xuất
khẩu
đã
xuất
hàng
sang
Cô-oét điêu đứng
bởi
lẽ
gười
mua
sau
khi
nhận
hàng đã
lợi
dụng cảnh
rối
ren
cứa
chiến tranh
đã bò
trốn
đi cùng
hàng.
Tương
tự,

khi
Liên

tan rã,
150 nhóm
nổi loạn
đã
chiếm
giữ
40.000
công
ty
cứa
Nga
trong
đó
có hàng trăm ngân hàng thương
mại.
Khả năng được
thanh
toán
bởi người
mua hay
bởi
ngân hàng
khi
đó

rất
thấp.

Bên
cạnh đó,
giá cả hàng hóa
xuất
nhập khẩu chịu sự
chi
phối
cứa những
nhân
tố
mang
tính toàn
cầu.
Thứ
hai,
hoạt
động
xuất
nhập khẩu
còn bị
điều chỉnh
bởi
luật
quốc
tế,
tập
quán thương mại
quốc
tế,
quy

tắc thanh
toán
quốc
tế.
Khi tham
gia xuất
nhập
khẩu,
nhà
kinh
doanh
phải
nám rõ
Incoterms
cùng các
tập
quán thương
mại quốc
tế
khác,
phải
biết
sử
dụng những
phương
thức thanh
toán
quốc
tế


phải hiếu
biết
về
những
quy
tắc chi phối
những
phương
thức
này. Hợp đổng
mà nguôi mua và
người
bán ký là hợp đồng mua bán
quốc
tế
hàng hóa nên
chịu
sự
điểu chỉnh cứa
nhiều
nước và
cứa
luật
pháp
quốc
tế.
Thứ
ba,
nhà
xuất

khẩu
còn
phải
va chạm
với
những
khác
biệt
về ngôn
ngữ,
văn hóa Khi
người
mua và
người
bán không nói
chung
một ngôn ngữ
thì
họ
chịu
rứi
ro
Những khác
biệt
về văn
hóa,
nếu
hai
bên không có
hiểu

biết
sâu
sắc,
cũng
dẫn đến khó khăn
trong
đàm
phán,
thương
lượng. Rứi ro
về văn
hóa có
thể
xảy
ra
rất
đa
dạng.

thể
minh
họa
rứi
ro
về vãn hóa
bằng
một sự
việc
xảy
ra

năm
1993.
Năm
đó,
rất
nhiều
nhà
xuất
khẩu
đã
thu
mua một
loại
giầy
nhung,
đế
nhựa sản
xuất
tại
Trung
Quốc có nhãn
hiệu
là "Năm con dê"
để
xuất
khẩu sang
Á Rập Xê út

mặt hàng này
rất

được ưa
chuộng
tại
quốc
gia
này.
Thòi
gian
đầu,
mọi
chuyện
diễn ra
tốt
đẹp.
Cấc nhà
xuất
khẩu
vẫn ùn
ùn
xuất
hàng đến Ả Rập Xê
út. Đột
nhiên,
chính phứ Ả Rập Xé út
ra
lệnh
-8-
Một số
loại
hình bảo

hiểm
xuất
nhập
khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
cấm
ngay
lập tức
việc
nhập
khẩu
cũng
như
việc
bán mặt hàng
này.
Rất
nhiều
nhà
xuất
khẩu
chịu
tổn
thất


hàng
của
họ đang trên
đưầng
đến Ả Rập Xê út
hoặc
đã đến
cảng
rồi.
Nguyên nhân nhãn
hiệu
này
đột
nhiên
bị
cấm
là vì
hình
thiết
kế trên đế
giầy
trông
giống từ
"Allah" trong tiếng
Ả Rập, do đó Chính
phủ
Á Rập Xê Út
coi
việc

đi
đôi giày này
giống
như
giẫm
lên
Thẩn
Allah
linh
thiêng
của họ
6
.
Như
vậy,

thể
đưa
ra
định
nghĩa:
Rủi ro xuất khẩu

những
biến
cố
không mong
đợi,

thể xảy

ra
trong
quá
trình
xuất nhập
khẩu,
làm giảm
hiệu
quả
kinh
doanh
xuất
nhập khẩu.
Sau
đây là phân tích
những
rủi
ro mà các nhà
kinh
doanh
xuất
nhập
khẩu

thể
gặp
trong
suốt
quá trình
xuất

nhập
khẩu.
2.1. Rủi ro
trong
giai
đoạn
tìm
kiếm
khách hàng:
Việc tổ
chức
thăm dò
thị
trưầng
rất
tốn
kém
song
lượng
khách hàng có
được
sau khi
thâm
nhập

thể
không
xứng
đáng
với chi phí

đã bỏ
ra.
Nhà
xuất
nhập
khẩu
tìm được khách hàng nhưng
thực chất
đây là
những
công
ty
có âm mưu
lừa đảo. Tinh
huống
này
rất
dễ xảy
ra
trong
xuất
nhập
khẩu

trụ
sở của
ngưầi
mua và
ngưầi
bán ở

rất
xa
nhau.
Do đó nhà
xuất
khẩu
không có
điều
kiện
tìm
hiểu
kỹ về nhà
nhập
khẩu.
Thương mại
điện
tử
phát
triển
tạo
điều
kiện
cho các nhà
xuất
nhập
khẩu
gặp
nhau
dề dàng hơn
nhưng mặt trái của nó là khả năng đánh giá đúng độ

tin
cậy của khách hàng
trở
nên
mong
manh.
2.2. Rủi ro sau khi

kết
hợp đồng
Rủi
ro
tự
nhiên:
Hàng hóa đi
biển
dài ngày, gặp
điều
kiện
tự
nhiên
khó khàn có
thể
bị
giảm
sút về số
lượng

chất
lượng.

