TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH
TE
NGOẠI
THƯƠNG
TOREI5N
UNIVERỈIIY
KHÓA
LUẬN
TÓT
NGHIỆP
<ĐỀtàí:
ĐẨU Tư
TRỰC
TIẾP
NƯỚC
NGOÀI VÀO
DU
LỊCH
VIÊT
NAM
-
THỰC TRANG VÀ
GIẢI PHÁP
Sinh
viên
thực
hiện
Lớp
Giáo viên hướng dẫn
ị ý-Hư VIỄN!
Ị tỷ ,o ũ *
NGUYỄN
THỊ
THANH
PHÁP Ì-
K40
-
KTNT
T.s TĂNG VÀN NGHĨA
HÀ NÔI
-
2005
W/ÚUẬN
TỐT
NGHIỆP
m
\/fc>HGÀNHWUỌH\>tệĩMM
MỤC LỤC
Lời
mở
đầu
3
Chương
ì:
Những vấn đề khái quát về du
lịch
và đầu tư
trực
tiếp
nước
ngoài
(FDI)
5
/ Tổng quan
vê
du
lịch
và kinh doanh du
lịch
5
Ì. Một vài khái
niệm
5
.2.
Các
loại
hình
kinh
doanh
du
lịch
7
3.
Vai trò của
ngành du
lịch trong lĩnh
vực
kinh
tế
-
xã
hội
li
//. Tổng quan
vé
FDI 15
1.
Định
nghĩa
FDI 15
2.
Phân
loại
FDI 15
3.
Tác động
của
FDI đến nước
tiếp
nhận
vợn 18
ni.
Vai
trò
và thực trạng thu hút FDI vào kinh doanh du
lịch trên
thế
• • 21
Chương
2:
FDI vào ngành Du
lịch
Việt
Nam
-
thành
tựu
và
tổn
tại
26
/ĩ. Tổng quan chung 26
Ì.
Du
lịch
Việt
Nam trước cơ
hội
mới 26
2.
FDI vào
Việt
Nam
-
17 năm nhìn
lại
(1988
-
2004)
33
//.
Thực
trạng
thu hút FDI vào ngành du
lịch Việt
Nam 39
Ì.
FDI vào ngành Du
lịch
giai
đoạn
trước
khi
ban hành
luật
đầu tư nước
ngoài
(1988)
39
2.
FDI vào ngành Du
lịch
giai
đoạn
sau
khi
ban hành
luật
đầu tư nước
ngoài
(1988)
đến năm 1996 42
3. FDI
vào ngành du
lịch
Việt
Nam
giai
đoạn
từ 1996
đến nay
(2004)
46
///.
Đánh
giá
chung 51
Ì.
Tổng
hợp FDI trên một
sợ
khía
cạnh
51
2.
Những thành
tựu đạt
dược 56
3.
Những hạn
chế
còn
tồn
tại
và nguyên nhân 61
HQWÊH
THỊ
T«w
PHÁP
I
mo
1
KHOA tUẬHlếĩNGHIỆP
m
WHQÀNHỈ>ÍIUOH\llệĩMM
Chương
3:
Định
hướng
phát
triển
và
những
giải
pháp chủ yếu
trong
thu
hút FDI vào ngành du
lịch
67
/.
Định hướng phát
triển
67
1.
Chiến
lược phát
triển
du
lịch
Việt
Nam
giai
đoạn
2001 -
2010 67
2.
Định
hướng
thu
hút
FDI:
71
//.
Một số
giải
pháp chủ yếu nhằm
thu hút
FDI
vào
du
lịch Việt
Nam 74
Ì.
Đơn
giản
hoa các
thủ tục
hành chính liên
quan
đến
hoạt
động đầu tư
vào du
lịch
74
2.
Xây
dựng
pháp
luật
chính sách liên
quan
đến đầu tư vào du
lịch
theo
hướng
đồng
bộ,
minh
bạch,
ổn
định,
thừng
nhất
76
3.
Tăng
cường
vai
trò
quản
lí của
nhà
nước,
phừi
hợp,
nâng cao
hiệu
quá
hoạt
động
của
các
cấp
các
ngành,
từng
bước
giảm
chi
phí đầu vào của
ngành du
lịch
78
4. Đẩy
mạnh
hoạt
động
vận
động,
xúc
tiến
đâu tư vào du
lịch
80
5.
Giải
pháp về quy
hoạch
vùng du
lịch trọng
điểm
81
6.
Giải
pháp về đa
dạng
hoa các
sản
phẩm du
lịch
82
7.
Giải
pháp tuyên
truyền,
quảng
bá du
lịch
84
8.
Giải
pháp
về
tăng
cường
công tác đào
tạo,
bổi
dưỡng
nguồn
nhân
lực
cho
du
lịch
85
Kết
luận
87
NGUYỄN mị THANH- PHÁP
í
mo
Ì
KHOA MẬN
lơi
NGHIỆP
LỜI
MỞ ĐẦU
Tại diễn
đàn du
lịch
ASEAN
(ATF) từ
ngày 9-
16/1/2001
ở
Brunei, Việt
Nam
đã
tạo
ra được bước
đột
phá
khi
quảng
bá du
lịch Việt
Nam đến du khách
quốc
tế với
khẩu
hiệu "Việt
Nam-
điểm
đến cùa thiên niên
ki mới". Lời
mời
gọi
đụy hấp dẫn cùng hình ảnh cô gái
Việt
Nam
với
nụ
cười
rạng
rỡ
thân
thiện
sau
vành nón lá
gợi
ấn tượng về một
đất
nước
thanh
bình,
mến khách đã đánh
dấu
bước
chuyển
mới
trong
ngành du
lịch Việt
Nam. Du
lịch Việt
Nam
khẳng
định
đã
thực
sự trưởng thành,
lớn
mạnh, có sức
khoe,
sức
trẻ,
sức vươn của
một
ngành công
nghiệp
hiện đại trong
thời
đại mới.
Đó là
kết
quả của hơn
hai
chục
năm
đổi
mới và không
ngừng
hoàn
thiện.
Trong
hơn
hai
mươi nám
qua,
du
lịch Việt
Nam đã
đạt
được
nhiều
thành
tựu rực rỡ.
Lượng khách du
lịch
quốc
tế
tăng gấp đôi
từ
năm 1995 đến năm
2004,
doanh
thu từ
du
lịch
năm 1995 là 5,652.3
tỉ
đồng thì đến năm 2004 đã
là
26,000
tỉ
đổng.
Có được
những
thành công kể trên là do sự năng
dộng,
sáng
tạo,
đón kịp
những
thời
cơ của công
cuộc
mờ của
đất
nước,
trong
đó đáng kể
nhất
là việc
đón
bắt
nguồn
đấu tư
trực
tiếp
từ
phía nước ngoài.
Ngay
từ
năm đụu tiên
khi
nước
ta
ban hành
Luật
đụu tư nước ngoài,
ngành du
lịch
đã
thu
hút được 5 dự án
với tổng
số vốn là 80.625
triệu
USD.
Tính đến
nay,
số dự án
thu
hút được là 365 dự án
với tổng
số vốn đáu tư lên
đến
97.975,54
triệu
USD. Các
doanh
nghiệp
FDI hụu
hết
đều
hoạt
động
rất
hiệu quả,
đóng góp không nhỏ vào
việc tạo ra
doanh
thu,
lợi
nhuận
chung
cùa
ngành,
tích cực nâng cao GDP của cả nước và không
ngừng
tạo
ra công ăn
việc
làm cho
người
lao
động.
Hoạt
động roi
cũng
đang làm
thay đổi
bộ mặt
các
khu,
các
tuyến
điểm
du
lịch, tạo
mới
nhiều
sản phẩm du
lịch
và tích cực
đưa văn hóa
Việt
Nam đến bạn bè
thế
giới.
Hoạt
động đụu tư FDI vào du
lịch Việt
Nam sẽ gặp
nhiều
thuận
lợi
những
cũng
phải đối
mặt không
ít
khó khăn
trong
thời
gian
tới.
Việt
Nam
hiện
NGUYỄN
THỊ
THANH- PHÁP
I
w
3
KHOA
MẬN
lổ!
NGHIỆP
m
VÀO NGÀNH
DU
LÍCH
MỆT NAM
tại
đang nằm
trong
điểm
nóng về du
lịch,
khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
nói
chung
và Đông Nam Á nói
riêng
sẽ là
điểm
hấp dẫn du khách
từ
khắp
nơi
trên
thế
giới.
Tuy
nhiên,
nguồn vốn
FDI
lại
đang
chịu
sự
cạnh
tranh
gay
gắt
từ
các nước
khác,
nhất
là các nước láng
giềng.
Bắt nhịp
cùng
với
những
trào lưu
phát
triển
đó, em đã
chọn
đề
tài:
"Đầu
tử
FDI vào
Viủt
Nam-
thực trạng
và
giải
pháp" cho bài
khoa
luận tốt
nghiủp
của mình. Bài
khoa
luận
là sự phân
tích
tổng
quát quá trình phát
triển
của
hoạt
động đầu tư nước ngoài qua gần ba
mươi năm
qua,
nêu
ra
một số thành
tựu
đạt
được
cũng
như
những
hạn
chế
còn
tổn tại
và hơn
hết
là những
giải
pháp nhằm thúc đẩy
hoạt
động roi ở
Viủt
Nam
trong
thời
gian
tới.
