Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Thực trạng tội phạm cố ý gây thương tích ở nước ta hiện nay và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.76 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Đặt vấn đề..............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu......................................................................2
4. Bố cục tiểu luận.....................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................3
1. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH.....3
1.1. Khái niệm và các quy định chung của tội cố ý gây thương tích.....3
1.1.1. Khái niệm........................................................................................3
1.1.2. Quy định chung về cố ý gây thương tích........................................3
1.2. Mức hình phạt áp dụng đối với các tội danh cố ý gây thương tích
.....................................................................................................................6
1.2.1. Tội cố ý gây thương tích.................................................................6
1.2.2. Người phạm tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần
kích động mạnh.........................................................................................8
1.2.3. Người phạm tội cố ý gây thương tích do vượt q phịng vệ chính
đáng hoặc do vượt q mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội............8
1.2.4. Người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe người khác........................................................................................9
1.3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định..........10
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ MỘT SỐ
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH............................................................................................12
2.1. Thực trạng nguyên nhân của tội phạm cố ý gây thương tích......12
i


2.1.1 Các nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ các yếu tố tiêu cực
thuộc môi trường sống gia đình, nhà trường...........................................12
2.1.2. Các nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ những hạn chế trong


quản lý nhà nước, đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ
pháp luật..................................................................................................12
2.1.3. Các nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ đặc điểm địa lý, dân
cư, kinh tế – xã hội, văn hóa tàn dư của chế độ cũ..................................14
2.1.4. Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tởn hại cho sức khỏe của người khác từ phía cá nhân người
phạm tội này............................................................................................15
2.2. Một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong đấu tranh với loại tội
phạm cố ý gây thương tích.....................................................................15
2.3. Một số giải pháp phòng, chống tội phạm cố ý gây thương tích. . .17
2.3.1 Giải pháp loại trừ những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc môi
trường gia đình........................................................................................17
2.3.2 Giải pháp loại trừ những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc môi
trường nhà trường....................................................................................18
2.3.3. Giải pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cớ ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.............18
KẾT LUẬN....................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................21

ii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CYGTT

Cố ý gây thương tích

BLHS

Bộ luật hình sự


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

iii


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Quyền con người là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, được pháp
luật quốc tế và pháp luật mỗi quốc gia thừa nhận, ghi nhận, bảo đảm và bảo
vệ vơ điều kiện; cịn quyền được bảo hộ về sức khỏe là một trong các quyền
cơ bản của con người, của công dân. Tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013, nhà
làm luật nước ta cũng quy định rằng mọi người có quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể,
sức khỏe.
Cơng tác đấu tranh phịng, chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác thời gian gần đây đã đạt được những kết quả
nhất định, đáng khích lệ. Tuy nhiên trước diễn biến phức tạp của tình hình tội
phạm, vẫn cần thêm nhiều biện pháp hiệu quả, khả thi để phòng ngừa có hiệu
quả loại tội phạm này. Nhiệm vụ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải nghiên
cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.
Qua quá trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Thực
trạng tội phạm cố ý gây thương tích ở nước ta hiện nay và giải pháp” để có
cái nhìn sâu và rộng hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Bài luận hướng mục đích vào làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật

về tội cố ý gây thương tích hoặc, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với
người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối
với tội cố ý gây thương tích.

1


3. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, tiểu luận sử dụng những phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng
trong đề tài này bao gồm phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích tổng hợp và đối chiếu.
4. Bố cục tiểu luận
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận, cũng như các phần phụ lục
khác, kết cấu đề tài gồm 2 chương như sau:
1. Một Số Lý Luận Về Tội Phạm Cố Ý Gây Thương Tích
2. Thực Trạng Vấn Đề Cố Ý Gây Thương Tích Và Một Số Đề Xuất
Giải Pháp Nhằm Giảm Tội Phạm Cố Ý Gây Thương Tích
Do kiến thức và kinh nghiệm chưa nhiều, lại bị hạn chế về thời gian
nên tiểu luận không tránh khái những khiếm khuyết. Với tinh thần thực sự
muốn hiểu biết thêm về đề tài và muốn có nhiều kiến thức thực tế, em rất
mong nhận được sự quan tâm, trao đổi và góp ý của các thầy cơ giáo và các
bạn để hồn hiện hơn nữa bài tiểu luận cũng như kiến thức của mình.