Hàng có
thể
bị sóng
đánh rơi
xuống
biển,
bị mốc, ẩm ướt Đặc
biệt,
sóng
thần,
bão có
thể
đánh
lật
thuyền
làm mất mát toàn bộ lô
hàng.
Nhà
xuất
khẩu
sẽ
không
thể
đáp ứng
đúng yêu cầu về số
lượng,
chất
lượng
như
trong

hợp
đổng.
Một vận đơn
không
sạch
sẽ cản
trở
việc
nhà
xuất
khẩu
nhận
được
thanh
toán
tiền
hàng.
6

-9-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu

khả
năng áp

dụng
tại
Việt
Nam
Người
mua có
thể
dựa trên lý do có sự khác
biệt
về số lượng và
chất
lượng để
đòi
giảm
giá
xuống
rất
thấp
hoặc
tệ
hơn cả là
từ chối
nhận
toàn bộ lô hàng.
Đây là
những
rới
ro

tỷ lệ

xảy
ra
cao
bởi
quãng đường vận
chuyển
đường
biển
đài và luôn
phải đối
mặt
với
những
biến
động cớa
tự
nhiên.
Đây
cũng
chính là
lo ngại lớn nhất đối
vói mỗi nhà
xuất
khẩu.
Rới
ro trong
quá trình
vận
chuyển
kể trên còn làm nhà

xuất
khẩu
đôi
khi
buộc
phải từ chối
những
khách hàng ở quá
xa.
Tuy nhiên, nếu dùng
biện
pháp này, nhà
xuất
khẩu
không
phải
chịu
rới
ro vận
chuyển
nhưng đồng
thời
cũng
không mở
rộng
được
thị
trường,
không
thu

được
lợi
nhuận
từ
những
người
mua
tiềm
năng.
Rới
ro do chính sách
ngoại
thương
thay đổi:
Chính sách
ngoại
thương là hệ
thống
các nguyên
tắc,
các
biện
pháp
kinh
tế,
hành
chính,
luật
pháp nhằm
thực hiện

điều
tiết
các
hoạt
động mua bán
quốc
tế cớa
một Nhà
nước
trong
một
giai
đoạn
nhất
định.
Trong
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
do sự
thay
đổi
chính sách
ngoại
thương,
doanh
nghiệp


thể
gặp
nhiều
rới
ro
khác
nhau
nhưng cơ
bản nhất vẫn là
những
rới
ro trong
quy định về hạn
ngạch,
thớ
tục
hải
quan,
thuế xuất
nhập
khẩu
và các quy định hành chính
khác.
Sau đây

một
số
trường
hợp:
+ Nước

nhập
khẩu
có quy định mới cấm
nhập
loại
hàng hóa đó. Vụ
việc
xuất
khẩu
giày
sang
Á Rập Xê út ờ
trẽn
chính

một

dụ
điển
hình.
+ Do căng
thẳng
chính
trị,
nước
nhập
khẩu

thể
cấm vận không cho

phép
nhập
hàng hóa
từ
nước
xuất
khẩu,
thậm
chí tịch
thu,
nắm
giữ
hàng hóa.
+
Khi

khớng
hoảng
tài
chính
trong
nước hay khu
vực,
chính phớ có
thể
ban hành
lệnh
cấm
chuyển
ngoại tệ

mạnh
ra
nước ngoài. Như
vậy,
nếu
hợp
đồng được ký vói đồng
tiền
thanh
toán là một
ngoại tệ
mạnh,
nhà
xuất
khẩu
gập
rới
ro
hàng đã đến
cảng

thể giao
hàng nhưng sẽ không
thể
nhận
được
tiền
thanh
toán do
người

mua không
thể
chuyển
tiền
thanh
toán cho
mình.
ơ các
quốc
gia
Ghana,
Sierra
Leon,
Zambia,
chính phớ đã
từng
hạn chế
chuyển
ngoại tệ ra
nước ngoài
trong lo
năm.
Mười
năm
sau, khi cấc
nhà
nhập
khẩu
nhận
được

khoản
tiền
thanh
toán thì giá
trị
cớa
tiền
khi
đó đã
giảm
tới
-10-
Một
số
loại
hình
bảo hiểm
xuất
nhập
khẩu
và khả
năng
áp dụng
tại
Việt
Nam
một nửa
7
.
+ Rủi ro do quy định về hạn

ngạch.
Năm
1970, quần
váy bò là sản
phẩm hợp
thời
trang
và được ưa
chuộng
tại
châu Âu. Các nhà
xuất
khẩu
không
chớc chớn
được mặt hàng này được
coi

quần
hay là váy nhưng vì
việc
có hạn
ngạch
xuất
váy dễ hơn hạn
ngạch
xuất
quần
nên
nhiều

nhà
xuất
khẩu
đã
xuất
mặt hàng này
dưới
tên
váy.
Tuy
nhiên,
khi
hàng đến
cảng, hải
quan
ở nước
nhập
đã xem xét và
coi
mặt hàng này
là quẩn. Trong
khi
đó,
nhà
xuất
khẩu
lại
đang không có hạn
ngạch
để

xuất
quần
nên hàng không
thể
được
giải
phóng
8
.
Rủi
ro
do mất
cáp:
Đây tưởng
chừng
như
chỉ
là một
rủi
ro nhỏ, song
hậu
quả của
việc
bị mất cớp là nhà
xuất
khẩu
không
thể
có vận đơn
sạch

vái
số
lượng
ghi
trên hợp đồng và thư
tín dụng.
Hơn
nữa,
hiện
nay tình
trạng
bị
mất
cáp
rất
phổ
biến,
thủ
đoạn ăn cớp
trờ
nên
tinh
vi
hơn,
kẻ
gian

thể lấy
cớp
nguyên một

container.
Trong
khi
đó,
loại rủi
ro
này
rất
khó có
thể
được
kiểm
soát
chặt
chẽ.
Rủi
ro
do đình công
tại
cảng nhập:
Chính vì
rủi
ro
này nên nhà
xuất
khẩu
không
thể
giao
hàng đúng

thời
hạn.
Hơn
nữa, khi
có bạo
động,
đình
công ờ
cảng, người
đình công có
thể
lên
tàu,
đập phá và cướp
hàng.
Tổn
thất
mà nhà
xuất
khẩu
phải
chịu là
không
thể giao
hàng đúng
theo
hợp đồng.
2.3. Rủi ro sau
giao
hàng

Rủi
ro
lạm
phát:
Lại nhuận đạt
được do
xuất
khẩu
không
thể
bù đớp
mức độ lạm phát
trong
nước.
Từ
khi giao
hàng
tới
khi
được
thanh
toán là một
khoảng
thời
gian
thường
từ Ì
đến 3 tháng nên nếu lạm phát cao
thì
lợi

nhuận
kỳ
vọng sẽ giảm xuống

rệt.
Rủi
ro
hôi
đoái:
Rủi ro
hối
đoái là sự không
chớc chớn
về giá
trị
của
một khoản thu nhập
hay
chi trả
do sự
biến
động
tỷ
giá gây
nên,

thể
ảnh
hưởng
xấu đến giá

trị
dự
kiến
của họp
đồng.

hai
loại rủi
ro
hối
đoái.
Thứ
nhất
là do sự
sụt
giá của
ngoại
tệ
mà nhà
xuất
khẩu
dùng để
lập
hóa đơn
7