Để
đảm bảo
nhũng
nội
dung
trên,
bài
khoa
luận
của em được
chia
làm
ba phần:
Chương
ì:
Những vấn đề khái quát về du
lịch
và đầu tư
trực
tiếp
nước
ngoài
(FDI)
Chương
li:
FDI
vào
kinh
doanh du
lịch
ở
Viủt
Nam, thành
tựu
và
nhũng
tồn
tại
Chương
in:
Định
hướng
phát
triển
và một số
giải
pháp
chủ yếu
thúc đẩy
hoạt
động FDI vào
kinh
doanh
du
lịch
ở
Viủt
Nam
Do hạn chế về
thời
gian
và
nguồn
tài
liủu
nên bài
khoa
luận
của em
không tránh
khỏi
thiếu
sót.
Em
tha
thiết
kính
mong
thầy
cô cùng các bạn góp
ý để bài
viết
của
em được hoàn
chỉnh
hem.
Em
xin
chân thành cảm ơn
Hà
Nội,
ngày OI
tháng
li năm 2005
Sinh
viên
thực hiủn
Nguyễn Thị Thanh
MJt/VỂW THỊ
THANH-
nấp
I
mo
4
WO/Út/ẬN
TÓT
NGHIỆP
m
VẢO
NGÀNH
DU tụm
Mệĩ
NAM
CHƯƠNG ì
NHỮNG
VẤN ĐỂ KHÁI QUÁT VỀ DU
LỊCH
VÀ ĐAU
Tư
TRỰC
TIẾP
NƯỚC
NGOÀI (FDI)
ì. TỔNG QUAN VẾ DU LỊCH VÀ KINH DOANH DU LỊCH
1.
Một
vài
khái
niệm
- Định nghĩa
vế
du
lịch
Ngày
nay,
thuật
ngữ "du
lịch"
đã
trở
nên
quen
thuộc
đối với tất
cả mọi
người.
Với
mỗi cá
nhân,
du
lịch
là
nhu
cầu
không
thể
thiếu
trong đời
sống
tinh
thần khi
mà nhu cầu
vật chất
đã đưỉc đáp ứng đầy
đủ.
Với mỗi
quốc
gia
du
lịch
đóng
vai
trò là một ngành
kinh tế
quan
trọng,
chiếm
tỉ ttọng
ngày càng
cao
trong
cơ cấu
kinh tế
của
nhiều
nước. Thuật
ngữ này
bắt nguồn từ
tiếng
pháp.
Trong
tiếng
pháp,
"tour"
có
nghĩa
là một
cuộc
dạo
chơi,
sự đi
lại
vòng
quanh,
"tourist"
có
nghĩa
là
người
đi dạo
chơi.
Ngày
nay,
"du
lịch"
đã đưỉc
các
tổ
chức
du
lịch
quốc
tế,
các nhà ngôn ngữ
học
định
nghĩa
theo
nhiều
cách
khác
nhau,
đứng trên
nhiều
góc độ khác
nhau.
-
Dưới
góc độ khách du
lịch
thì du
lịch
đưỉc
hiểu
là
cuộc
hành trình
và lưu trú của con
người
ngoài nơi cư
trú
thường xuyên và
quay
trở
lại,
nhằm
thoa
mãn
những
nhu câu khác
nhau,
với
những
mục đích khác
nhau,
loại
trừ
mục đích làm công và
nhận
thù
lao
ở
nơi
đến
-
Dưới
góc độ nhà
kinh
doanh
du
lịch:
Du
lịch
đưỉc
hiểu
là một
lĩnh
vực
bao gồm các
hoạt
động
tạo ra những dịch
vụ và hàng hoa để
thoa
mãn
những
nhu
cầu của
khách du
lịch
nhằm mục đích
thu
lỉi
nhuận
-
Theo
quan
điểm
tổng
hỉp:
du
lịch
là một
hiện
tưỉng
kinh
tế-xã hội
ngày càng phổ
biến,
phát
sinh
các mối
quan
hệ
kinh
tế,
bao gồm 4 nhóm nhân
tố
tương tác
nhau:
khách du
lịch,
nhà
cung
ứng
dịch
vụ du
lịch,
cộng
đồng dân
cư và chính
quyền
nơi đến du
lịch
NGUYỀN
THỊ
THANH- PHÁP
í
HÓM
5
KHOA LUẬN
TỐT
NGHIỆP
Riêng
theo
Luật
du
lịch
của
Việt
Nam
(ban
hành vào
01/01/2006)
thì
du
lịch
đươc định
nghĩa
là
hoạt
động của con
người
ngoài nơi cư trú thường
xuyên của mình nhằm
thoa
mãn nhu cầu
tham quan,
tìm
hiểu,
giải
trí, nghỉ
dưỡng
trong
một
khoảng
thời
gian
nhất
định
- Định nghĩa vế
kinh
doanh du
lịch
Kinh
doanh
du
lịch
là
việc thực hiện
một,
một số
hoớc
tất
cả các công
đoạn
của
quá trình
hoạt
động du
lịch
trên
thị
trường nhằm mục đích
sinh
lợi.
Như
vậy
ta thấy
hoạt
động
kinh
doanh
du
lịch
cũng
giống
các
loại
hình
kinh
doanh
khác là đều
phải
hướng
ra thị
trường,
tức
là
phải
tuân
theo
quy
luật
cung
cầu cùa
thị
trường và đều
hướng
tới
mục đích
cuối
cùng là
"sinh
lợi".
Tuy
nhiên đớc
điểm
phân
biệt
giữa kinh
doanh
du
lịch với
các
hoạt
động
kinh
doanh
khác chính là mật hàng
cung
cấp của
nó,
đó là sản phẩm du
lịch.
sản
phẩm du
lịch
được
hiểu
là
tất
cả các
dịch
vụ và hàng hoa do các
doanh
nghiệp
có
chức
năng
kinh
doanh
du
lịch
cung
cấp cho du khách nhằm
thoa
mãn nhu
cầu
của
họ,
nó được
tạo
nên
bởi
sự
kết
hợp của các yếu
tố
như
tài
nguyên du
lịch,
cơ sở
vật chất
kĩ
thuật
và
lao
động
Qua định
nghĩa
ta
có
thể thấy
được mức độ đa
dạng
không
giới
hạn của
sản
phẩm du
lịch,
đó có
thể
là
sản
phẩm hữu hình
hoớc
vô
hình,
miễn
là
thoa
mãn nhu cầu của du khách, đến
lượt
mình, "du khách" được
coi
là
những
người,
như
ta
đã nói ở
trên,
trong
định
nghĩa
về du
lịch,
có
những
nhu cầu
khác
nhau,
với
mục đích khác
nhau,
"loại
trừ
mục đích làm công và
nhận
thù
lao".
Như
vậy,
sản phẩm du
lịch
không
dừng
lại
ở một
danh
sách cố định cụ
thể,
ở
những
cái đã
biết,
đã được
khai
thác mà
rất
đa
dạng, phong
phú và
không
ngừng
được bổ
sung
theo
sự phát
triển
của xã
hội
loài
người.
Có
thể
nói, quan
điểm
này
thực
sự đã
tạo ra
sân chơi
rộng
rãi cho các nhà
kinh
doanh
du
lịch,
đồng thòi mở
ra nhiều
hướng
đi khác
nhau
cho mục tiêu phát
triển
du
lịch
ở các
quốc
gia
khác
nhau.
NGUYÊN
THỊ
THANH- PHÁP I
mo
6
KHOA
tilịN
TỐT
NGHIỆP
HU
mNQÀNHũUUOHVIpMM
2.
Các
loại
hình
kinh
doanh
du
lịch
Mặc dù các
loại
hình
kinh
doanh
du
lịch
như đã được phân tích ở
trên
là
rất
phong
phú và đa
dạng
nhưng vẫn được phân
chia
thành 4 nhóm
loại
hình
sau:
- Kình doanh lữ hành: là ngành
kinh
doanh
các chương trình du
lịch,
nghĩa
là
tổ
chức
xây
dựng,
bán và
thực hiện
các chương trình du
lịch
trọn
gói
cho
du khách.
Kinh
doanh
lữ
hành
là
hình
thức kinh
doanh
đặc trưng cùa du
lịch.
Các
doanh
nghiệp
lữ
hành có
nhiệm
vụ nghiên cứu
thị
trường,
thiết
lảp
các chương trình
du lịch
trọn
gói hay
từng
phần,
quảng
cáo và bán các chương trình du
lịch
này
trực
tiếp
hay gián
tiếp
qua các
trung gian
hoặc
văn phòng
đại diện, tổ
chức
thực hiện
chương trình và
hướng
dẫn du
lịch
nhằm mục đích
sinh
lời.
Theo
số
liệu
thống
kê
của
Tổng
cục
du
lịch,
tính đến năm
2004,
nước
ta
có 329
doanh
nghiệp
lữ
hành
quốc
tế
và hàng nghìn
doanh
nghiệp
lữ
hành
nội
địa.
Đa số các
doanh
nghiệp
lữ
hành được cấp
giấy
phép
dang
hoạt
động
nghiêm
chỉnh
và làm ăn có
lãi.
Các
doanh
nghiệp
này đóng
vai
trò
rất lớn
trong
việc thu
hút khách
với
những
chương trình du
lịch
đa
dạng
như "con
đường
di
sản
thế
giới",
"con
đường
xanh
Tây Nguyên", du
lịch
triển
lãm,
hội
nghị,
khách hàng
MICE
(Meeting
-
Incentive
- Coníerence -
Exhibition).
Tuy
nhiên,
hiện
đang
tổn
tại
thực trạng
là có sự chênh
lệch
khá
lớn giữa tỉ lệ
khách đi
tua trong
nước và khách đi
tua
nước
ngoài.
