Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Thẩm quyền của tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.91 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ.................................3
1.1.

Tranh chấp kinh doanh, thương mại..........................................3

1.1.1. Khái niệm tranh chấp..................................................................3
1.1.2. Tranh chấp kinh doanh, thương mại............................................3
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp kinh doanh, thương mại............................4
1.2.

Tòa án và thẩm quyền của toàn án.............................................5

1.2.1. Khái niệm toàn án.......................................................................5
1.2.2. Thẩm quyền của toàn án..............................................................6
CHƯƠNG II: THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN..................................................6
2.1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại
giữa các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau................7
2.2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa
cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận....................8
2.3.Tranh chấp giữa cơng ty với các thành viên công ty, giữa các
thành viên công ty...................................................................................9
2.3.1. Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty.........................9
2.3.2.Tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau......................10
2.4. Những tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại..................11
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP



LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI..................................11
3.1. Thực trạng.......................................................................................11
3.2. Kiến nghị.........................................................................................15
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................20


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Cùng với nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng thì các tranh chấp phát sinh càng nhiều với tính chất đa dạng và
phức tạp; đặc biệt là tranh chấp về kinh doanh thương mại. Để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện
hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền kinh tế, các tranh chấp đó cần được giải
quyết kịp thời, đúng đắn. Về nguyên tắc khi tranh chấp trong kinh doanh,
thương mại xảy ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận trong kinh
doanh, pháp luật cho phép các bên gặp nhau tự bàn bạc tìm cách giải quyết.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau và có u cầu thì
tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết tại Trọng tài hoặc tại Tòa
án nhân dân giải quyết theo thủ tục tố tụng quy định trong Bộ luật Tố tụng
Dân sự (BLTTDS) được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 và có
hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2005. Một thực tế tại Việt Nam là hơn 95%
các tranh chấp về kinh doanh, thương mại được tòa án các cấp xét xử. Chính
vì vậy, tơi đã chọn đề tài “ Phân tích khái niệm, đặc điểm của tranh chấp
kinh doanh thương mại và thẩm quyền của Toàn án giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.


PHẦN II: NỘI DUNG

CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ
1.1.

Tranh chấp kinh doanh, thương mại

1.1.1. Khái niệm tranh chấp
Trong đời sống xã hội, con người luôn sáng tạo, lao động, vươn lên và
do đó, mối quan hệ của con người cũng luôn phát triển và ngày càng phong
phú. Từ đó, các va chạm, xung đột, tranh chấp của con người cũng ngày càng
phức tạp hơn. Trong thực tế, để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình,
con người phải lao động và ra sức bảo vệ lợi ích từ quá trình lao động ấy.
Cũng chính từ nguyên nhân đó, các xung đột lợi ích đã xảy ra, trở thành
những tranh chấp quyền lợi của con người với con người.
Hiện nay, tranh chấp được đề cập từ nhiều góc độ khác nhau, với
những nội dung khơng hồn tồn đồng nhất. Tranh chấp là “đấu tranh giằng
co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên”,
“tranh chấp là mâu thuẫn, là xung đột về quyền và nghĩa vụ của các bên”.
Như vậy, tranh chấp được hiểu là những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột
của con người trong quá trình tồn tại và phát triển, là cái tự nhiên vốn có của
cuộc sống, phát sinh, phát triển song hành cùng sự phát triển của xã hội. Mối
quan hệ của con người ngày càng phong phú thì sẽ càng phát sinh tranh chấp
trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tiêu biểu trong đó là tranh chấp về quyền lợi
kinh tế.
1.1.2. Tranh chấp kinh doanh, thương mại
Đất nước đổi mới, nền kinh tế tập trung bao cấp đã được thay thế bởi
nền kinh tế thị trường phát triển, năng động, cạnh tranh và phong phú. Bên
cạnh đó, tiến trình tồn cầu hóa, hội nhập thương mại quốc tế cũng đang diễn
ra hết sức mạnh mẽ và khốc liệt. Đứng trước những cơ hội và thách thức của
thời cuộc, nước ta đang có những định hướng phù hợp, phát huy thế mạnh của