8

-li-
Một số

loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
thanh
toán hợp đổng
xuất
khẩu.
Thứ
hai

do
ngoại tệ
mà nhà
xuất
khẩu chọn
lựa
để
thanh
toán tăng
giá,
như

vậy
ảnh hưởng
tắi
việc
tiêu
thụ
sản
phẩm của
nhà
xuất
khẩu
bởi
giá
sản
phẩm
sẽ
trờ
nên
đắt
hơn.
Rủi
ro do
biến
động giá cả trên
thị
trường,
cụ
thể
là giá
thu

mua
hàng hóa và giá
xuất
khẩu:
Nếu giá
thu
mua
giảm,
nhà
xuất
khẩu
mất cơ
hội
tăng
lợi
nhuận

bị
đe dọa
bởi
sự
giảm
giá của các
doanh
nghiệp
cạnh
tranh.
Nếu giá
xuất
khẩu

tăng,
nhà
xuất
khẩu
mất cơ
hội
tối
đa hóa
lợi
nhuận
do đã

thể
ký hợp đồng
vắi
giá cao
hơn.
Một
rủi
ro
nữa là
doanh
nghiệp
ký hợp
đồng
vắi
giá
thấp
sau đó mắi
thu

gom hàng
hóa,
thì giá
thế
giắi
tăng,
giá cả
trong
nưắc tăng
theo,
khiến
doanh
nghiệp thua
lỗ.
Rủi
ro
trong
thanh
toán:
Hiện nay,

nhiều
phương
thức thanh
toán
trong
ngoại
thương:
trả tiền
trực

tiếp,
chuyển
tiền,
nhờ
thu,
hàng
đổi
hàng,
tín
dụng chứng
từ Trong
nhờ
thu,
nhà
xuất
khẩu chịu
rủi
ro người
mua
từ
chối
nhặn
hàng, không
nhận chứng
từ và không
thanh
toán. Vắi phương
thức
chuyển
tiền

TÍT, người nhập khẩu
nếu
trả
tiền
trưắc
chịu
rủi
ro
không
nhận
được
hàng,
nhận
thiếu
hàng
hoặc
hàng
chất
lượng kém. Nếu
điện chuyển
tiền
trả
ngay hoặc
trả
sau,
nhà
xuất
khẩu chịu
rủi
ro người

mua mất khả năng
chi
trả,
thanh
toán chậm
hoặc thậm
chí
từ
chối
nhận
hàng do giá cả
thị
trường
đang
giảm.
Phương
thức thanh
toán
bằng
L/C là phương
thức
phổ
biến
và an toàn
nhất
hiện
này
song
vẫn chưa
loại

trừ
hết
rủi
ro.
Trưắc
hết

rủi
ro
đối vắi
người
nhập khẩu.
Ngân hàng
tiến
hành
trả tiền
cho
người
hưởng
lợi
dựa trên
các
chứng
từ
xuất
trình mà không dựa vào
kiểm
tra
hàng hóa. Ngân hàng
không

chịu
trách
nhiệm
về tính xác
thực
của
các
chứng
từ,
về
số
lượng

chất
lượng
hàng được
giao.
Do
vậy,
nếu có sự
giả
mạo,
xuất
trình
chứng
từ giả
để
được
thanh
toán

thì người
mua
phải
trả lại
số
tiền
ngân hàng phát hành thư
tín
dụng
đã
trả
cho
người
hưởng
lợi.
Khi cần
thiết
có sự
thay
đổi
trong
điều
khoản
hợp
đồng,
người
mua
phải
sửa
đổi

các
điều khoản
trong
L/C. Như vậy
thời
gian giao
hàng có
thể
bị
chậm
trễ
hơn và nhà
nhập khẩu
phải
chịu
phí sửa
đổi
L/C.
-12-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu

khả
năng áp
dụng
tại

Việt
Nam
Rủi
ro
đối với
người
xuất
khẩu

việc
thu thập
các
chứng từ
quy định
phải
xuất
trình quá khó khăn
hoỉc
không
thể thực
hiện
được;
Ngân hàng phát
hành L/C có
thể
không
thực
hiện
đúng cam
kết

trong
thanh
toán
với
người
bán.
Rủi
ro
trong
quá trình mua bảo
hiểm: Nhiều doanh
nghiệp
mới chỉ
mua bảo
hiểm
do
tín dụng
thư yêu cầu
chứ
chưa
thực
sự
có ý
thức
hạn
chế
rủi
ro
nên còn chưa dành sự
quan

tâm thích đáng cho
việc
chọn lựa
hãng bảo
hiểm
hay
điều
kiện
bảo
hiểm
phù
hợp.
Nếu nhà
xuất
nhập khẩu
không mua
bảo hiểm
ở một hãng uy
tín,

tiềm
lực
tài
chính
mạnh

chắc chắn thì
khi
gỉp
rủi

ro
sẽ gỉp
khó khăn
trong việc
đòi
tiền
bồi
thường.
3. Các
biện
pháp
quản

rủi
ro
trong kinh
doanh
xuất
nhập khẩu
Rủi
ro luôn
tồn
tại
trong
quá trình
kinh
doanh
nên
từ lâu,
các

doanh
nghiệp
đã luôn tìm các
biện
pháp để
quản

rủi
ro.
Chúng
ta

thể
phân
loại
theo
cách
sau:
3.1.
Tránh
rủi
ro
Biện
pháp tránh
rủi
ro

thể
được
thực

hiện
bằng
cách tránh toàn bộ
rủi
ro
hay
chỉ
tránh một
phẩn
rủi ro.
Tránh toàn bộ
rủi
ro

thể
được ví dụ
bởi
một nhà
kinh
doanh
không
tham
gia
vào
hoạt
động
xuất
nhập khẩu
để có
thể

tránh mọi
rủi
ro
trong
quá trình
xuất
nhập khẩu.
Tất nhiên, nhà
kinh
doanh
này sẽ không
thể thu
lợi
nhuận
nào
từ
việc
xuất
nhập
khẩu.
Nhà
kinh
doanh
hài lòng
với thị
trường
trong
nước để tránh mọi
phiền
toái,

rủi
ro
khi
xuất
nhập khẩu song
lại
mất đi một cơ
hội
rất
lớn
để mở
rộng
thị
trường,
mở
rộng
sản
xuất,
thu
được
nhiều
lợi
nhuận
và phát
triển
công
việc kinh
doanh
lên một tẩm cao
mới.