Theo
một
cuộc
điều
tra
tiến
hành trên
29.035
khách du
lịch
gồm 6.526 khách
quốc
tế
và
22.509
khách
trong
nước vào nửa
cuối
tháng
li
năm
2003
và đầu tháng 12 năm
2003
vừa
qua
thì có đến 40,9% khách du
lịch
quốc
tế
chọn
hình
thức
đi
tua trong khi
con
số này
với
khách du
lịch trong
nước
chỉ
là 9.8%. Có
nhiều lí
do
giải
thích
vấn
đề này, một
trong
số đó là các
doanh
nghiệp
lữ
hành của
Việt
Nam vẫn
chưa
quan
tâm một cách thích đáng đến
thị
trường
nội địa.
Thực
tế
cho
thấy
hiện nay,
đang
xuất hiện
làn sóng
người
Việt
Nam đi du
lịch
ở nước ngoài
trong
khi
không
phải ai trong
số họ
cũng
đã
đặt
chân lên
tất
cả các
danh
lam
NGUYÊN
THỊ
THANH- PHÁP
í
m
7
KHOA
MẶN
lổĩ NGHIỆP
m
WP
NGÀNH
w
tụm
VỆ
NAM
thắng
cảnh
của
Việt
Nam. Vần đề
đạt ra là
các nhà
kinh
doanh
lữ
hành
phải
có
những
biện
pháp cụ
thể
để
lòi
kéo khách du
lịch nội
địa
trở
lại
với
những
tua
du lịch trong
nước.
Nếu được
khai
thác đúng
cách,
khách du
lịch nội địa sẽ trở
thành
thị
trường ổn
định,
thành một
nguỏn
thu
nhập
bền
vững
cho các
doanh
nghiệp
lữ
hành.
- Kinh doanh lưu
trú:
là
loại
kinh
doanh
buỏng,
phòng, giường và các
dịch
vụ khác
phục
vụ khách du
lịch. Loại
hình này
kinh
doanh
không
phục
vụ
nhu cầu
đặc trưng cùa khách du
lịch trong
quá trình đi du
lịch
mà
phục
vụ nhu
cầu
thiết
yếu của
khách như
ăn, ngủ., trong
quá trình này.
Các cơ sỏ lưu trú bao gỏm khách
sạn,
nhà
nghỉ,
biệt
thự,
căn
hộ, lều
bãi
cắm
trại
cho
thuê,
trong
đó khách
sạn là
cơ sở lưu trú du
lịch
chủ
yếu,
chiếm
tỉ
lệ
lớn nhất.
Tại Việt
Nam, số
lượng
các cơ
sở
lưu
trú
không
ngừng
tăng
trong
những
năm vừa
qua.
Năm
1991,
cả nước mới có trên
11.400
phòng khách
sạn,
chủ
yếu
thuộc
cấp
thấp
thì đến năm
2003
đã có trên 3.890 cơ sở lưu trú
với
trên
83.240
phòng
buỏng.
Tuy nhiên về
chất
lượng
thì vẫn chưa được
cải
thiện
đáng
kể.
Trong
số 927 khách sạn được xếp
hạng
từ
Ì- 5 sao thì số khách sạn
1-3 sao
chiếm
chủ
yếu, chỉ
có 18 khách sạn 5 sao và 45 khách sạn 4
sao,
còn
quá
ít
so
với
nhu
cầu của
khách
quốc
tế,
đặc
biệt
là khách
hạng
sang.
Hơn
thế
nữa
còn
tỏn
tại
tình
trạng
phân bố không đỏng
đều,
các
tỉnh
phía Nam bão hoa
số
khách
sạn trong khi đó,
các
tỉnh
miền
Trung
mặc dù
tập trung
đến ba
di
sản
văn hoa và thiên nhiên
thế
giới
nhưng
lại
đang
trong
tình
trạng
thiếu
khách
sạn trầm trọng.
-Kinh doanh vận chuyển: là
loại
hình
kinh
doanh
tập trung
vào
việc
vận
chuyên
chờ
khách
bằng
máy
bay,
tàu
hoa,
tàu
thúy,
ô
tô,
cáp vận
chuyển
và các phương
tiện
truyền
thống
như
voi,
lạc đà,
xe
ngựa,
xe
đạp,
xích lô
Trong
du
lịch,
hoạt
động
kinh
doanh
này thường là vận
chuyển
khách
theo
một
chương trình
nhất
định.
NGUYỄN
THỊ
WW-
PHÁP
I
ữfO
8
KHO/ÚUẬN
TỐT
NGHIỆP
fM
VÀO
NGÀNH WUCH
MẸT NAM
Hội
nhập
cùng
với
sự
nghiệp
đổi
mới
kinh tế
nói
chung
và ngành du
lịch
nói
riêng,
dịch
vụ vận
chuyển
khách du
lịch
ở
Việt
Nam đã có
những
bước
chuyển
biến
tích
cực.
Các phương
tiện
vận
chuyển
khách du
lịch
phát
triển
nhanh
về
chủng
loại,
số lượng và
chất
lượng. Về vận
chuyển
hàng không,
Vietnam
Airlines
đã có
mạng
bay đến 23 thành phố
thuộc
5 khu vực trên
thế
giới
và 16
đưặng
bay đến 16 thành phố và
thị xã.
về vận
chuyển
đưặng
bộ,
ngoài
những
tuyến
quốc
lộ,
tỉnh
lộ,
huyện
lộ toa
đi
khắp
miền
đất
nước,
các phương
tiện
chuyên chở
cũng
ngày càng đa
dạng
như xe
bus,
xe khách,
dịch
vụ cho thuê
xe
máy, xe đạp cho khách du
lịch,
đặc
biệt,
thị
trưặng
taxi
đang
cạnh
tranh
sôi
nổi
với
hàng
chục
các hãng
taxi
khác
nhau,
giá cả hợp
lí
và
đội
xe đông đảo.
Về vận
chuyển
đưặng
sắt,
đưặng
sắt Việt
nam có
tổng chiều
dài 2600 km,
trong
đó
tuyến
đưặng
sắt
Bắc Nam dài 1726 km, ngoài
ra
còn có
tuyến nối
Hà
Nội với
các
tỉnh
phía
Bấc,
đi
ra
cảng
Hải
Phòng,
tuyến
đưặng
sắt
quốc
tế Việt
Nam-
Trung
Quốc góp
phần
tích cực
trong việc giao
lưu văn hoa
hai
nước,
thúc đẩy
việc gia
tăng khách vào
Việt
Nam. Đặc
biệt,
trong
năm
2005,
ở Đà
Lạt
đã phát
triển
hình
thức
du
lịch
trên đầu máy xe
lửa
cổ
chạy
bằng
hơi nước.
Hình
thức
du
lịch
này được các du khách đặc
biệt
mến
chuộng.
Trong
10
tháng đầu năm
2005,
lượng du khách đến
với
Ga Đà
Lạt
đã
đạt
con số 40.000
ngưặi
(cả
năm 2004
chỉ đạt
chưa đến
35.000
du
khách),
trong
đó khách
quốc
tế
chiếm
9.261
ngưặi,
tăng gần gấp đôi so
với
cả năm 2004
(5.541
ngưặi).
Về vận
chuyển
đưặng
thúy,
mặc dù các phương
tiện
vận
chuyển
khách
du lịch
bằng
đưặng thúy phát
triển
và
đổi
mới chậm hơn nhưng bước đầu đã
được
khai
thác hợp
lí.
Đáng chú ý là một số
địa
phương đã đưa tàu du
lịch
cao
tốc
để
phục
vụ cho nhu cầu
di
lại
của
khách du
lịch
như tàu Lim Bang
từ
Hải
phòng đi Cát Bà-Hạ
Long,
tàu du
lịch
cao
tốc
cánh ngẩm
với
các
tuyến
thành
phố
Hồ Chí
Minh-Vũng
Tàu, Hải
Phòng-Hạ Long-Cát Bà-Móng Cái.
- Các hình thức
dịch
vạ khác như
kinh
doanh
các khu du
lịch,
khu
vui
chơi
-
giải
trí, kinh
doanh
dịch
vụ ăn
uống
NGUYỄN
THỊ
THAM- PHÁP
I
mo
9
KHOA
niệu lối NQHtệp
m
VÀO NGÀNH
DU um
w
NAM
Hiện
nay, kinh
doanh
khu
vui
chơi
giải
trí
là khâu yếu kém
nhất
cùa du
lịch Việt
Nam. Tuy nhiên
trong
vài năm
trở
lại
đây
với
nỗ
lực
của ngành đã
bắt
dầu hình thành một
số khu
du
lịch
quan
trọng
có ý
nghĩa
quốc
gia
và
quốc
tế
như khu du
lịch
Dankia-Suối
Vàng (Đà
Lạt)
vói vốn đầu tư lên đến 706
triệu
USD, khu du
lịch
Thuận
An khu du
lịch
Hạ
Long
- Cát
Bà,
khu du
lịch
Văn
Phong
-
Đại
Lãnh
Một số khu du
lịch, vui
chơi
giải
trí, thử
thao
được
đầu
tư
bằng
vốn
trong
nước
cũng
như vốn nước ngoài đã đưa vào
hoạt
động
như sân
golf
Phan
Thiết,
sân
golf
và
Dalat
Resort
Incorporation
ở Đà
Lạt,
khu
du lịch
Lái Thiêu và sân
golf
Palm
ở Sông Bé, khu du
lịch
Bửu
Long
và
Bochang
- Dona ở
Đồng
Nai,
khu du
lịch
nghỉ
dưỡng
suối
khoáng nước nóng
Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu) Các nhà đầu tư
trong
nước và nước ngoài
cũng
đã đổ vốn và công
nghệ
vào liên
doanh,
hình thành các khu
nghỉ
mát
Furuma
Resort
(Đà
Nang),
Victorian
Hoian
(Quảng
Nam), Coco
Beach
và
PanSea
(Phan
Thiết),
Ana
Mandara
(Khánh
Hoa).