nền kinh tế. Trong đó, phát triển thương mại là một trong những bước đi đúng
đắn nhất, đem lại hiệu quả cao cho đời sống xã hội.
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động
thương mại. Nó xuất hiện thường xuyên phổ biến trong hoạt động của nền
kinh tế thị trường. Đó là “những mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ, lợi
ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia quan hệ sản xuất kinh doanh”, là “sự bất
đồng, mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế giữa các thương nhân, các chủ thể kinh
doanh khác”
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại
là tranh chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các
thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các
Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được thơng báo chính thức
cho Ban thư ký WTO.
Tại Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy
định trong Luật Thương mại năm 1997. Tại Điều 238 Luật Thương mại 1997
quy định: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Theo
đó, nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm
1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương mại
chỉ bao gồm ba nhóm: Hoạt động mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ
thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại. Tranh chấp thương mại và
hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại
bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được
coi là các tranh chấp thương mại.
Tranh chấp kinh doanh thương mại được hiểu là những mâu thuẫn, bất
đồng xảy ra giữa các bên tham gia quan hệ kinh doanh thương mại.


1.1.2. Đặc điểm tranh chấp kinh doanh, thương mại

+/ Chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhân
Quan hệ thương mại có thể được thiết lập bởi giữa các thương nhân với
nhau hoặc là giữa thương nhân với bên không phải thương nhân. Một tranh
chấp được gọi là tranh chấp kinh doanh thương mại khi có ít nhất một bên
tham gia là thương nhân. Bên cạnh đó cũng có một số trường hợp, các cá
nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại như: giữa
công ty – thành viên trong công ty; giữa các thành viên cơng ty với nhau có
liên quan đến hoạt động, giải thể, chia tách,… công ty;…
+/ Phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc
vi phạm pháp luật
Ở nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại có phát sinh là do các bên
vi phạm hợp đồng và xâm hại đến lợi ích của nhau. Tuy nhiên cũng có thể có
những vi phạm xâm hại lợi ích giữa các bên nhưng khơng gây ra tranh chấp.
Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột như về quyền,
về nghĩa vụ và về lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các quan
hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản, vì thế nội dung của tranh
chấp thường liên quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các bên.
1.2.

Tịa án và thẩm quyền của tồn án

1.2.1. Khái niệm tồn án
Tịa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có nhiệm vụ xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình,
lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết việc khác theo quy định của pháp
luật để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân.



Để có cơ sở pháp lý cho Tịa án nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ xét xử về dân sự. Pháp luật Tố
tụng dân sự hiện hành quy định Tòa án nhân dân có quyền thụ lý và giải quyết
những loại việc nhất định để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Đồng thời,
khi giải quyết theo thẩm quyền Tịa án có quyền ra các quyết định giải quyết
vụ việc đó. Các thẩm quyền trên hợp thành thẩm quyền dân sự của Tòa án khi
thụ lý và giải quyết các vụ việc dân sự.
1.2.2. Thẩm quyền của toàn án
Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án là quyền xem
xét, giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải
quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của Tòa án. Việc xác định
một cách khoa học và hợp lý thẩm quyền dân sự của Tòa án tránh được sự
chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa Tòa án với các cơ quan nhà
nước giữa các Tòa án với nhau và xác định các điều kiện cần thiết bảo đảm
cho Tòa án thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.
Trên thế giới, về cơ bản ở các nước theo hệ thống châu Âu lục địa và
các nước theo hệ thống Anh - Mỹ đề cập vấn đề thẩm quyền của Tòa án là
thẩm quyền của Tòa án theo loại việc và thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ.
Tại Việt Nam, đặc thù về tổ chức hệ thống Tòa án nên, thẩm quyền dân sự
của Tòa án được tiếp cận dưới 3 góc độ: thẩm quyền dân sự của Tòa án theo
loại việc, thẩm quyền dân sự của Tòa án các cấp, thẩm quyền dân sự của Tòa
án theo lãnh thổ.
CHƯƠNG II: THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƯƠNG MẠI CỦA TÒA ÁN
Theo quy định tại điều 29 BLTTDS 2004 thì những loại việc tranh chấp
kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền của tòa án được chia thành ba
nhóm. Nhóm thứ nhất gồm các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và