Việc
tránh
rủi
ro
một
phần

thể
được ví dụ
bởi
một
nhà
xuất
nhập khẩu
luôn cố
gắng chọn
khách hàng có mức độ uy tín
rất
cao,
đến từ những
nước có nên chính
trị,
kinh
tế
rất
ổn
định. Trong
trường hợp
này, nhà
xuất

khẩu
có khả năng được
thanh
toán
cao.
Tuy
nhiên,
bởi
đây là
những
khách hàng
lớn,
số lượng
hạn
chế,
nhà
xuất
nhập khẩu
phải đối
mỉt
với
sự
cạnh
tranh
khá
khắc
nghiệt.
Một
biện
pháp tránh

rủi
ro
khác
trong
thanh
toán

đòi
thanh
toán
bằng
tiền
mỉt
ngay
khi
người
mua
nhận
hàng.
-13-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu

khả
năng áp
dụng

tại
Việt
Nam
Tuy
nhiên,
trong
môi trường
cạnh
tranh,
đối thủ
sẵn
sàng chào giá
thấp
hơn,
đưa
ra những
phương
thức

lợi
hơn cho
người
mua thì nhà
xuất
khẩu
rất
khó sổ
dụng
biện
pháp

quản

rủi
ro trên nếu không
muốn
mất khách
hàng.

Việt
Nam, các nhà
xuất
khẩu

nhập khẩu
luôn tránh
phẩn
thuê tàu
cho
khách
hàng,
để tránh
những
phiền
phức song
thực chất
đã làm mất đi cơ
hội
nhận
được hoa
hổng

thuê
tàu.
Tóm
lại,
tránh
rủi
ro
là một
biện
pháp
rất
thụ
động,
lấy
đi của nhà
kinh
doanh

hội
thu
thêm
lợi
nhuận
và phát
triển
thị
phẩn.
3.2.
Phòng
ngừa,

ngăn
chặn
tổn
thất
Phòng
ngừa,
ngăn
chặn tổn
thất
là một
biện
pháp làm
giảm
khả năng
rủi
ro xảy
ra

giảm
mức độ
của
tổn
thất
nếu
rủi
ro

xảy
ra.
Một


dụ của
việc
làm
giảm
khả năng
rủi
ro xảy
ra

việc
kiểm
tra
thường xuyên máy bay
về
mặt kỹ
thuật.
Việc
kiểm
tra
này không làm
giảm
mức độ
tổn
thất
nhưng
làm
giảm
mức độ thường xuyên
của

việc
máy bay gặp
trục trặc
kỹ
thuật.
Còn
nỗ
lực
giảm
mức độ
của
tổn
thất

việc
lắp
đặt
hệ
thống
máy
phun
nước cảm
ứng với
khói
hoặc
độ nóng
cao,
làm
giảm tổn
thất

do cháy có
thể
gây
ra.
Ngoài
ra,

những
cách
thức
kiểm
soát
tổn
thất
để phòng
ngừa
rủi
ro
vừa để
giảm
tổn
thất.
Ví dụ
việc
kiểm
tra
độ an toàn của sản phẩm sẽ có
thể
vừa
giảm

số
trục trặc
vừa giảm
mức mức độ
thiệt
hại
do
trục trặc.
Các nhà
xuất
nhập khẩu

thể
phòng
ngừa,
ngăn
chặn tổn
thất
bàng
những
cách
sau:
Trong khâu tìm khách
hàng,
các nhà
xuất
khẩu cần
tìm
hiểu
kỹ thông

tin
về khách hàng (có
thực
sự
tổn
tại
không, có khả năng
thanh
toán không,
những lần nhập khẩu
trước đây của khách hàng có
biến
cố,
khó khăn gì
không, nền
kinh tế,
chính
trị
ờ nước
nhập khẩu
có ổn định
không ).
Những
thông
tin
này có
thể
được
thu thập
từ

báo
chí,
báo cáo hàng năm của công
ty
khách hàng, tài
liệu
từ
các
tổ chức
tín
dụng.
Nhà
xuất
khẩu
cần nghiên cứu
khả
năng và
thực tế thanh
toán của
người
mua
trong
quá khứ mà cả
những
yếu tố
ảnh
hường
đến khả năng
thanh
toán

của người
mua
trong
tương
lai
gần.
-14-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
Khi xuất
hàng,
để ngăn
ngừa
và hạn
chế tổn
thất
đến mức
thấp nhất,

nhà
xuất
khẩu
cẩn phải:
Có cách
thức
đóng gói đủ bền
vững
để bảo vệ hàng hóa
trong suốt
quá
trình
vận
chuyển
đến
cảng
cuối
cùng.
+ Nhà
xuất
khẩu
cần
quan
tâm đến đớc
điểm
riêng của hàng hóa. Hàng
hóa có
thể
đòi
hỏi

một sự bảo vệ đớc
biệt
từ
bên
trong,
ví dụ lót nệm
đối với
hàng dễ
vỡ,
chống
ẩm
đối với
hàng hóa
bị
hòng do ẩm,
chống
gỉ đối với
hàng
hóa dễ bị ôxi hóa. Hàng hóa
cũng

thể
đòi
hỏi
sự chăm sóc bên ngoài như
chống
xước sơn
đối với
ô
tô,

xe máy; tránh va đập
với
những
bộ
phận,
chi
tiết
của
máy móc làm
bằng
vật
liệu
dễ vỡ
hay
dễ
biến
dạng.
+ Nhà
xuất
khẩu
cần
chọn
đúng nguyên
liệu
bao bì có phẩm
chất
đảm bảo
(tránh tình
trạng
bìa các-tông không

tốt,
miếng
thép
bị biến
dạng,
sử
dụng
gỗ
còn
non ),
thiết
kế bao bì
cân phù hợp để đảm bảo độ
bền
+ Ký
hiệu
hàng hóa đầy đủ về
chỉ
dẫn
bốc
dỡ
(ghi
bằng
hình
hoớc
chữ
viết
(phải
bằng
cả

tiếng
nước
gửi
hàng đi và
tiếng
nước hàng
đến).
Các ký
hiệu
này
phải

ràng,
không mất màu hay
nhòe,
ghi

những
nơi dễ nhìn
+ Bao
bì phải
làm
bằng
chất
liệu
nước
xuất
hàng và nước
nhận
cho

phép.
+ Để tránh mất
cắp,
cần đóng kín
hoớc
có khe hở nhưng khe hờ nhỏ hơn
kích thước của hàng hóa, tăng cường đai
sắt,
nẹp
sắt Bao
bì cần dễ được
nhận
dạng
để dễ
kiểm
tra khi
phát
hiện hiện
tượng
trộm cấp.
Ngăn
ngừa
những
rủi
ro đối với
hàng hóa trước
khi
được xếp lên tàu
tại
cảng