Các cơ sở
vui
chơi,
giải
trí,
thử
thao
với
quy mô
nhỏ,
đơn
giản
cũng
được phát
triửn
trong
mấy năm gần
đây,
phần
nào đã đáp ứng được nhu cầu của khách du
lịch
và nhân dân địa
phương. Các cơ sở
dịch
vụ khác như
luyện tập thử thao, vật
lí
trị
liệu,
xông
hơi,
phòng hát karaokc.được phát
triửn
ở
nhiều
nơi nhưng
chất
lượng còn
thấp
và chưa đáp ứng được yêu
cẩu.
Các
loại
hình
vui
chơi
giải
trí
phát
triửn
ngày càng đa
dạng,
độc đáo.
Việt
Nam đang áp
dụng
thử
các hình
thức vui
chơi mới như du
lịch
Caravan,
du lịch
mạo
hiửm,
du
lịch
khám
phá
Du
lịch tay
lái
nghịch
mới được đưa
vào
Việt
Nam ba tháng gần đây nhưng các công
ty
du
lịch
đã
tổ
chức
đón
thành công hàng
chục
đoàn khách
từ
Thái Lan qua cửa
khẩu
Lao Bảo vào các
tuyến
điửm
du
lịch của Việt
Nam. Du
lịch
khám phá đáy
biửn
đang được
triửn
khai thực hiện
tại
Vũng
Tàu,
Ninh
Thuận
Du
lịch
mạo
hiửm
có
nhiều tiềm
năng đử phát
triửn
do
Việt
Nam có
nhiều
ngọn
núi nằm
sất biửn,
thích hợp cho
môn
thử
thao
leo
núi hay
nhảy
bunjee
-
jumping
.Tuy
nhiên,
những
hoạt
động
kử trên hầu
hết
đang ở
giai
đoạn
thử
nghiệm
và chưa được
khuyến
khích
đử phát
triửn
rộng
rãi.
HQUVêN
THỊ 1HANH- PHÁP
I
w
lo
KHOA
UlệN
TỐT
MỊHtẼP
Cùng
với
sự tăng
nhanh
của khách du
lịch
cũng
như các cơ sở lưu trú,
hệ
thống
các cơ sở ăn
uống
ở các địa phương
trong
cả nước
cũng
ngày càng
được
mở
rộng.
Hầu
hết
cá khách
sạn,
nhà
nghỉ
đều có phòng ăn
(restaurant),
quầy
bar
không
những chỉ phục
vụ cho khách
nghỉ
tại
khách sạn mà còn
phục
vụ
cả khách bên
ngoài.
ẩ
những
cơ
sở này,
du khách được thưởng
thức
đầy đủ
các món ăn dân
tộc
Âu Á.,
với chất
lượng
cao,
đảm bảo vệ
sinh
an toàn
thực
phẩm, vừa ăn
uống
khách có
thể
vừa thưởng
thức
các làn
điệu
dân ca đậm đà
bản sắc
dân
tộc.
Đồ
uống cũng
rất
đa
dạng, phong
phú
với
đầy đủ các
loại
bia
rượu
nổi tiếng thế
giới,
đáp ứng nhu
cầu
du khách đến
từ
các nền văn hoa khác
nhau.
3. Vai
trò của ngành du
lịch trong lĩnh
vực
kinh
tê
- xã
hội:
Ngày
nay,
du
lịch
đã
trở
thành một nhu cẩu không
thể
thiếu
được
trong
đời
sống
văn hóa xã
hội
ở các
nước.
Có
thể
nói đó là một ngành vừa có ý
nghĩa
kinh
tế,
vừa có
nghĩa
xã
hội
mà như
Luật
du
lịch
của
Việt
Nam
khẳng
định
:
"Du
lịch
là
một ngành
kinh
tế
tổng
hợp quan
trọng
mang nội dung văn
hoa sâu
sắc".
Xét trên khía
cạnh
kinh
tế,
cũng
như
những
ngành
nghề
khác,
du
lịch
đóng góp vào sự phát
triển
chung
của
kinh tế
toàn xã
hội.
Kinh
doanh
du
lịch
góp
phần
giải
quyết
công ân
việc
làm,
tạo doanh
thu,
lợi
nhuận,
thúc
đẩy
tăng trưởng GDP, đóng góp vào ngân sách nhà
nước
Tuy
nhiên,
không
chì
dừng
lại
ở
đó,
kinh
doanh
du
lịch
khác
những
ngành khác ở ý
nghĩa
xã
hội
của
nó.
ít
có ngành
kinh
doanh
nào
lại
có tác động tích cực đến
quan
hệ
ngoại
giao, giao
lưu văn hoa
giữa
các nước như du
lịch.
Với những
ý
nghĩa
kể trên,
du
lịch
ngày càng
khảng
định
vai
trò không
thể
thiếu
trong đời
sống
kinh tế
-
xã
hội
của
các
nước.
Vai
trò
của
du
lịch trong lĩnh
vực
kinh tế
xã
hội
được
thể hiện
ở một số
điểm
như
sau:
Thứ
nhất,
du
lịch
phát
triển
kéo
theo
sự phát
triển
của các ngành
kinh
tế
khác.
Đây là
điều
tất
yếu
trong
nền
kinh tế
được chuyên môn hoa
bởi
ở đó,
NGUYỄN
THỊ
TW/WH-
PHÁP í
KW
KHOA
mki
TỐT
NGHIỆP
m MO
NQÀNH
DU
mí MỆT
NAM
không ngành
nghề
nào là phát
triển
riêng
lẻ,
độc
lập,
một ngành có trình độ
phát
triển
càng cao thì càng phụ
thuộc
vào
nhiều
ngành
nghề
khác,
càng cần
nhiều
yếu
tố
đầu vào
từ
các ngành
khác.
Du
lịch với
tính
chất
là một ngành
kinh
tế tổng
hợp, sản
phẩm
cệa
du
lịch
rất
đa
dạng, phong phú,
do
đó,
nó
cũng
yêu cầu
những
nguyên
liệu
đầu vào đa
dạng
và
phong
phú không kém. sản
phẩm tiêu
thụ
dễ
thấy nhất
ở ngành du
lịch
chính là các phương
tiện
giao
thông. Các du khách có
thể
đến
từ
khắp
nơi trên
thế
giới
và họ không
chỉ
có
nhu
cầu được
tham quan
một địa
danh
duy
nhất.
Số
lượng
du khách càng
đông,
địa danh
du
lịch
càng
nhiều,
du
lịch
càng phát
triển
thì càng đòi
hỏi
hệ
thống
giao
thông càng
phải
được hoàn
bị
và
hiện đại
hơn.
Bén
cạnh đó,
tuy
nhu cầu
cệa
khách và
tuy
điều
kiện,
thế
mạnh
cệa
địa
phương mà du
lịch
có tác động đến
những
ngành
kinh tế
khác
nhau
ở các mức
độ khác
nhau.
Thái Lan
thu
hút khách du
lịch
bời
ở đó du khách có
thể
tìm
được
bất
kể mặt hàng nào
từ
khắp
nơi trên
thế
giới,
vì
thế
thương mại
cệa
Thái
Lan
rất
phát
đạt.
Nước Pháp
quyến rũ
với
hương thơm
rượu
nho hảo
hạng
và
nghệ
thuật
ẩm
thực
tinh
tế
nên ngành công
nghiệp
rượu
nho có nền
tảng
tâng
trưởng
vững chắc.
Trung
Quốc mỗi năm đón hàng
chục
triệu
khách du
lịch
trên
khắp thế
giới
quan
tâm đến
di
tích
lịch
sử,
công trình văn hoa cệa đất
nước
này, nhờ đó mà văn hoa cổ
truyền
cệa
Trung
Quốc được bảo
tồn
khá
nguyên
vẹn.
Thứ
hai, hoạt
động du
lịch
quốc
tế
có tác
dụng
như máy bơm hút
ngoại
tệ
về cho các
quốc gia bởi
thực chất
du
lịch
là
hoạt
động
xuất
khẩu
tại
chỗ.
Các du khách
quốc
tế
thường là
những người
khá đầy đệ về mặt
tài
chính,
họ
sẩn
sàng
chi
những khoản
ngoại tệ lớn
cho nhu cầu
vui
chơi,
giải
trí,
thư giãn,
an
dưỡng
cệa
họ.
Các nhu cẩu này đều được
thoa
mãn
ngay
tại
nước đến,
nhiều
sản phẩm cệa nước đến vì
thế
mà không cần mất công đóng
gói,
bảo
quản,
vận
chuyển
để
xuất
khẩu
qua biên
giới ,
nhờ đó mà
giảm
thiểu
chi
phí
và tâng thêm
lợi
nhuận.
Nguồn
ngoại
tệ
dồi
dào này khá
quan
trọng
ở
những
quốc gia
đang phát
triển
khi
mà nhu cầu
ngoại
tệ
cho quá trình CNH-HĐH
NQMẽH
THỊ
VANH-
PHÁP I
mo
12
KHOA
MẬN
lốt
NQHỄP
m \/Ầ0
NGÀNH vu mon
wệĩ
NAM
luôn luôn
trong
tình
trạng
căng
thẳng.
Nhiều
nước
cũng
đã
biết
khai
thác
rất
tốt
nguồn
ngoại
tệ này.