2


NỘI DUNG
1. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG

TÍCH
1.1. Khái niệm và các quy định chung của tội cố ý gây thương tích
1.1.1. Khái niệm
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) đã dành một chương riêng tiếp sau chương các tội xâm phạm
an ninh quốc gia quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người, trong đó tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác được quy định tại Điều 134, Chương XIV. Mặc dù vậy,
BLHS nước ta vẫn chưa đưa ra khái niệm thế nào là tội CYGTT hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác. Trong khi đó, trong khoa học luật hình sự
nước ta có khá nhiều quan niệm về tội này. Chẳng hạn, có quan điểm cho
rằng: “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi
tác động trái pháp luật đến thân thể của người khác, gây thiệt hại cho sức
khỏe dưới dạng thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong các trường hợp luật định”
1.1.2. Quy định chung về cố ý gây thương tích
Cố ý gây thương tích là hành vi làm tổn hại đến sức khỏe của người
khác, được thể hiện dựa vào những thương tích cụ thể.
Theo quy định của pháp luật hiện hành tội cố ý gây thương tích phổ
biến được chia thành các tội danh như sau:
 Tội cố ý gây thương tích được quy định tại (Điều 134 Bộ Luật
Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017)
 Tội cố gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
trong trạng thái tinh thần kích động mạnh (Điều 135 Bộ Luật Hình sự 2015
sửa đổi bổ sung 2017)
3


 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng hoặc do vượt q mức

cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi
bổ sung 2017)
 Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ
sung 2017)
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội quy định tại Điều 134 BLHS 2015 có hành vi tác động trái pháp
luật đến thân thể người khác gây thiệt hại dưới dạng thương tích hoặc sức
khỏe theo quy định của pháp luật
Dấu hiệu của tội phạm này như sau:
 Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi trái pháp luật
tác động đến thân thể của người khác
 Hậu quả gây ra bởi hành vi là nguy hiểm cho xã hội, để lại
thương tích cho nạn nhân gây suy giảm sức khỏe cho họ như rách cơ, dập lá
lách, gãy tay, gãy chân…
 Là tội có cấu thành tội phạm vật chất nên hậu quả là dấu hiệu
chính của định tội.
 Dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp phạm tội nguy
hiểm quy định tại (Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015)
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Theo quy định tại Điều 135 BLHS 2015, là hành vi cố ý gây thương
tích cho người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên trong trạng thái bị kích
động mạnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra.
Dấu hiệu định tội của trường hợp này là:
4


 Hành vi khách quan của tội phạm là cố ý tác động trái pháp luật
đến thân thể người khác;

 Người phạm tội thực hiện hành vi trong trạng thái bị kích động
mạnh;
 Nguyên nhân gây ra tinh thần kích động mạnh là do hành vi trái
pháp luật của nạn nhân gây ra. Hậu quả thương tích gây ra từ 31% trở lên.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do
vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng hoặc do vượt q mức cần thiết khi bắt
giữ người phạm tội
Tội phạm quy định tại Điều 136 BLHS 2015 được thực hiện trong
trường hợp vì bảo vệ lợi ích của nhà nước, tổ chức các nhân hoặc lợi ích của
chính mình mà thực hiện hành vi chống trả trên mức cần thiết không phù hợp
với tính chất và mức độ nguy hiểm.
 Hành vi khách quan của tội phạm cố ý tác động trái pháp luật
đến thân thể của người khác trong điều kiện:
 Đang có hành vi tấn cơng nguy hiểm trái pháp luật diễn ra xâm
phạm đến lợi ích của nhà nước, tổ chức các nhân hoặc lợi ích của chính mình.
 Người phạm tội đã có hành vi phịng vệ trước sự tấn công của bị
hại nhằm gạt bỏ sự tấn cơng.
 Hành vi phịng vệ vượt q giới hạn cần thiết, khơng phù hợp với
tính chất và mức độ nguy hiểm gây hậu quả thương tật từ 31% trở lên cho nạn
nhân.
Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
khi thi hành công vụ
Theo quy định tại Điều 137 BLHS 2015, là hành vi khi thực hiện công
vụ mà sử dụng vũ lực ngoài những trường hợp được cho phép gây hậu quả
thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác.
Dấu hiệu của tội phạm được thể hiện như:
5