bốc hàng.
Thu xếp, lựa
chọn
tàu và
người
chuyên chở để vận
chuyển
hàng. Con
tàu cần được
cung
cấp
những
trang
thiết
bị phù hợp
với
việc
bảo vệ hàng hóa
(thiết
bị xếp dỡ hàng
hiện
đại,
hệ
thống
thông gió cơ
khí,
có chỗ đớc
biệt
để
lưu

trữ
hàng hóa có giá
trị,
v.v ).
Người
chuyên chờ
cần
có đẩy đủ
kiến
thức

kinh
nghiệm
liên
quan
đến hàng
hóa, tận
tâm chu đáo chăm
lo
khả năng đi
biển
của
tàu và chăm sóc hàng hóa
Để
hạn
chế
rủi
ro
hối
đoái,

các nhà
xuất
khẩu
yêu cầu áp
dụng
điều
khoản
tỷ giá
linh
hoạt
trong
một
giới
hạn
miễn
trừ
mà các bên
thỏa thuận
-15-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu

khả
năng áp
dụng
tại

Việt
Nam
hoặc
cam
kết
sẽ cùng
chịu
một
phần
rủi
ro
khi
có sự
biến
động
tỷ giá.
Ngoài
ra,
các
biện
pháp khác có
thể
sồ
dụng
là các còng cụ như
quyền
chọn,
nghiệp
vụ
Netting,

hợp đồng
Spot,
Forward,
Futures
Các nhà
xuất
nhập khẩu
còn có
thể
xây
dựng
bộ
phận
làm công tác
ngoại
thương và chuyên trách
rủi
ro

kiến
thức
và kĩ năng
tốt.
Đây là một
biện
pháp mà các nhà
xuất
nhập khẩu
ít nhiều
đang sồ

dụng.
Tuy
nhiên,
biện
pháp này có một số hạn
chế.
Thứ
nhất,
dù nhà
xuất
nhập khẩu
đã cố
gắng hết
mình
cũng
không
thể
lường
trước và ngăn
chận
mọi
rủi
ro.

dụ,
nhà
xuất
khẩu
sẽ
không

thể
nào
thu thập
đủ thông
tin
chính xác về một khách hàng cụ
thể
ở cách mình
rất
xa, nhiều khi
ở nồa
kia
của
trái
đất.
Thứ
hai,
sồ
dụng
biện
pháp này sẽ làm tăng
chi
phí
của
nhà
xuất
khẩu (ví
dụ,
luôn
phải

thuê tàu
thật
tốt )
hoặc
không đưa
ra điều khoản
thanh
toán có
lợi
cho
người
mua
bằng
đối
thủ cạnh
tranh
(ví dụ yêu cầu
người
mua
trả
tiền
ngay hoặc
mở L/C có
bảo
lãnh )
3.3.
Tự khác
phục
rủi
ro

Để
tự
khắc phục
rủi
ro,
doanh
nghiệp
luôn dự
kiến
các
khoản
chi
như
khắc
phục,
sồa
chữa,
bồi
thường
thiệt
hại
liên
đới và
lập
một quỹ để
sồ dụng
mỗi khi

rủi
ro.

Biện
pháp này còn được
biết
đến
dưới
tên
tự
bảo
hiểm.
Hạn
chế
của
tự
bảo hiểm
là:
Doanh
nghiệp
luôn có một
phần
tiền
bị ứ đọng
trong
quỹ
tự
bảo
hiểm.
Số
tiền
này
khi

được sồ
dụng
để tái sản
xuất
thì sẽ
thu
được
lợi
nhuận lớn
hơn.
Tuy doanh
nghiệp
thành
lập
quỹ bảo
hiểm
nhưng
cũng chỉ

thể
khắc
phục
tổn
thất
ở một mức độ
nhất
định.
Khi
tổn
thất

lớn
thì
doanh
nghiệp
vẫn
chịu
ảnh
hường
xấu
từ
rủi
ro.
3.4
Chuyển
nhượng
rủi
ro
Biện
pháp
chuyển
nhượng
rủi
ro
còn được
gọi

bảo
hiểm.
Những khía
cạnh

liên
quan
đến bảo
hiểm
sẽ được trình bày ở
phần
li
về bảo
hiểm
xuất
nhập khẩu.
-16-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
li.
Bảo
hiểm
xuất

nhập
khẩu
1.
Khái
niệm và bản
chất
của bảo hiểm
Mặc dù bảo
hiểm
đã có
nguồn
gốc và
lịch
sử phát
triển
khá lâu
đời,
nhưng do tính đặc thù
của
loại
hình
dịch
vụ
này, cho
đến nay
vỹn
chưa có một
định
nghĩa
thống

nhất
về bảo
hiểm.
Theo
các chuyên
gia
bảo
hiểm,
một định
nghĩa
đầy đủ và thích hợp cho bảo
hiểm
phải
bao gồm
việc
hình thành một
quỹ
tiền
tệ (quỹ
bảo
hiểm),
sự
chuyển
nhượng
rủi
ro

phải
bao gồm cả sự
kết

hợp số đông các đơn
vị đối
tượng
riêng
lẻ,
độc
lập chịu
cùng một
rủi
ro
như
nhau
tạo
thành một nhóm.

nhiều
định
nghĩa
khác
nhau
về bảo
hiểm.
Theo
Dennis
Kessler,
"báo hiểm

sự đóng góp của số
đông
vào sự

bất
hạnh của số
ít".
Còn
theo
Monique
Gaullier,
"bảo
hiềm

một
nghiệp
vụ qua
đó,
một bên

người
được
bảo hiểm cam đoan
trả
một khoản
tiền
gọi là
phí bảo hiểm
thực hiện
mong
muốn để
cho
mình hoặc để
cho

người
thứ
ba
trong trường
hợp xảy ra
rủi
ro
sẽ
nhận được một khoản đền bù các
tịn
thất
được
trả bởi
một bên
khác:
đó là
người
bảo
hiểm.
Người bảo hiểm nhận
trách
nhiệm
đối với
toàn
bộ
rủi
ro và
đèn bù
các
thiệt

hại
theo
các
phương pháp của
thống
kê."
Các định
nghĩa
trên
hoặc
quá thiên về góc độ xã
hội,
hoặc
quá thiên về
góc độ
kinh
tế,