Thái
lan với
lượng khách
quốc
tế mỗi
năm
khoảng
trên
10
triệu
thu
hút được
khoảng
4-5
tỉ
USD,
Singapo
cũng
thu
được
từ
2 đến 3
tỉ
USD
từ
hơn 7
triệu
khách
quốc
tế
mỗi năm.
Việt
Nam
trong chiến
lược phát
triển
du
lịch
2005-2010,
dự tính
thu
nhập
từ
du
lịch
năm 2005
đạt 2,1 tỉ
USD,
năm 2010
đạt
4-4,5
tỉ
USD, đưa
thu
nhập
từ
du
lịch
lên
chiếm
5,0% GDP năm
2005
và 6,5 % năm 2010.
Thứ
ba.
du
lịch tạo ra
nhiều
việc
làm cho xã
hổi,
bao gồm cả
việc
làm
trực
tiếp
trong
ngành và
việc
làm gián
tiếp
trong
những
ngành liên
quan.
Theo
thống
kê của Tổng cục Du
lịch, hiện nay,
du
lịch thu
hút được 220.000
lao
đổng
trực
tiếp
và
khoảng
450.000
lao
đổng gián
tiếp.
Đây là con số đầy ý
nghĩa
nếu
biết
rằng
mỗi năm
Việt
Nam có thêm hơn 5
triệu
lao
đổng cần
giải
quyết
việc
làm.
Tuy
nhiên,
đang
tồn
tại
mổt
nghịch
lí trong
phân bố
lao
đổng
giữa
các
loại
hình
kinh
doanh
du
lịch.
Lao đổng
trong
các
doanh
nghiệp
lưu trú
chiếm
tỉ
lệ lớn
nhất
(40%), trong khi
số
doanh
nghiệp
trong
các
doanh
nghiệp
lữ
hành,
ngành
kinh
doanh
"xương
sống"
của du
lịch, chỉ
chiếm
tỉ lệ
khiêm
tốn
(chưa đến
16%).
Dấu
hiệu
này
chứng
tỏ
du
lịch Việt
Nam mới
chỉ
đang ở
giai
đoạn
đầu
của
quá trình phát
triển.
Kinh
doanh
lữ
hành
hiện
nay chưa phát huy
được
hết hiệu
quả
hoạt
đổng của nó do
kinh
nghiệm
quản
lí
và điểu hành
tua
du lịch
còn
yếu
kém, khả năng nấm
bắt
nhu cầu của
thị
trường còn chưa
nhạy
bén,
chúng
ta
chưa xây
dựng
được
những
sản
phẩm du
lịch
thực
sự quy
mô,
có
sức
hút
cao.
Trong
giai
đoạn
sau này, khi
du
lịch
tiến
nhanh
trên quỹ đạo phát
triển
chung
của
nó, kinh
doanh
lữ
hành sẽ cần mổt số lượng
lớn
các các nhà
quản
lí,
các nhân viên điều hành
tua,
các hướng dẫn viên du
lịch,
.Như
vậy,
tương
lai,
du
lịch vẫn là
mổt
trong
những
ngành
trọng
điểm
giải
quyết
nhu cầu
công ăn
việc
làm cho
lao
đổng
Việt
Nam.
Thứ
tư,
sự phát
triển
của du
lịch
còn kéo
theo
mổt
loạt
các
hiệu
quả
kinh
tế,
xã
hổi
khác.
Tại Việt
Nam, như
ta thấy,
ở đâu du
lịch
phát
triển,
ở đó
NGUYỄN
THỊ
THANH- PHÁP
í
m
13
WO/ÚU/ặN TÓT
NGHIỆP
m
vào
MÀNH
ƯU
LÍCH vtệĩ
NAU
diện
mạo đô
thị,
nông thôn được
chỉnh
trang
sạch
đẹp
hơn, đời sống
nhân
dân
được
cải
thiện
hơn
như ở
Sapa (Lào
Cai),
Hạ
Long(
Quảng
Ninh),
Cát Bà( Hải
Phòng),
Sầm Sơn
(Thanh Hoa)
Du
lịch
phát
triển
tạo điều
kiện
để
khôi
phục
nhiều lễ hội
và
nhiều
nghề
thủ
công
truyền
thống,
góp
phẩn chuyển dịch
cơ
cởu
của
từng
địa phương, tăng
thu
nhập,
xoa
đói, giảm
nghèo
và
vươn
lên
làm
giàu,
mở
rộng
giao
lưu
giữa
các
vùng,
miền
trong
nước
và
với
nước ngoài.
Thứ năm,
bên
cạnh
ý
nghĩa
kinh
tí,
xã
hội,
du
lịch
còn
thúc đẩy
giao
lưu văn
hoa,
tăng cường mối
quan
hệ hữu
nghị,
hoa bình
giữa
các
nước.
Cụ
thể
trong
khối
ASEAN,
hàng năm, các nước thành viên đều góp mặt vào
diễn
đàn
du
lịch
ASEAN
(ATF)
và
hai
năm
một
lần
lại
tổ
chức
hội
nghị
các
bộ
trưởng
du
lịch.
Đó là cơ
hội tốt
để các
nước
trao
đổi
phương
thức
hoạt
động,
giải
quyết
các
vởn
đề nảy
sinh,
tìm
đối
tác
trong kinh
doanh
du
lịch,
góp
phần
nâng cao
vị
thế
của
du
lịch
khu vực trên trường
quốc
tế.
Không
những
thế,
đó
còn
là
dip
để các
nước
thể
hiện
tình đoàn
kết,
nhởt
trí
trong khối,
thể
hiện
thiện
chí hoa
bình,
hữu
nghị
với
các nước khác
trong khối
vì một
ASEAN
bền
vững
và phát
triển.
Không
những
tăng cường
quan
hệ
ngoại giao với
các
nước
trong
khu
vực,
du
lịch
còn là
cầu
nối
giúp
Việt
Nam
đến vói bạn
bè
khắp
nơi trên
thế
giới.
Chúng
ta
đã
đưa dược văn hoa
Việt
Nam
đến
với thế
giới
thông qua
các
chương trình
giới
thiệu
điểm
đến du
lịch Việt
Nam
tại
Thúy
Điển,
Ân
Độ,
các
hội
chợ
du
lịch
tại
Hàn
Quốc,
Nhật
Bản,
tuần lễ
du
lịch Việt
Nam
tại
Séc,
Úc
Nhờ đó mà
thế
giới
biết
đến chúng
ta
không
những bởi
tinh
thần
quật
khởi trong chiến tranh
mà hơn
nữa còn
bởi
nền vãn hoa
đôn
hậu,
hiền
hoa
và
khát
vọng
hoa bình luôn cháy
bỏng.
Việc
Việt
Nam
tình
nguyện
đứng
trong
hàng
ngũ
của
các
tổ
chức quốc tế
về
du
lịch
như Tổ
chức
Du
lịch
thế
giới
(WTO),
Hiệp
hội
Du
lịch
Châu
Á
- Thái Bình Dương
(PATA),
Hiệp
hội
du
lịch
ASEAN là
những minh chứng
hùng hồn cho phương châm
"Việt
Nam
muốn
làm bạn
với
tởt
cả các nước
trên
thế
giới".
NGUYÊN
THỊ
WW-
PHÁP
í
mo
14
KHOA LUẬN
lới
NGHIỆP
m w
NGÀNH
VU ỤOH Vệt NAM
li.
TỔNG
QUAN
VẾ FDI
1.
Định nghĩa FDI
Đầu
tư
trực
tiếp
nước ngoài
(FDI)
là
hình
thức
đầu tư mà các nhà đầu tư
nước
ngoài bỏ vốn đầu tư và
trực
tiếp
tham
gia
quản
lý
điểu
hành,
tổ
chức
sản
xuất
để
thu
lọi
ích và hoàn toàn
chịu
trách
nhiệm
về đổng vốn
cũng
như
kết
quả sản
xuất
kinh
doanh
cùa mình.
2.
Phân
loại
FDI
Theo
Luật
đầu tư nước ngoài năm 1996, sửa
đổi
năm
2000,
tại
Việt
Nam
hiện
nay
tữn
tại
3
loại
hình
doanh
nghiệp
FDI gữm:
-
Doanh
nghiệp liên doanh:
Doanh
nghiệp
liên
doanh
là
doanh
nghiệp
được thành
lập
tại
Việt
Nam
trên cơ sở Hợp đững liên
doanh
ký
giữa hai
bên
hoặc
nhiều
bên để
tiến
hành
đầu
tư
kinh
doanh
tại
Việt
Nam.
Trong
trường
hợp
đặc
biệt,
Doanh
nghiệp
liên
doanh
có
thể
được thành
lập
trên
cơ
sở
Hiệp
định
ký
kết
giữa
Chính
phủ
Việt
Nam
với
Chính phủ nước khác.
-
Hợp
đồng
hợp
tác
kinh doanh
Hợp đững hợp tác
kinh
doanh
là văn bản ký
kết giữa hai
bén
hoặc
nhiều
bên để
tiến
hành đầu tư,
kinh
doanh
ở
Việt
Nam,
trong
đó quy định trách
nhiệm
và phân
chia
kết
quả
kinh
doanh
cho mỗi bên mà không thành
lập
pháp
nhân
mới.
Họp đững hợp
tác
kinh
doanh
toong lĩnh
vực
tìm
kiếm,
thăm dò và
khai
thác
dầu
khí và một số
tài
nguyên khác
theo
hình
thức
hợp đững phân
chia
sản phẩm
được
thực hiện theo
quy
định
của
pháp
luật
có
liên
quan
và
Luật
đầu tư
nước
ngoài.