đều có mục đích lợi nhuận. Thứ hai, là các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao cơng nghệ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau đều có mục đích
lợi nhuận. Thứ ba, là nhóm tranh chấp kinh doanh, thương mại giữa công ty
với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách
chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng ty. Ngồi ra thì cịn có những tranh
chấp khác về kinh doanh, thương mại.
2.1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa
các cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau
Theo quy định của pháp luật thì tranh chấp phát sinh giữa cá nhân, tổ
chức phát sinh từ hoạt động thương mại thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án
khi những tranh chấp đó có đủ 3 điều kiện như sau:
- Một là, các tranh chấp này phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương
mại phải có mục đích lợi nhuận. Dấu hiệu mục đích lợi nhuận của tổ chức, cá
nhân trong hoạt động kinh doanh, thương mại được Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 giải thích là sự mong muốn của tổ chức,
cá nhân đó là thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của mình cho dù
thực tế có đạt được hay khơng.
- Hai là, các tranh chấp phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức với nhau
đồng thời các cá nhân, tổ chức phải là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
Nghị quyết số 01/2005/HĐTPTATC ngày 31/3/2005 về hướng dẫn một
số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS đã
mở rộng thêm đối với những tranh chấp kinh doanh, thương mại mà một
trong các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận
cũng thuộc thẩm quyền cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án kinh tế.


Có thể thấy, quy định này phù hợp hơn với quy định của Luật thương mại
năm 2005.

- Ba là, các tranh chấp thuộc 14 lĩnh vực được quy định tại khoản 1
điều 29 BLTTDS, đó là: Mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại
diện; đại lý;ký gửi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng, tư vấn; kỹ thuật; vận
chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa;
vận chuyển hành khách, hàng hóa bằng đường hàng không, đường biển; mua
bán cổ phiếu, trái và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo
hiểm; thăm do, khai thác.
Hoạt động kinh doanh thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều
hành vi thương mại, hoạt động này không chỉ dừng lại ở những hoạt động đã
đăng ký mà nó cịn bao gồm cả những hoạt động khác phục vụ cho việc thúc
đẩy hay tạo điều kiện cho hoạt động đã đăng ký. Ví dụ: Cơng ty trách nhiệm
hữu hạn A được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực xây
dựng. Hoạt động của công ty A không chỉ dừng lại ở việc xây các cơng trình
mà cịn có thể bao gồm cả các hoạt động như mua nguyên vật liệu để sản
xuất, xây dựng nhà kho, mua sắm trang thiết bị, thuê công nhân…Các hoạt
động được ghi nhận tại khoản 1 điều 29 chính là cơ sở để phân định giữa quan
hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại với các quan hệ hợp đồng dân sự, lao
động…
2.2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận
Trong điều kiện phát triển ngày một cao của khoa học công nghệ, hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày một gia tăng về số lượng, tinh vi về
tính chất, nghiêm trọng về hậu quả. Để đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, các điều
ước quốc tế cũng đã ghi nhận nhiều biện pháp thực thi như biện pháp dân sự,
biện pháp hành chính, kiểm sốt biên giới…Trong đó, thực thi bằng biện pháp


dân sự có mục đích chủ yếu là nhằm khơi phục, khắc phục các thiệt hại để bảo
vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người có quyền bị xâm phạm.
Trước yêu cầu hội nhập với thế giới, pháp luật TTDS Việt Nam cũng

đã ghi nhận thẩm quyền dân sự cho tòa án để giải quyết các tranh chấp về sở
hữu trí tuệ (bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan và quyền sở hữu công
nghiệp), chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức.
Theo quy định của Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDVKSND-BVHTT&DL ngày 03/04/2008, các tranh chấp về quyền sở hữu trí
tuệ, chuyển giao cơng nghệ bao gồm các tranh chấp như tranh chấp giữa chủ
đầu tư và người biểu diễn về quyền nhân thân, quyền tài sản; tranh chấp về
quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng; tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công
nghiệp…Tuy nhiên, không phải tất cả các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, chuyển
giao cơng nghệ là loại vụ việc về kinh doanh thương mại. Một tranh chấp liên
quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ cịn có thể xác định là một
tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo quy định của
Khoản 4 Điều 25 BLTTDS. Vì vậy để phân biệt hai loại tranh chấp này pháp
luật đã đưa ra dấu hiệu “mục đích lợi nhuận”. Nghị quyết số 01/2005/NQHĐTP ngày 31/3/2005 đã giải thích rõ: “Đối với các tranh chấp quy định tại
khoản 2 điều 29 BLTTDS thì khơng nhất thiết địi hỏi cá nhân, tổ chức phải
có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ chức đều có mục đích lợi
nhuận, cịn bên kia khơng có mục đích lợi nhuận thì đó là tranh chấp về dân
sự quy định tại khoản 4 điều 25 BLTTDS”.
2.3.Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các thành
viên công ty
2.3.1. Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty.
Tranh chấp giữa thành viên công ty và cơng ty là sự mâu thuẫn, bất
đồng về ý chí giữa thành viên công ty với công ty. Tranh chấp phát sinh giữa