thuật,
ít
nhiều
cũng
còn
thiếu
sót,
chưa
phải
là một khái
niệm
bao

quát,
hoàn
chỉnh.
Nói một cách chính
xác,
bảo
hiểm là
một
dịch
vụ
tài chính, dựa trên cơ sở tính toán
khoa
học,
áp
dụng
biện
pháp huy động
nhiều
người,
nhiều
đơn
vị
cùng
tham
gia
xây
dựng
quỹ bảo
hiểm
bằng

tiền
để
bồi
thường
thiệt
hại
về tài chính do tài sản
hoặc
tính
mạng
của
người
được
bảo hiểm
gặp
phải
tai
nạn
rủi
ro bất ngờ.
Tập đoàn bảo
hiểm
AIG
(Mỹ)
định
nghĩa:
"Báo hiểm là một cơ
chế,
theo cơ chế
này,

một
người,
một doanh
nghiệp
hay một
tị
chức chuyền
nhượng
rủi
vo cho công
ty
bảo hiểm công
ty
đó sẽ
bài
thường
cho
người
được bảo hiểm các tịn
thất thuộc
phạm
vi
bảo
hiểm

phân
chia
giá
trị
thiệt

hại
giữa
tất
cả nhũng
người
được bảo
hiểm".
Theo
Luật
kinh
doanh
bảo
hiểm
của
Việt
Nam (ban hành ngày
"í HIÍVIẼN
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt

Nam
09/12/2000)
thì
"kinh
doanh bảo hiểm

hoạt động của doanh
nghiệp
bảo
hiếm nhằm mục
đích sinh
lợi,
theo
đó doanh
nghiệp
bảo hiểm chấp nhận
rủi
ro của
người
được bảo
hiềm, trên
cơ sở
bên
mua bảo hiểm đóng
phí
bảo hiểm
đê doanh
nghiệp
bảo hiềm
trả

tiền
bảo hiềm cho
người
thụ
hưởng hoặc bồi
thường
cho
người
được bảo hiểm
khi
xảy
ra sự
kiện
bảo
hiềm."
_
Tựu chung
lại,
chúng
ta

thể
định
nghĩa
bảo
hiểm
là một sự cam
kết
bồi
thường của

người
bảo
hiểm đối với người
đưổc bảo
hiểm
về
những
thiệt
hại,
mất mát của
đối
tưổng
bảo
hiểm
do một
rủi
ro
đã
thỏa thuận
gây
ra,
vói
điều
kiện
người
đưổc bảo
hiểm
đã thuê bảo
hiểm
cho

đối
tưổng
bảo
hiểm
đó
và nôp mót
khoản
tiền
gói
là phí bảohiểm
9
.
Thực
chất
của
bảo
hiểm là
việc
phân
chia
tổn
thất
của
một
hoặc
một số
người ra
cho
tất
cả

những
người tham gia
bảo
hiểm
cùng
chịu.
Như
vậy,
mỗi
người
đưổc bảo
hiểm
sẽ
chỉ
phải
đóng một
khoản
phí bảo
hiểm
rất
nhò so vói
việc
tạo
quỹ
tự
bảo
hiểm.
Bằng sự đóng góp của số đông
người
vào một quĩ

chung,
khi

rủi
ro,
quĩ sẽ
có đủ
khả
năng
trang
trải
và bù đắp cho
những
tổn
thất
của số
ít.
Mỗi cá nhân hay đơn
vị
chi
cẩn đóng góp một
khoản
tiền
trích
từ
thu
nhập
cho các công
ty
bảo

hiểm. Khi tham
gia
một
nghiệp
vụ bảo
hiểm
nào
đó,
nếu gặp
tổn
thất
do
rủi
ro
đưổc bảo
hiểm
gây
ra,
người
đưổc bảo
hiểm
sẽ
đưổc
bổi
thường.
Khoản
tiền
bồi
thường này đưổc
lấy từ

số phí mà
tất
cả
những
người tham
gia
bảo
hiểm
đã
nộp. Tất
nhiên,
chỉ
có một số
người tham
gia
bảo
hiểm
gặp
tổn
thất,
còn
những
người
không gặp
tổn
thất
sẽ
mất không
số
phí bảo

hiểm.
Do
đó,
một
nghiệp
vụ bảo
hiểm
muốn
tiến
hành đưổc
phải

nhiều
người tham
gia,
tức là,
bảo
hiểm chỉ
hoạt
động đưổc
trẽn
cơ sờ
luật
số
đông
(the
law of
large
numbers).
Hoạt

động
kinh
doanh
bảo
hiểm
ngày nay đã
đạt
đến trình độ phát
triển
cao

nhiều
nước trên
thế
giới,
với
nhiều
loại
hình và
đối
tưổng
đưổc bảo
hiểm
ngày càng mở
rộng

phong
phú.
Tuy
nhiên,

hoạt
động bảo
hiểm
vẫn
đưổc
tiến
hành trên cơ
sở
một
số
nguyên
tắc

bản.
Đó là:
9
Trang 8,
giáo
trinh
"Bảo
hiểm
(rong
lánh
doanh",
Nhà
xuất
bản Khoa
học
và Kỹ
thuật

2002
-18-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
Nguyên tắc chỉ bảo hiểm rủi
ro,
không bảo hiểm sự chắc chắn
(ýortuity
nót
certainty)
Nguyên
tắc
này
chỉ ra rằng người
bảo
hiểm chỉ
bảo
hiểm

rủi ro,
tức

bảo hiểm sữ
cố,
tai
nạn,
tai
hoa, xảy
ra
một cách
bất ngờ, ngẫu
nhiên,
ngoài ý
muốn
của con
người
chứ không bảo
hiểm
một sữ
chắc chắn
xảy
ra,
đương
nhiên xảy
ra,
cũng
như
chỉ
bồi

thường
những
thiệt
hại,
mất mát do
rủi
ro
gây
ra
chứ không
bổi
thường cho
những
thiệt
hại
chắc chắn
xảy
ra,
đương nhiên
xảy
ra.
Như
vậy, người ta chỉ
bảo
hiểm
cho
những
gì có tính
chất
rủi

ro,
bất
ngờ,
không
lường
trước
được,
nghĩa
là không bảo
hiểm
cái gì đã xảy
ra
hoặc
chắc
chán sẽ xảy
ra.
Bởi
lẽ,
bảo
hiểm
được
thữc
hiện
chính là nhằm
khắc
phục
tổn
thất
phát
sinh