Nạn nhân của hành vi này là những người vi phạm pháp luật và bị

người thi hành công bắt giữ. Cũng có trường hợp người bị hại khơng phải là
người có hành vi phạm pháp nhưng bị xâm hại vì lỗi của người thi hành công
vụ.
Hành vi khách quan của tội phạm là sử dụng vũ lực ngoài những trường
hợp được cho phép theo quy định như sử dụng vũ khí, cơng cụ hỗ trợ gây hậu
quả thương tật từ 31% trở lên cho nạn nhân.
Khác nhau quan trọng nhất giữa các tội danh trên là mục đích của
người thực hiện hành vi, nó có ý nghĩa quan trọng để xác định người phạm tội
thuộc vào loại tội danh nào và khung hình phạt ra sao. Tuy nhiên giới hạn
giữa các tội danh này rất mong manh, dẫn đến có rất nhiều vụ án xác định sai
tội danh là làm tổn hại nghiêm trọng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của
người phạm tội.
1.2. Mức hình phạt áp dụng đối với các tội danh cố ý gây thương tích
1.2.1. Tội cố ý gây thương tích
Bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm đối với người có hành vi cố ý gây thương tích bao gồm các hành
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
 Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 2
người trở lên;
 Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác;
 Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
 Phạm tội 02 lần trở lên;

6


 Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ biết là đã có thai, người già

yếu, ốm đay hoặc người khác khơng có khả năng tự vệ;
 Đối với ơng, bà, cha, mẹ, người ni dưỡng mình, thầy giáo, cơ
giáo của mình;
 Có tổ chức;
 Lạm dụng chức vụ, quyền hạn;
 Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp
hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
 Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương
tích hoặc gây tổn hạu sức khỏe do được th;
 Có tính chất cơn đồ;
 Tái phạm nguy hiểm;
 Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do cơng vụ của
nạn nhân.
Ngồi ra, người phạm tội này có thể bị mức hình phạt như sau:
Bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm khi phạm tội gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến
30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e,
g, h, i, k, l, m, n, o Khoản 1 Điều này thì Bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm khi
phạm tội gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 31% đến 60%;
Bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm khi phạm tội gây thương tích hoặc
thiệt hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%
nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h,
i, k, l, m, n, o Khoản 1 Điều này

7


Bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm khi phạm tội gây thương tích hoặc tổn

hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, nhưng
không thuộc vào vùng mặt hoặc dẫn đến chết người;
Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc chung thân trong trường hợp
phạm tội mà dẫn đến làm chết hai (02) người trở lên hoặc gây thương tích, tổn
hại cho sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi
người từ 61% trở lên hoặc gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên thì
1.2.2. Người phạm tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần kích
động mạnh
Được quy định tại Điều 135 BLHS 2015 thì bị các hình thức chế tài
được quy định cụ thể như sau:
Bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm đối với người có hành vi gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến
60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc với người thân thích của
người đó.
Người phạm tội bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm nếu thuộc một trong
các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 135 BLHS cụ thể :
Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể mỗi người
từ 31% đến 60%;
Gây thương tích hoặc hây tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên.
Bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm trong trường hợp phạm tội dẫn đến
chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người
trở lên mà tỷ lệ tổn thương của mỗi người 61% trở lên.
8


1.2.3. Người phạm tội cố ý gây thương tích do vượt q phịng vệ chính đáng

hoặc do vượt q mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
Quy định tại Điều 136 BLHS thì bị các mức chế tài được quy định cụ
thể như sau:
Bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm đối với người có hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31%
đến 60% do vượt q phịng vệ chính đáng hoặc do quá mức cần thiết bắt giữ
người phạm tội.
Người phạm tội này nếu thuộc một trong các trường hợp quy định sau
đây thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm, cụ thể:
 Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi
người từ 31% đến 60%;
 Gây thương tích hoặc hây tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
Bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm trong rường hợp phạm tội dẫn đến
chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người
trở lên mà tỷ lệ tổn thương của mỗi người 61% trở lên.
1.2.4. Người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
người khác
Bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phat tù từ 06 tháng
đến 03 năm đối với người trong khi thi hành công vụ dùng vũ lực ngoài
những trường hợp mà pháp luật cho phép gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
Bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với người phạm tội gây tổn hại
đối với 02 người trở lên, mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên; gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ
9


thể từ 61% trơ lên; gây thương tích đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ biết

mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khơng có khả năng tự
vệ.
Ngồi ra, người phạm tội cón có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
1.3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định
Bên cạnh định khung hình phạt của từng tội danh, khi xét xử vụ án
Hình sự, Thẩm phán sẽ xem xét tới những căn cứ làm giảm hình phạt cho bị
cáo theo quy định của pháp luật. Đó dựa trên chính sách khoan hồng và nhân
đạo của nhà nước và Luật pháp.
Theo quy định của Bộ Luật Hình sự, các tình tiết giảm nhẹ luật định
được quy định tại điều 51 BLHS:
 Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội
phạm;
 Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc
khắc phục hậu quả;
 Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phịng vệ chính
đáng;
 Phạm tội trong trường hợp vượt q yêu cầu của tình thế cấp
thiết;
 Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội;
 Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi
trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
 Phạm tội vì hồn cảnh đặc biệt khó khăn mà khơng phải do mình
tự gây ra;
 Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
10


 Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

 Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
 Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà
không phải do lỗi của mình gây ra;
 Phạm tội do lạc hậu;
 Người phạm tội là phụ nữ có thai;
 Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
 Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt
nặng;
 Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
 Người phạm tội tự thú;
 Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
 Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm
phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
 Người phạm tội đã lập cơng chuộc tội;


Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất,

chiến đấu, học tập hoặc công tác;
 Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ, người có
cơng với cách mạng.
 Khi quyết định hình phạt, Tịa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết
khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
 Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu
định tội hoặc định khung thì khơng được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi
quyết định hình phạt
Như vậy, khi làm việc với cơ quan chức năng, người phạm tội phải
thành khẩn khai báo và hợp tác để được hưởng chính sách khoan hồng của
nhà nước. Bên cạnh đó, cần có sự tham gia của Luật sư bào chữa cho bị cáo.

11


Việc góp mặt của luật sư khi tham gia vụ án với tư cách người bào chữa
không chỉ xác định chính xác tội danh mà cịn khai thác tối đa các tình tiết
giảm nhẹ hình phạt cho bị can, bị cáo.
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM TỘI PHẠM CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH
2.1. Thực trạng nguyên nhân của tội phạm cố ý gây thương tích
2.1.1 Các nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ các yếu tố tiêu cực thuộc
môi trường sống gia đình, nhà trường
Trong quá trình giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khoẻ của người khác, các cơ quan bảo vệ pháp luật tại đã có
những phân tích về các ảnh hưởng tiêu cực trong môi trường gia đình, nhà
trường. Gia đình ko tôn trọng, quan tâm lẫn nhau, gia đình có người thân vi
phạm pháp luật, gia đình không quan tâm con cái, nhà trường buông lỏng
quản lý, tình trạng bạo lực học đường, v.v. Có tác động lớn đến hành vi phạm
tội đồng thời cảnh báo cho gia đình, nhà trường người thân của bị cáo, người
tham gia phiên tòa biết nhằm tuyên truyền tác hại của chúng. Tuy nhiên, nhận
thức này chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức về các tác động cụ thể của từng vụ
việc mà chưa có nghiên cứu tởng kết hay đánh giá khái quát thành nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khoẻ của người khác.
2.1.2. Các nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ những hạn chế trong quản
lý nhà nước, đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
Trong những năm qua cơng tác phịng, chống tội phạm đã đạt được
những hiệu quả nhất định, góp phần đưa kinh tế, xã hội ngày càng phát triển.
Bên cạnh những kết quả đó, chủ thể phịng, chống tội phạm nói chung,
tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

12


nói riêng vẫn cịn một số những hạn chế nhất định thông qua công tác của các
chủ thể: cơ quan Cơng an, cơ quan Viện kiểm sát, cơ quan Tịa án.
+

Đới với cơ quan Cơng an: Đây lực lượng nịng cốt, chủ cơng

trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm. Qua công tác thực tiễn, lực
lượng Công an luôn tiên phong trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm, bảo vệ an ninh trật tự, giảm hậu quả của tình hình tội phạm gây ra. Tuy
nhiên, cũng qua công tác đó cịn có một số những thiếu sót như:
-

Cơng tác tiếp nhận, xử lý tin báo cáo tố giác tội phạm: còn nhiều

hạn chế, bất cập khi một số cán bộ chưa tiếp nhận tin một cách đầy đủ, trong
quá trình tiêp nhận chưa làm đúng trách nhiệm.
-

Công tác tuyên truyền giáo dục hướng dẫn quần chúng nhân dân

còn gặp nhiều khó khăn, chưa có hình thức phong phú, phù hợp với quần
chúng nhân dân. Đặc biệt một số địa bàn là vùng sâu, vùng xa hay những nơi
có công nhân ở nhưng không quản lý tốt nên công tác tun trùn cịn tờn tại
những hạn chế nhất định.
-