công ty và thành viên công ty là tranh chấp thương mại khi các tranh chấp này
được phát sinh liên quan đến các lĩnh vực được quy định tại khoản 3 điều 29
BLTTDS 2004. Thông thường, các tranh chấp này xuất phát từ các vấn đề
sau:
- Về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty (thông thường

phần vốn góp đó được tính bằng tiền, nhưng cũng có thể bằng hiện vật hoặc
bằng giá trị quyền sở hữu công nghiệp);
- Về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với mỗi công ty
cổ phần; về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần
vốn góp vào cơng ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ
tương ứng với phần vốn góp vào cơng ty;
- Về u cầu cơng ty đổi các khoản nợ hoặc thanh tốn các khoản nợ
của công ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà công ty đã ký kết
khi giải thể công ty;
- Về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
2.3.2.Tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau.
Các tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau là các tranh
chấp phát sinh giữa các thành viên của công ty về giá trị phần vốn góp vào
cơng ty giữa các thành viên của cơng ty; về việc chuyển nhượng phần vốn
góp vào cơng ty giữa các thành viên của công ty hoặc về việc chuyển nhượng
phần vốn góp vào cơng ty của thành viên cơng ty đó cho người khác khơng
phải là thành viên công ty; việc chuyển nhượng cổ phiếu không ghi tên và cổ
phiếu có ghi tên; mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu phát hành và trái phiếu của
công ty cổ phần hoặc về quyền sở hữu tài sản tương ứng với số cổ phiếu của
thành viên công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ,
thanh tốn nợ của cơng ty; về việc thanh lý tài sản, phân chia nợ giữa các


thành viên của công ty trong trường hợp công ty bị giải thể, về các vấn đề
khác giữa các thành viên của công ty liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức cơng ty.
Nếu giữa cơng ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành
viên của cơng ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó khơng liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách,

chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty mà chỉ liên quan đến các quan hệ
khác như quan hệ lao động, quan hệ dân sự (ví dụ tranh chấp về bảo hiểm xã
hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng lao động,…) thì tranh chấp
đó khơng phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 3
điều 29 BLTTDS.
2.4. Những tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại.
Hiện nay, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại rất đa dạng và
phong phú, khó có thể liệt kê hết được. Bên cạnh đó, đời sống kinh tế ln
ln vận động và phát triển, trong khi pháp luật lại mang tính ổn định tương
đối. Do đó, pháp luật khơng thể dự báo và liệt kê hết các loại việc có thể nảy
sinh trên thực tế. Chính vì vậy, khoản 4 điều 29 BLTTDS đã quy định, ngoài
các tranh chấp đã nêu trên, cịn có “các tranh chấp khác về kinh doanh,
thương mại mà pháp luật có quy định” thuộc thẩm quyền dân sự của toà án.
Như vậy, đây là một điều luật “mở”, mang tính dự phịng, được xây dựng
theo phương pháp liệt kê – một phương pháp xây dựng luật khá phổ biến tại
Việt Nam. Các tranh chấp khác trong kinh doanh thương mại có thể ví dụ như
tranh chấp phát sinh từ quan hệ ủy thác, giám định, đấu giá, đấu thầu, hay
những tranh liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh...


CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI
3.1. Thực trạng
BLTTDS 2004 ra đời đã khắc phục được rất nhiều hạn chế của Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, nó góp phần giải quyết
các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự một cách hiểu quả hơn. Tuy nhiên,
thực tiễn triển khai thi hành BLTTDS cho thấy một số quy định của BLTTDS
về thẩm quyền dân sự của toà án về tranh chấp kinh doanh, thương mại chưa