từ
những
sữ
cố,
rủi
ro
ngoài ý
muốn
cùa con
người,
những
rủi
ro
mà con
người
không
thể
hạn chế được
hoặc
chỉ hạn chế được
phần
nào. Người
ta
cũng
không bảo
hiểm
cho
những
gì đã xảy
ra,

ví dụ như
bảo hiểm cho tàu,
xe
sau
khi
tai
nạn đã
xảy
ra.
Nguyên
tác
trung thực tuyệt
đối
(utmost
good faừh)
Tất
cả các
giao
dịch
kinh
doanh
cần được
thữc
hiện
trên cơ sở
trung
thữc

tin
cậy

lẫn nhau.
Tuy
nhiên,
trong
bảo
hiểm,
điều
này được
thể
hiện
trên một nguyên
tắc
chặt
chẽ hơn,
và ràng
buộc
cao hơn về mặt trách
nhiệm.
Theo
nguyên
tắc
này,
hai
bên
trong
mối
quan
hệ bảo
hiểm (người
bào

hiểm

người
được bảo
hiểm)
phải
tuyệt
đối
trung
thữc.
Các bên
chịu
trách
nhiệm
về
tính chính xác,
trung
thữc
của thông
tin
cung
cấp cho bên
kia.
Doanh
nghiệp
bảo
hiểm
có trách
nhiệm
giữ


mật về thông
tin
do bên mua bảo
hiểm
cung cấp.
Nếu một bên
vi
phạm
thì
hợp đổng bảo
hiểm
trở
nên không có
hiệu
lữc.
Nguyên
tắc
này
thể
hiện
như
sau:
+ Người bảo hiềm
phải
công
khai
tuyên bố
những
điều

kiện,
nguyên
tắc,
thể
lệ,
giá cả bảo
hiểm
cho
người
được bảo
hiểm
biết.

dụ,
trong
bảo
hiểm
hàng
hải,
một mặt của đơn bảo
hiểm
bao gồm các
nội dung
như
điều
kiện
bảo
hiểm,
giá
trị

bảo
hiểm,
số
tiền
bảo
hiểm, tỷ
lệ
bảo
hiểm ,
mặt
kia
bao
gồm quy
tắc,
thể
lệ
bảo
hiểm của
công
ty
bảo
hiểm
có liên
quan. Khi

-19-
Một số
loại
hình bảo
hiểm

xuất
nhập
khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
hợp
đồng bảo
hiểm,
doanh
nghiệp
bảo
hiểm
có trách
nhiệm cung
cấp đầy đủ
thông
tin
liên
quan
đến hợp đồng bảo
hiểm,
giải
thích các điều
kiện,
điều

khoản
bảo
hiểm
cho bên mua bảo
hiểm. Người
bảo
hiểm
cũng
không được
nhận
bảo
hiểm
khi biết đối
tượng bảo
hiểm
đã đến nơi an toàn.
+ Người được bảo hiểm
phải
khai
báo chính xác các
chi
tiết
liên
quan
đến đối
tượng bảo
hiểm.
Họ
cũng
phải

thông báo
kặp
thời
những
thay
đổi
về
đối
tượng bảo
hiểm,
về
rủi ro,
về
những
mối đe dọa
nguy
hiểm
hay làm tăng
thêm
rủi ro
mà họ
biết
được
hoặc
đáng
lẽ
phải
biết.
Người
được bảo

hiểm
cũng
không được mua bảo
hiểm
cho
đối
tượng bảo
hiểm khi
biết
đối
tượng
bảo hiểm
khi biết đối
tượng bảo
hiểm
đó đã
bặ
tổn thất.
Sở dĩ có nguyên
tấc
này là vì
trong
giao
dặch
bảo
hiểm, người
chủ
(hoặc
người
quản

lý,
sử
dụng)

người
biết

nhất
các yếu
tố
của đối
tượng
bảo hiểm,
biết rủi
ro mình yêu cẩu bảo
hiểm,
còn
người
bảo
hiểm
thường
không
biết

rủi
ro
mà chỉ dựa vào
những
thông
tin

do
người
yêu cẩu bảo
hiểm cung
cấp để xét đoán mức độ
rủi
ro

ra
quyết
đặnh:
nhận
hay không
nhận
bảo
hiểm,
nhận
bảo
hiểm
theo
điều
kiện
như
thế
nào và
tỷ lệ
phí bảo
hiểm
bao
nhiêu

Do
đó, người
yêu cầu bảo
hiểm
có trách
nhiệm
khai
báo
mọi
yếu
tố
liên
quan
một cách đầy đủ và
trung
thực

phải
khai
báo sự phát
sinh
các
yếu
tố
quan
trọng,
có ảnh hường đến
đối
tượng được bảo
hiểm

trong
suốt
thời
gian
hợp đổng có
hiệu
lực
hoặc
khi
tái tục
hợp đồng.

dụ,
một
người
mua bảo
hiểm
thiệt
hại
do hoa
hoạn,
lụt
lội,
trộm
cấp
cho
một ngôi nhà và
biết
rằng
vùng đó

thuồng

nguy
cơ xảy ra bão
lụt
nhưng
khi
mua bảo
hiểm
lại
không
khai
báo

về điều
đó. Khi
bão đến gây
ra
thiệt
hại
cho ngôi
nhà, người
đó sẽ không được bảo
hiểm bổi
thường.
Một ví
dụ
khác là
khi
tàu,

xe đã gặp
tai
nạn,
chủ
tàu,
chủ xe mới
tham gia
bảo
hiểm
để được
bổi
thường,
bằng
cách mua bảo
hiểm ghi
lùi
lại
ngày tháng trước
tai
nạn,
hoặc
tìm cách để có hồ sơ
tai
nạn
ghi
ngày tháng xảy
ra
sau ngày mua
bảo hiểm. Trong
trường hợp