-
Doanh
nghiệp
100%
vốn
nước ngoài
Doanh
nghiệp
100% vốn nước ngoài là
doanh
nghiệp thuộc
sở hữu của
nhà đẩu tư nước
ngoài,
do nhà đầu tư nước ngoài thành
lập
tại
Việt
Nam, tự
quản
lý và
tự
chịu
trách
nhiệm
về
kết
quả
kinh
doanh
Ngoài các hình
thức
đầu tư
trên,
Luật
đầu tư còn
thừa
nhận
một số
phương
thức
kinh
doanh
chủ
yếu sau:
NGUYÊN
THỊ
TWMW-
PHÁP
í
m
15
KHOA LUẬN lới NGHIỆP
m
MO
NGÀNH
DU ỤCH
MỆT
NAM
a)
Hình
thức
BÓT: Hợp đồng BÓT là vãn bản ký
kết giữa
các nhà đẩu
tư nước ngoài
với
cơ
quan
có
thẩm
quyền
của nước chủ nhà để đầu tư xây
dựng,
mở
rộng
nâng
cấp, khai
thác các công trình
kết
cấu hạ
tầng
trong
một
thời
gian nhất
đệnh,
sau đó
chuyển
giao
không
bồi
hoàn toàn bộ công trình
cho
nước chủ
nhà.
Các
dạng
thức của
hình
thức
này là
:
Hợp đồng xây
dựng
-
chuyển
giao
-
kinh
doanh
(BÓT);
hợp đồng xây
dựng
-
chuyển
giao (BT).
Trong
những
năm gần
đây,
do nhu
cầu
da
dạng
hoa các hình
thức
đầu tư
của cấc
nhà đẩu tư nước
ngoài,
nhiều
nước đã áp
dụng
hình
thức
BÓT và các
dạng
thức của
nó để tăng cường
thu
hút FD1.
Nhìn
chung
hình
thức
BÓT, BT
hay
BTO có
những
đặc
điểm
cơ
bản:
•
Chi
được ký
với
cơ
quan
nhà nước có
thẩm
quyền.
• Đầu tư vào xây
dựng
cơ sở hạ
tầng
của
Việt
Nam: xây
dựng
đường,
cầu,
cảng,
sân
bay,
các công trình
điện
nước,
• Được hưởng
nhiều
ưu đãi cùa Chính phủ
Việt
Nam về
tiền
thuê
đất, thuế
các
loại,
thời
gian
đầu tư dài
tạo
điều
kiện
cho các nhà đầu tư nước
ngoài
thu hổi
vốn và có
lời
hợp lý.
• Hết
thời
hạn
hoạt
động của
giấy
phép, chủ đẩu tư
phải
chuyển
giao
không
bổi
hoàn công trình cho Chính phủ
Việt
Nam
trong
tình
trạng hoạt
động
bình thường.
b)
Hình
thức
khu
chế xuất:
Khu chế xuất
là khu công
nghiệp
chuyên sản
xuất
hàng
xuất
khẩu,
thực
hiện
các
dệch
vụ cho sản
xuất
hàng
xuất
khẩu
và
hoạt
động
xuất
khẩu,
có
ranh
giới
đệa lí
xác
đệnh,
do Chính phủ thành
lập
hoặc
cho phép thành
lập.
c)
Hình
thức
phát
triển
khu công
nghiệp
,
Khu
công
nghiệp là
khu chuyên
sản xuất
hàng công
nghiệp
và
thực hiện
các
dệch
vụ cho sản
xuất
công
nghiệp,
do chính phủ thành
lập
hoặc
cho phép
thành
lập.
NQUVẺN
THỊ
THANH- PHÁP
í
ữfO
16
W/ÍU/|W
TÓT
WCWỆP
m
w
NGklHW
UCH WỆĨ NAM
Tuy
Luật
đã xấc
đừih
được một số hình
thức
như trên nhưng hình
thức
đầu
tư nước ngoài vẫn bị đánh giá là chưa đa
dạng
và chưa đáp ứng các yêu
cầu
mở
rộng
các kênh huy động vốn
từ
nước ngoài
phục
vụ phát
triển
kinh
tế.
Luật
đầu tư nước ngoài chỉ cho phép
doanh
nghiựp hoạt
động
theo
một
loại
hình là công
ty
trách nhiêm hữu hạn còn hình
thức
công
ty
cổ
phần
có vốn đầu
tư nước ngoài chưa được áp
dụng.
Hầu
hết
các dự ấn đều
dưới
hình
thức
liên
doanh
(chiếm
tới
60%
tổng
vốn
FDI), tuy
nhiên hầu
hết
các dự án liên
doanh
đều
được
thực
hiựn
thông qua hợp tác vói các
doanh
nghiựp
nhà nước của
Viựt
Nam - khu vực được
coi
là có sự bảo hộ cao và kém
hiựu
quả
nhất
trong
nền
kinh
tế.
Dưới
áp
lực
của tình hình
kinh
tế mới,
Nhà nước
ta
đã có chủ trương
mở
rộng
thêm hình
thức
kinh
doanh
cho nhà đầu tư nước ngoài. Cụ
thể,
mới
đây đã có văn bản chính
thức
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép
nắm
giữ
tối
đa 49% cổ
phiếu
của các công
ty
cổ
phần
(mức quy định cũ là
30%).
Chính phủ
cũng
đang xem xét để sớm thông qua dự
thảo Luật
đấu tư
chung
vào
cuối
năm
nay.
Văn bản này sẽ là cơ sở pháp
lí
cho các hình
thức
đầu
tư mới
ra đời
như: đầu tư hình thành
tổ chức
kinh
tế,
đầu tư
theo
dự án,
mua cố
phần,
góp vốn
trực
tiếp
vào các
tổ
chức
kinh
tế,
sáp
nhập
và mua
lại.
Như
vậy,
trong
tương
lai,
các nhà đẩu tư
sẽ
có
nhiều
sự
lựa
chọn
hơn cho
loại
hình
doanh
nghiựp
của
họ,
nhe*
đó,
họ sẽ
lựa
chọn
được hướng đầu tư phù hợp
nhất với
khả năng
kinh tế
và
sản
phẩm
kinh
doanh
của
họ. Viực
mở
rộng
hình
thức
đầu tư được so sánh như mở
rộng
miựng
ống hút của máy bơm
ngoại tự.
Hi
vọng
với Luật
mới này,
Viựt
Nam sẽ đón
nhận
được
nhiều
nguồn
đầu tư
mới
với
lưu lượng
lớn
hơn.
Nhìn
sang
Trung
Quốc, nước bạn đã đa
dạng
hoa các hình
thức
đầu tư
sớm hơn
ta
rất
nhiều.
Hiựn nay,
Trung
Quốc có 5 hình
thức
đầu tư cơ bản gồm
doanh
nghiựp
liên
doanh
(Sino-foreign
joint
ventures),
hợp đổng hợp tác
kinh
doanh
(Cooperative businesses),
doanh
nghiựp
100% vốn nước ngoài
(Exclusively
foreign-owned
enterprises),
doanh
nghiựp
hợp tác
khai
thác
dầu
khí
đất
liền
và ngoài khơi
(Joint
exploítatiftn>,i
(Tông
ty
cổ
phần
có vốn
N3ỈJ
ĨUONứ
NGUYÊN
THỊ THANH-
PHÁP
ị
mo
17
KHOA lUẬNĩếĩNGHIỆP
m MO
NGÀNH
DU UCH
MỆT
NAM
nước
ngoài
(Foreign-funded
share-holding
companies),
ngoài
ra
còn các
hình
thức
khác như
thị
trường
nội địa
mở,
khu kinh tế
mở,
BÓT,
công
ty
đầu
tư Việc
đa
dạng
hoa hình
thức
đầu tư chính là một
trong
những
chìa
khoa
đẫn đến
thành công
trong thu hút FDI của
Trung
Quốc.
Nếu năm
1991,
Trung
Quốc
chỉ
đứng
thứ
13
thế
giói
và
thứ
3
trong
các nước đang phát
triển
về
thu
hút FDI thì chỉ
2 năm
sau
(1993),
Trung
Quốc đã đứng
thứ
2
sau
Mỹ và đứng
đầu
các nước
dang
phát
triển
về
lĩnh
vỗc
này.
Trong
vòng 20 năm kể
từ khi
thỗc
hiện
chính sách
cải
cách
kinh tế
(1979-1998),
tính bình quân ở
Trung
Quốc,
mỗi năm có gần 13
tỉ
USD
vốn
đầu
tư
trỗc
tiếp
nước ngoài được
thỗc
hiện
(bằng
11.8 lần vốn FDI
bình
quân
của Việt
Nam
trong
cùng
thời
kì)
3.
Tác động
của FDI đến
nước
tiếp
nhận
vốn:
Hiện
nay trên
thế
giới
đang
diễn ra
cuộc
cạnh
tranh
gay
gắt
giữa
các
nước
nhằm
tranh
giành
"miếng
bánh"
FDI.
Trước
đây,
cuộc
cạnh
tranh
này
chủ
yếu
diễn ra trong
phạm
vi
các nước phát
triển.
Vói phương châm "càng
lớn
càng
mạnh",
trong
nửa
cuối của thế kỉ
trước không
ngừng
diễn ra
những
cuộc
sát
nhập
giữa
các tập
đoàn
kinh tế tư bản.
Các
tập
đoàn đa
quốc
gia
hình
thành,
tập trung vốn
đầu
tư cho
những
dỗ án công
nghệ
cao, kĩ thuật
phức
tạp
nhằm
thu
những
khoản
lợi
nhuận
khổng
lổ
và cùng
nhau
chi phối nền kinh tế
thế
giới.