Cơng tác phòng ngừa chưa đảm bảo, tại những nơi nhà trọ, khu


công nghiệp vẫn xảy ra các vụ như cố ý gây tích, trộm cắp…các biện pháp
phòng ngừa chưa thực sự phù hợp với địa bàn.
+

Đối với cơ quan Viện kiểm sát: Là cơ quan thực hiện quyền công

tố và các hoạt động tư pháp do pháp luật qui định. Bên cạnh những kết quả đã
được như thực hiện công tác xét xử đảm bảo đúng qui định pháp luật, xử lý
đúng người đúng tội, v.v, thì còn bộc lộ một số hạn chế như:
-

Chưa chú ý đến các biện pháp phịng ngừa tình hình tội phạm tội

phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác nói riêng.

13


-

Một số ít kiểm sát viên khi thực hiện công tác có tinh thần, thái

độ, trách nhiệm chưa cao, trong công tác chưa tập trung nghiên cứu hồ sơ, bồi
dưỡng nâng cao năng lực trong công tác.
+

Đối với cơ quan Tòa án: Là một trong những cơ quan tư pháp,


Tòa án có vai trị rất quan trọng trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm thơng qua cơng tác xét xử. Thực tiễn cơng tác, tịa án đã thực hiện đúng
trách nhiệm, qùn hạn của mình góp phần trong cơng tác xử lý tội phạm
nghiêm minh. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục như:
-

Đội ngũ thẩm phán có chất lượng khơng đờng đều, một số thẩm

phán chưa tập trung nghiên cứu hồ sơ vụ án, trình độ pháp ḷt cịn hạn chế,
chưa tập trung bời dưỡng nâng cao năng lực trong công tác.
2.1.3. Các nguyên nhân và điều kiện xuất phát từ đặc điểm địa lý, dân cư,
kinh tế – xã hội, văn hóa tàn dư của chế độ cũ
Đối với ảnh hưởng của đặc điểm địa lý, dân cư, kinh tế – xã hội:
Các cơ quan chức năng tại Quận 6 đã xác định được những hạn chế về
đặc điểm dân cư phân bổ không đều, dân di cư từ các tỉnh khác đến lao động
chưa tập trung dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát con người, nhân khẩu,
tình trạng thất nghiệp, lối sống tiêu cực, bạo lực, nhiều vấn đề mâu thuẫn, bức
xúc chưa được giải quyết triệt để.
Đối với ảnh hưởng văn hóa:
Các cơ quan chức năng tại Quận 6 đã xác định văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã
hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là những mâu thuẫn xung đột văn hóa trong
cuộc sống thường ngày, cũng như cách hành xử của người dân với nhau.
Những hiện tượng tiêu cực này trong việc xâm nhập của các l̀ng văn hóa
bạo lực, độc hại, kết hợp với những tư tưởng cổ hủ. Tất cả những yếu tố đó
tác động và có ảnh hưởng rất xấu đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
tâm lý, cách ứng xử, giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống của một bộ phận
14



nhân dân. Lối sống ích kỷ, vụ lợi, gia trưởng, cơ hội, thích sử dụng bạo lực có
dấu hiệu tăng lên nhanh chóng.
Đới với ảnh hưởng từ di hại của chế độ cũ:
Cơ quan chức năng chưa làm rõ được các ảnh hưởng từ di hại của chế
độ cũ để lại, mặc dù đây là một thực tế khách quan cần phải được xem xét bởi
nó cũng là một trong những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm,
trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác. Phải chăng đó là lối sống gia trưởng, trọng nam khinh nữ, mê tín dị
đoan… đang ảnh hưởng tới mục tiêu xây dựng lối sống văn minh, tiến bộ,
bình đẳng xã hội mà Đảng, Nhà nước ta đang theo đuổi.
2.1.4. Các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tởn hại cho sức khỏe của người khác từ phía cá nhân người phạm
tội này
Nghiên cứu các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khoẻ của người khác cho thấy Chính quyền cũng rất quan tâm đến các yếu tố
từ phía cá nhân người phạm tội. Tuy nhiên, chủ yếu chỉ đề cập đến dấu hiệu
đặc điểm nhân thân có ý nghĩa pháp lý hình sự trong việc định tội danh và
quyết định hình phạt cũng như một số yếu tố thuộc về lý lịch tư pháp của
người phạm tội mà chưa chú trọng đến các đặc điểm khác như thói quen, sở
thích của họ. Trong khi đó những yếu tố trên lại vô cùng quan trọng trong
việc xác định nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm cũng như
trong phòng ngừa tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác.
2.2. Một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong đấu tranh với loại tội
phạm cố ý gây thương tích
Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) quy định về
khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại: Đối với các vụ án cố ý gây thương tích
thuộc khoản 1 chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Do đó, khi có
15