đó, người
bảo
hiểm
sau
khi biết
người
được bảo
hiểm
không
khai
báo
thật,

quyền
huy bỏ hợp đổng bảo
hiểm
hoặc
không
bổi
thường
tổn
thất
xảy
ra.
-20-
Một số
loại
hình bảo
hiểm
xuất

nhập
khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
Nguyên
tắc
quyển
lọi
có thể được bảo hiểm
(insurable interest)
Quyền
lợi

thể
được bảo
hiểm,
hay
lợi
ích bảo
hiểm, là quyển
sở
hữu,
quyền chiếm hữu, quyền
sử
dụng,

quyền tài sản; quyền,
nghĩa
vụ nuôi dưỡng,
cấp
dưỡng
đối
với
đối
tượng được bảo
hiểm.
Như
vậy, quyền
lợi

thể
được
bảo hiểm

lợi
ích
hoủc
quyển
lợi
liên
quan
đến,
gắn
liền
với,
hay phụ

thuộc
vào sự an toàn hay không an toàn của
đối
tượng bảo
hiểm. Người
nào có
quyền
lợi

thể
được bảo
hiểm
ở một
đối
tượng bảo
hiểm
nào đó có
nghĩa

quyền
lợi
của
người
đó sẽ được đảm bảo nếu
đối
tượng đó được an
toàn,

ngược
lại,

quyền
lợi
của người
đó
sẽ bị
phương
hại
nếu
đối
tượng bảo
hiểm
đó
gủp
rủi
ro.
Nói cách
khác,
người

quyền
lợi

thể
được bảo
hiểm

người
bị
thiệt
hại

về
tài
chính
khi đối
tượng bảo
hiểm
gủp
rủi
ro.
Người

quyền
lọi

thể
được bảo
hiểm

người
có một số
quan
hệ
với đối
tượng bảo
hiểm
được
pháp
luật
công
nhận.

Đó có
thể

người
chủ sở hữu của
đối
tượng bảo
hiểm đó, người chịu
trách
nhiệm
quản

tài
sản
hoủc
người
nhận
cầm cố tài
sản.
Quyền
lợi

thể
được bảo
hiểm
có ý
nghĩa
to lớn
trong
bảo

hiểm,

quyền
lợi

thể
được bảo
hiểm thì
mói được ký
kết
hợp đổng bảo
hiểm.
Khi
xảy
ra
tổn
thất,
người
được bảo
hiểm
phải

quyền
lợi

thể
được bảo
hiểm
mới
được

bổi
thường.
Nguyên
tắc
quyền
lợi

thể
được bảo
hiểm chỉ
ra rằng,
người
được bảo
hiểm
muốn
mua bảo
hiểm
phải

lợi
ích bảo
hiểm.
Quyền
lợi

thể
được
bảo hiểm

thể


quyền
lợi
đã có
hoủc
sẽ có
trong
đối
tượng bảo
hiểm.
Trong
bảo
hiểm
hàng
hải,
quyền
lợi

thể
được bảo
hiểm
không
nhất
thiết
phải

khi

kết
hợp đổng bảo

hiểm,
nhung
nhất
thiết
phải

khi
xảy
ra tổn
thất.
Nguyên
tắc bồi
thường
(indemnity)
"Bồi
thường"

thể
được
hiểu
là "sự
bảo
vệ
hoủc
đảm bảo cho
thiệt
hại
hoủc
tổn
thất

phát
sinh từ
trách
nhiệm
pháp
lý".
Mục đích
của
bảo
hiểm
chính

nhằm khôi
phục
vị trí tài
chính như
ban
đầu cho
người
được bảo
hiểm
ngay
sau
khi tổn
thất
xảy
ra.
Theo
nguyên
tắc bổi

thường,
khi

tổn
thất
xảy
ra,
người
bảo
hiểm
-21-
Một
số
loại
hình bảo
hiểm
xuất
nhập
khẩu

khả
năng áp
dụng
tại
Việt
Nam
phải
bồi
thường như
thế

nào đó để đảm bảo cho
người
được bảo
hiểm

vị
trí
tài chính như trước
khi

tổn
thất
xảy
ra,
không hơn không kém. Các bên
không được
lợi
dụng
bảo
hiểm
để
trục
lợi.
Trong
bảo
hiểm, số
tiền
bổi
thường
mà một công

ty
bảo
hiểm
trả
cho
người
được bảo
hiểm
trong
một
rỉi
ro
được
bảo hiểm
không
vượt
quá
số
tiền
bảo
hiểm,
không được
lớn
hơn
thiệt
hại thực
tế.
Người
được bảo
hiểm cũng

không
thể
được
bồi
thường
nhiều
hơn
thiệt
hại
do
tổn
thất,
không được
kiếm lòi
bằng
con đường bảo
hiểm,
tối
đa
người
được
bảo hiểm cũng
chỉ được
bồi
thường đầy đỉ, chứ không
thể
nhiều
hơn
thiệt
hại.

Nguyên
tác
thế quyên
(subrogation)
Theo
nguyên
tắc thế quyền, người
bảo
hiểm
sau
khi bổi
thường cho
người
được bảo
hiểm,

quyền
thay
mặt
người
được bảo
hiểm
để đòi
người
thứ
ba có trách
nhiệm
bồi
thường cho mình.
Tất

cả các
khoản
tiền

thể
thu
hồi
được để
giảm bớt
thiệt
hại
đều
thuộc
quyền
sở hữu cỉa
người
bảo
hiểm,
tức

người
đã
trả
tiền
bổi
thường
tổn
thất.
Khi
số

tiền
phải
bồi
thường càng
lớn
thì
việc
áp
dụng
nguyên
tấc thế
quyền
càng
quan
trọng
và có ý
nghĩa.
Thế
quyển

thể
được
thực hiện
trước
hoặc
sau
khi bổi
thường
tổn
thất.

Trong
trường hợp này,
người
bảo
hiểm
được
thay
mặt
người
được bảo
hiểm
để làm
việc
với
các bên
liên
quan.
Để
thực hiện
được nguyên
tắc
này, người
được bảo
hiểm
phải
cung
cấp các biên
bản,
giấy tờ,
chứng

từ,
thư
từ
cần
thiết
cho
người
bảo
hiểm.
Điều
cần
chú ý
là,
người
được bảo
hiểm cũng

thể
được
bổi
thường
từ
một nguồn
khác ngoài
nguồn bổi
thường
từ
công
ty
bảo

hiểm,
nhưng
trong
trường hợp
đó, bất
cứ
số
tiền
nào mà
người
được bảo
hiểm thu
được
cũng
phải
đặt
dưới
danh
nghĩa
cỉa công
ty
bảo
hiểm
đã
thực hiện
bồi
thường.
Do mối
quan
hệ

chặt
chẽ
giữa thế
quyền

bồi
thường,
một công
ty
bảo
hiểm
không
được phép
thu
nhiều
hem số
tiền
họ đã
bồi
thường.
Người
bảo
hiểm chỉ
được
thực hiện thế
quyền
ở mức độ tương đương vói số
tiền
đã
trả

hoặc
sẽ
trả.
Điều
này
cũng

nghĩa là
không
chỉ người
được bảo
hiểm
mà cả công
ty
bảo
hiểm
đều
không được phép
thu
lời
từ
việc
thực hiện
quyền cỉa
mình.
-22-

×