Tuy
nhiên,
trong
khoảng
hai
chục
năm
trở
lại
đây, trong
cuộc
cạnh
tranh
đó đã có
sỗ
góp mặt
của các
nước
đang
phát
triển.
Đó
là
những
nền kinh
tế
mới
nổi,
đang
mạnh
mẽ thúc đẩy
tiến
trình công
cuộc
công
nghiệp
hoa,
hiện đại hoa đất
nước,
đưa
đất
nước
tiến
nhanh,
tiến
kịp
các nước công
nghiệp
khác.
FDI được họ
lỗa
chọn
như
loại
dầu máy bôi
tron
tiến
trình này
bởi
nó
tác động đến bốn yếu
tố
cơ bản được xem là
điều
kiện
quyết
định đến khả
năng thành công hay không của quá trình CNH, đó là
vốn,
công
nghệ
-
kỹ
thuật,
nguồn
nhân
lỗc
và
cải
cách
thể chế
(thị
trường,
hội
nhập )-
Như
vậy,
cả
các nước phát
triển
và đang phát
triển
đều không
thể
phủ
nhận
vai trò
của
FDI đối với kinh
tế
nước
mình.
NQUVỄN
THÍ
THANH-
PHÁP
í
mo
18
KHOA UlệN
TỐT
NGHIỆP
m
M
NGÀNH
vu UCH
VỆ!
NAM
Do
Việt
Nam
hiện
đang nằm
trong
số các nước đang phát
triển
và đang
thúc đẩy quá trình
CNH-HDH
đất
nước nên
trong
phạm
vi
phần
này,
tôi
xin
đi
vào phân tích
vai
trò
của FDI đối với
các nước đang phát
triển
- Trước
hết,
FDI có
tác
dụng
giải quyết
nhu cầu vế
vốn. Hiện
nay các
nước
đang phát
triển
đều đứng trước vấn đề khá nan
giản,
đó là vốn để phát
triển
kinh tế.
Tuy nhiên,
tỉ lệ
huy động vốn
trong
nước thông qua kênh
tiết
kiệm
và các
khoản
thu của
nhà nước không đáp ứng đủ nhu câu vốn đầu
tư.
Ví
dụ
như
Việt
Nam,
tỉ
lệ
huy động
chỉ đạt
khoảng
22% GDP,
trong
khi
đó
tỉ
lệ
vốn
dầu tư
phải
từ
30-35%
GDP,
khoản
chệch
trên 10% này nếu không tìm
đưực
nguồn
vốn bổ
sung
sẽ tác động tiêu cực đến
tốc
độ tăng trưởng
kinh
tế.
Ngoài
ra
tình
trạng
nhập
siêu không tránh
khỏi trong
thời
kì đầu công
nghiệp
hoa đất
nước càng làm
trầm
trọng
hoa tình
trạng
thiếu
hụt ngoại tệ
trong
thời
gian
dài.
Vấn
đề trên có
thể
đưực
giải
quyết
bằng
thu
hút vốn ngoài
nước,
trong
đó FDI là một
nguồn
vô cùng
quan
trọng
đưực các nước ưu tiên
thu hút.
FDI
thể hiện
sự ưu
việt
hơn hẳn so
với
các hình
thức
huy động khác
bởi theo
một
số
công trình nghiên cứu đã
chỉ rõ,
FDI nói
chung
và
nhất
là FDI
từ
các công
ty
đa
quốc
gia
(TNCs)
có tác động:
Ì.
Kích thích các công
ty
tham
gia
đấu tư vào nước chủ nhà
2.
Là một tác nhân dể
thu
hút vốn
viện trự
phát
triển
(ODA)
từ
các nước
và các
tổ
chức
quốc
tế
3.
Tăng thêm
tỉ lệ
huy động vốn
trong
nước:
các nước đang phát
triển
và
đang
chuyển
đổi
thường
thiếu
một
thị
trường vốn có các dòng vốn đưực chu
chuyển
một cách
tự
do để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư và
kinh
doanh.
FDI
cung
cấp các phương
tiện
để kích thích
thị
trường vốn
hoạt
động,
đồng
thời
các
doanh
nghiệp
FDI có tác động thúc đẩy thương mại
quốc
tế,
tạo
nguồn
ngoại
tệ thặng
dư cho
thị
trường vốn
trong
nước.
Hơn
nữa,
các
doanh
nghiệp
FDI
đưực
tham
gia
vào
thị
trường
chứng
khoán sẽ
tạo
điều
kiện
cho
thị
trường
này mở
rộng
nhanh
chóng.
NGUYÊN
THỊ
THANH- PHÁP
I
ữtO
19
ữìOPi
LUẬN
TÓT
NGHIỆP
m
\/ÀONQÀWỈ>UUCH\/lệĩHfiM
- Nâng cao năng
lực
sẩn xuất và cóng
nghệ:
cấc nhà đầu tư
khi
bỏ vốn
sản xuất
ở nước ngoài có
thể
mang
theo
những
công
nghệ,
kĩ
thuật
mới,
hiện
đại,
nhất
là
khi
họ
muốn
đầu tư vào một số dự án có khả năng
sinh
lời
lớn
như
điện
tủ, viễn
thông
Đổng
thòi chính phủ các nước
nhận
đầu tư
cũng
thường
có
những
chính sách ưu
đãi, khuyến
khích các nhà đẩu tư bỏ vốn đầu tư vào
một
số
lĩnh
vực công
nghiệp,
cơ sở hạ
tầng
quan
trọng
để đẩy
nhanh
sự phát
triển
của nhưng ngành này. Do đó, nước
tiếp
nhận
đầu tư có
thể
tiếp
nhận
được
những
kĩ
thuật
mới,
những
công
nghệ
tiên
tiến,
góp
phần
cải
thiện
đáng
kể
cơ sở hạ
tầng,
phát
triển
công
nghệ
nói riêng và phát
triển
kinh
tế
nói
chung,
đồng
thời
tạo ra
các
điều
kiện kinh
tế-
kĩ
thuật
cho
việc
thực
hiện
cuộc
cải
biến
cơ cấu
theo
hướng
giảm tỉ
trọng
nóng
nghiệp,
tăng
tỉ
trọng
công
nghiệp
và
dịch vụ
- Gia tăng kim ngạch xuất
khẩu:
gia
tăng
xuất
khẩu
là hướng đi
quan
trọng trong
bước đầu CNH-HĐH
đất nước.
Kinh
nghiệm
của các nước Đông
Á là công
nghiệp
hóa hướng
ngoại, coi
trọng
xuất
nhập khẩu
hàng
hoa, dịch
vụ,
mở của
thị
trường
với lộ
trình thích hợp để
hội
nhập
có
hiệu
quả
với
kinh
tế
khu
vực và
thế
giới.
Các
doanh
nghiệp
FDI đang đóng góp tích cực cho quá
trình đó. Với
Trung
Quốc, một
trong lo
nền
kinh
tế
hàng đầu
thế
giới,
kim
ngạch
xuất
khẩu
đã tăng liên
tục
trong
hơn
hai thập
kỉ vừa qua và
đạt
250
tỉ
USD vào năm
2002,
trong
đó hơn 50% là của các
doanh
nghiệp
FDI,
năm
2002 cũng
là năm
Trung
Quốc
vượt
Mỹ,
trở
thành nước đứng đầu
thế
giới
về
thu
hút
FDI.
Các
doanh
nghiệp
FDI
cũng
góp
phần quan
trọng trong việc
gia
tăng kim
ngạch
xuất
khẩu
của
Việt
Nam. Toàn bộ đẩu thô
xuất
khẩu-
mặt
hàng
chiếm
tỉ trọng rất
lớn
trong
cơ
cấu
xuất
khẩu
của
Việt
Nam- là
sản
phẩm
của
doanh
nghiệp
liên
doanh.
Ngoài dầu
thô, tỉ
trọng
xuất
khẩu
của
doanh
nghiệp
FDI liên
tục
tăng và đã
chiếm
gần một nủa
trong
tổng
kim
ngạch
của
cả
nước
(từ
4% năm 1991 lên
33,8%
năm
2000,
riêng
đối với
sản phẩm cóng
nghiệp
chế
tạo,
các con
số
tương ứng là 3.28% và
56,8%)
NQUÝỀN
THI
THANH- PHÁP
I
mo
20
KHOA UIẬmớì
NGHIỆP
roi
vào
HOÀNH
DU
LÍCH
MỆT NAM
-
Tạo
việc
làm và
nâng cao năng
lực
quẩn
lí
và tay nghề người lao
động: Các dự án đầu tư nước ngoài
thu
hút một lượng
lớn lao
động
trực
tiếp
và
tạo ra
nhiều
việc
làm
cho các
dịch
vụ liên
quan.
Thông qua
việc
thực
hiện
các
dự
án
đầu tư
trực
tiếp
nước ngoài
có
thể
khiến
cán
bộ,
công nhân
cùa
nước
nhận
đầu
tư
qua
việc
làm
việc
và
học
hỏi
kinh
nghiệm
của
các
chuyên
gia
nước
ngoài
mà
trưởng thành
hem
về năng
lực
quữn
lí
phù hợp vói nền sữn
xuất
hiện đại,
hình thành một
lực
lượng công nhân
kĩ
thuật
lành
nghề,
một
đội
ngũ
quữn
lí
tinh
thông.
- Hiệu
quả
kinh
tế
xã hội tổng
quát:
Ngoài tác động
đối với
các
vân
đề cụ
thể
trên,
FDI còn
có
liên
quan những chỉ
tiêu
tổng
quát về
kinh tế-
xã
hội
như tăng năng
suất
lao
động xã
hội,
cân
bằng
cán cân
thanh
toán
quốc
tế,
các định
chế
tiền tệ,
tín dụng,
đóng góp
nguồn
thu
ngân sách
Các
doanh
nghiệp
FDI tác động đến cán cân
thanh
toán đặc
biệt
của
các
nước
đang phát
triển.