vụ án cố ý gây thương tích xảy ra Cơ quan điều tra phải xác định cụ thể các
điều, khoản, nếu thuộc khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự thì phải có u
cầu của người bị hại mới khởi tố vụ án. Tuy nhiên, thực tế có nhiều vụ cố ý
gây thương tích xảy ra nhưng khơng xác định được ngay tỉ lệ thương tật hoặc
bị hại chưa hoặc khơng có u cầu khởi tố nên Cơ quan điều tra không bắt,
tạm giữ, tạm giam đối tượng được ngay sau khi gây án, từ đó gây bức xúc
trong quần chúng Nhân dân.
Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
“Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105,
106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được
khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của
người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất.” Đó là các tội xâm phạm sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền nhân
thân, quyền sở hữu công nghiệp gắn với mỗi cá nhân như: Tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104); Tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105),... Theo quy định nêu trên thì Cơ
quan điều tra chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại đối với các tội
thuộc khoản 1 các điều luật quy định về tội phạm tương ứng. Quy định này
của BLTTHS nhằm bảo vệ bí mật đời tư và danh dự của người bị hại, đều là
các tội ít nghiêm trọng nên có thể giải quyết bằng con đường hành chính, dân
sự, giảm bớt việc giải quyết bằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Quy định
về quyền nêu trên cho người bị hại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đã dành
cho người bị hại quyền quyết định việc có yêu cầu xử lý hành vi phạm tội của
người phạm tội hay khơng sau khi cân nhắc quyền lợi của mình giữa việc xử
lý hành vi phạm tội với việc không xử lý hành vi phạm tội bằng vụ án hình
sự. Với quy định này, lợi ích của người bị hại đã được ưu tiên trước lợi ích
của xã hội khi xem xét xử lý hành vi phạm tội.
16



Tuy nhiên, có những hành vi phạm tội có dấu hiệu cấu thành tội phạm
khoản 2 các điều luật được liệt kê tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS nhưng
người bị hại lại khơng đồng ý giám định thương tích nên đã gây khó khăn cho
cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm; đặc biệt là đối với các tội cố ý gây
thương tích, gây tổn hại sức khỏe của người khác. Sau khi làm rõ và bắt giữ
đối tượng về hành vi cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người
khác, không phải vụ án nào cũng xử lý nghiêm được đối tượng gây án vì
nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là người bị hại từ
chối giám định hay giám định lại thương tích. Khơng có kết quả giám định
hoặc giám đinh lại thương tích của người bị hại thì việc truy tố đối tượng gây
án sẽ rất khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Việc người bị hại từ chối giám định hoặc giám định lại thương tích có
nhiều ngun nhân. Có trường hợp do giữa người bị hại và đối tượng gây án
có mối quan hệ gia đình, họ hàng (anh em ruột, vợ chồng…) hoặc mối quan
hệ hàng xóm láng giềng, nên người bị hại đã từ chối giám định thương tích.
Có vụ cố ý gây thương tích gây hậu quả nghiêm trọng liên quan đến ổ nhóm
mang tính chất cơn đồ, coi thường pháp luật, … nhưng do người gây án và
người bị hại đã ngầm thỏa thuận, tự hòa giải bồi thường hoặc người bị hại,
người thân của họ bị đối tượng gây án đe dọa, mua chuộc…, họ lo sợ cho tính
mạng của bản thân và gia đình nên đã khơng hợp tác với cơ quan điều tra mà
tự thỏa thuận bồi thường. Đồng thời, người bị hại viết đơn từ chối giám định
thương tích hoặc kéo dài thời gian đi giám định thương tích để thối thác, gây
khó khăn cho việc xử lý của cơ quan điều tra.
2.3. Một số giải pháp phịng, chống tội phạm cố ý gây thương tích
2.3.1 Giải pháp loại trừ những hiện tượng xã hội tiêu cực thuộc môi trường
gia đình
Một là, đối với từng gia đình, cha mẹ phải thực sự là tấm gương mẫu
mực trong việc chấp hành pháp luật cho cái nói theo. Quá trình hội nhập sẽ

17



×