Riêng vói
Việt
Nam,
là nước
nhận
đầu
tư,
hàng năm,
một
lượng
vốn
từ
2-3
tỉ
USD
đưa vào
Việt
Nam,
trong
đó không
dưới
30%
bằng
ngoại
tộ
mạnh
để
trang
trữi
chi
phí ban
đầu
trong
nước.
Trong
quá trình
kinh
doanh
nhờ
tăng kim
ngạch
xuất
khẩu,
các
doanh
nghiệp
roi đã
tạo ra
một lượng
ngoại
tệ
thặng
dư
tham
gia
vào
việc
cân
bằng
cán cân
thanh
toán
quốc
tế.
Mặc
dù
hiện
nay
vẫn
còn có
nhiều
ý
kiến nghi
ngờ về tác động tích cực
của
FDI đến các nước
nhận
đầu
tư,
ý
kiến
nhìn
nhận
roi
như một công cụ
khai
thác
quốc
tế
của
các
tập
đoàn đa
quốc
gia, tuy
nhiên xu hướng
thu
hút FDI vào
phát
triển
kinh tế trong
nước
vẫn
mang
tính
sống
còn
vói
nền
kinh tế
nhiều
nước.
Chính vì
thế
vịêc
thu
hút
và
nâng cao
việc
sử
dụng
vốn
roi
vẫn là một
trong
những nhiệm
vụ
chiến
lược
mà
nước
ta
cần
thực
hiện trong
thời
gian
tới
m. VAI TRÒ VÀ THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO KINH
DOANH
DU
LỊCH
TRÊN THẾ GIỚI:
Khi
đời sống
con
người
được nâng
cao, khi
những
nhu cầu về
vật
chất
đơn
thuần
được
thoa
mãn
thì
du
lịch trở
thành một nhu cầu cấp
thiết.
Từ
nhiều
NGUYÊN
THI
THANH- PHÁP
í
ữtO
21
ữìOPi UiẬH
lối
NGHIỆP
m
ỵẢO
NGÀNH
DU UCH MỆT MU
thập
kỉ
nay,
số
người
đi du
lịch
ngày càng đông. Do đó, du
lịch
đã
trở
thành
ngành
kinh tế
quan
trọng trong
cơ cấu
kinh tế
của
nhiều
nước và đóng góp
tích cực vào sự phát
triển
của kinh thế
giới
nói
chung.
Năm
2004,
mặc dù
dịch
bệnh
SARS
hoành hành ở
nhiều
nước châu Á nhưng
doanh
thu từ
du
lịch
tính
trên toàn
thế
giới
vẫn
đữt
6 220
tỉ
USD và
theo
dự đoán của
hội
đổng du
lịch
và
lữ
hành
thế
giới
(WTTC),
năm nay con
số
này
sẽ đữt
7 220
tỉ
USD.
Khi thị
trường du
lịch trở
nên sôi
động,
nhiều
nước đã
nhanh
chóng đề
ra
các
chiến
lược phát
triển
du
lịch.
Tuy
nhiên,
nghịch
cảnh
là hầu
hết
những
cảnh
quan
thiên
nhiên,
những
di
sản văn hoa đều
tập trung
ở các nước nghèo.
Những sản phẩm du
lịch
do đó chỉ mới ở
dững
tiềm
năng, cần được đầu tư,
khai
thác.
Vấn đề nan
giải
là các nước
khai
thác
tiềm
năng đó như
thế
nào
khi
mà
nguồn
vốn
tự
có quá eo
hẹp, kinh
nghiệm
quản
lí ít
ỏi,
trình độ
người
lao
động
bị hữn
chế,
cơ sở
vật chất
thì nghèo nàn. Do đó, du
lịch
được đưa vào
danh
sách
những
ngành
nghề
khuyến
khích kêu
gọi
đầu tư nước ngoài. Các
nhà đầu tư đã không bỏ qua cơ
hội
này để rót vốn vào các
trọng
điểm
du
lịch
và
thực tế
đã
chỉ ra
một vài tác
dộng
tích cực của họ
đối với
nền du
lịch
của
nước
nhận
đầu tư.
Trước
hết, việc
kêu
gọi
vốn FDI vào du
lịch
sẽ
mang
lữi
cho cấc nước
nhận
đầu tư một
nguồn
vốn
dồi dào. Khi
mà hầu
hết
các nước đang phát
triển
đều trong
tình
trững
căng
thẳng
về vốn do nhu cầu đầu tư cho sản
xuất trong
nước
và xây
dựng
cơ bản thì
việc
đầu tư hàng trăm
triệu
đồng cho các dự án
du lịch
không
chắc
chắn
về khả năng
thu hồi
vốn là điều không
tưởng.
Thử
hỏi
các nhà lãnh đữo của đặc khu
kinh tế
Hổng Rông có đủ
dũng
cảm để đầu
tư 3,14
tỉ
USD vào một cóng viên
giải
trí như công viên
Walt
Disney
khai
trương ngày 12/9/2005 vừa
qua,
hay các nhà lãnh đữo của
Singapo
có
thể
quyết
định đổ 134
triệu
USD vào một vòng
quay
cao
nhất
thế
giới
để
rồi
sau
đó nó
nhanh
chóng
bị
phá
kỉ lục bời
một dự án vòng
quay
khác ở Thượng
Hải,
Trung
Quốc
với chi
phí lên đến 314
triệu
USD. Đó
thực
sự
là
những
dự án đầu
tư mữo
hiểm
có quy mô quá
lớn
vượt
qua
nguồn
ngân sách hữn chế của các
NQUÝẼN
THỊ
THANH- PHÁP
I
mo
22
KHOA LUẬN
TÓT
NGHIỆP
địa
phương không nói gì đến khả năng tài chính của
những
công
ty
cá nhân
đơn
lẻ.
Các
nguồn
vốn
dổi
dào đó đều là vốn
từ
các
tập
đoàn
kinh tế
xuyên
quốc
gia
(TNCs)
đầu tư
dưới
hình
thức FDI.
Thứ
hai
là
việc
đầu tư vào du
lịch
đã kéo
theo
sự phát
triển
của
cơ sợ hạ
tầng
cũng
như cơ sợ
vật chất
của ngành du
lịch.
về cơ sợ hạ
tầng
các nước
nhận
đầu tư dã có sự
biến
chuyển
lớn.
Ngay sau
khi
được đánh giá như là
điểm
thu
hút FDI
thứ
tư trên
thế
giới
(sau
Mỹ,
Trung
Quốc, Ân Độ)
trong
giai
đoạn
2004-4007,
Chính phù Thái
lan
đã có một
loạt
các động thái để nâng
cấp
cơ sợ hạ
tầng.
Cụ
thể trong
năm
2004,
Chính phủ đã tuyên bố đẩu tư 22.5
tỉ
USD vào hệ
thống
đường
sắt,
3.5
tỉ
vào hệ
thống
tàu siêu
tốc
bullet
train,
10
tỉ
vào hệ
thống
đường
cao
tốc
và 2.5
tỉ
vào cơ sợ hạ
tầng của
thành phố
vệ
tinh
Băng Cốc. Đặc
biệt,
cùng
với
sự
tài trợ
của Uy ban các vấn đề
kinh tế
xã
hội
Châu Á Thái Bình Dương của Hoa Kì
UNESCAP,
Thái Lan đã
tham
gia
kí
hiệp
định xây
dựng
tuyến
đường
sắt
xuyên Á dài
18,000
km và
tuyến
xa
lộ
châu Á dài
140,000
km. về cơ sợ
vật chất trong
ngành, đáng kể
nhất
là một
loạt
các khách
sạn
hạng
sang
đã được xây
dựng
tại
các khu du
lịch trọng
điểm
ố các nước
nhận
đầu tư
từ
nguồn
vốn
của
các nhà đầu tư nước
ngoài.
Các nhà
đầu
tư khách
sạn nổi
tiếng
nhất phải
kể đến là các
tập
đoàn khách
sạn
đa
quốc
gia
như
Accor,
Holiday lim,
Hilton,
.Tại thị
trường
Singapo
đang
diễn
ra
cuộc
cạnh
tranh quyết
liệt
giữa hai tập
đoàn
lớn
là
tập
đoàn
Millennium
and
Copthorn
Hotel
(M&C) và
tập
đoàn
Accor
của
Pháp.
M&c
với
88 khách sạn
trải
dài trên 16 nước trên
thế
giới
đang
chiếm
vị trí đứng đầu. Tuy nhiên,
Accor
đang gấp rút
thực hiện
kế
hoạch
cho một
chuỗi
các khách sạn
hạng
thường
và
trung
phục
vụ cho các hãng hàng không giá
rẻ
nhằm
chiếm
vị trí
số
một
của
tập
đoàn
này.
Không
những
có mặt ợ
Singapo
mà
Accor
còn
quản
lí
hàng
loạt
khách sạn
dưới
nhãn
hiệu Novotel
và Soíitel ợ
nhiều
nước châu Á
khác.
Riêng
tại
Indonesia,
Accor
đang sợ hữu 300 khách sạn trên
khắp
cả
nước
và đang
tiến
hành xây
dựng
thêm 3 khách sạn nữa ợ
Bali
gồm
Mercure
resort
Sanur,
Soíìtel
Seminyak
và
Ebis Legian.
HQXNỄH
THỊ
THANH-
PHÁP
í
m
23