đáp ứng được các yêu cầu thực tế, có những quy định mâu thuẫn với các văn
bản quy phạm pháp luật khác; chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và cịn có những
cách hiểu khác nhau…
Trên cơ sở tham khảo các bài viết, tài liệu, báo cáo tổng kết của ngành
Toà án, nhóm chúng em xin đưa ra các ý kiến sau:
+ Tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS đã liệt kê những tranh chấp kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án. Hạn chế của phương pháp
liệt kê này là sẽ không thể liệt kê đầy đủ những tranh chấp kinh doanh,
thương mại nhất là trong nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ và có sự tham
gia của nhiều chủ thể và nhiều hành vi thương mại như ở Việt Nam hiện nay.
Điều đó dẫn đến việc, nếu có những tranh chấp thuộc loại nằm ngoài các
tranh chấp được liệt kê này thì Tịa án có thẩm quyền giải quyết hay khơng?
Ví dụ: tranh chấp về vận chuyển hàng hóa bằng đường ống…Ngược lại, nhiều
loại tranh chấp cụ thể này đều có thể quy về loại tranh chấp “cung ứng dịch
vụ” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS. Có ý kiến cho rằng cần
nghiên cứu để bỏ phần liệt kê này và chỉ cần quy định “Các tranh chấp kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là các tranh chấp
kinh doanh, thương mại giữa các thương nhân với nhau” là đủ. Nhóm chúng


tôi đồng ý với ý kiến này, tuy nhiên, để quy định như vậy, pháp luật cần làm
rõ khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại. Ví dụ: có thể đưa ra một
khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại với hai dấu hiệu :
- Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp phát sinh từ quan
hệ kinh doanh, tranh chấp này phát sinh từ các hoạt động phục vụ một cách
trực tiếp hay gián tiếp cho quá trình kinh doanh.
- Một trong các bên chủ thể của tranh chấp phải là chủ thể kinh doanh.
Đây là những chủ thể thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng
đoạng của q trình đầu tư từ sản xuất tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

+ Về khoản 2 Điều 29 BLTTDS: tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận
Có ý kiến cho rằng không nên tách loại tranh chấp về sở hữu trí tuệ ra
làm hai loại căn cứ vào việc xác định có hay khơng có mục đích lợi nhuận.
Việc phân biệt như hiện nay dẫn đến sự phân loại tranh chấp, xác định thẩm
quyền của Tòa án chưa rõ ràng. Thực tế ngày nay tri thức đã trở thành hàng
hóa trực tiếp, các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ sẽ ngày
càng nhiều, ngày càng phức tạp và ngày càng gần gũi với các tranh chấp
thương mại hơn (các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ hầu hết là đều
nhằm mục đích lợi nhuận). Do vậy, có ý kiến cho rằng nên gộp hai loại tranh
chấp về sở hữu trí tuệ này thành một loại là tranh chấp về sở hữu trí tuệ và
giao cho Tòa Kinh tế đồng thời đổi tên “Tòa Kinh tế” hiện nay thành “Tịa
Thương mại và Sở hữu trí tuệ” như xu thế hiện nay của các nước trên thế giới.
+ Về khoản 3 Điều 29 BLTTDS:
Thực tiễn xét xử trong thời gian qua cho thấy loại án này ngày càng
nhiều và rất phức tạp. Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của


công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức
tổ chức của Công ty theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS đã được Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn tại Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 khá cụ thể nên giúp cho Tòa án phân
định rõ các loại tranh chấp kinh doanh thương mại khá mới mẻ ở Việt Nam.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần làm rõ:
◊ Cụm từ “liên quan đến việc thành lập, hoạt động…” có nghĩa rất
rộng, nên các Tòa án địa phương gặp lúng túng và nhầm lẫn trong việc xác
định các loại tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động nói ở điểm c tiểu mục 3.5
Nghị quyết số 01/2005 nêu trên là tranh chấp thương mại (như các trường

hợp: Cơng ty khởi kiện địi lại con dấu của Công ty do thành viên của Công ty
- lãnh đạo của Công ty nhiệm kỳ trước - không chịu giao con dấu cho lãnh
đạo mới của Công ty; thành viên Công ty cho Công ty vay tiền nay khởi kiện
địi nợ; Cơng ty khởi kiện địi thành viên của Cơng ty thực hiện nghĩa vụ
khốn trong kinh doanh. . .). Vì vậy, cần nghiên cứu để sửa lại quy định này
cho rõ ràng hơn.
◊ Trong trường hợp cá nhân đã nộp tiền mua phần vốn góp của thành
viên Công ty nhưng chưa được đăng ký để trở thành thành viên Cơng ty
TNHH, nay có tranh chấp thì có là tranh chấp giữa thành viên Cơng ty với
Cơng ty hoặc giữa thành viên Công ty với nhau không hay tranh chấp giữa cá
nhân với cơng ty? Có quan điểm cho rằng đây là tranh chấp về mua bán phần
vốn góp giữa cá nhân người mua với Cơng ty hoặc giữa cá nhân người mua
với cá nhân khác là thành viên của Công ty chứ không phải là tranh chấp giữa
thành viên Công ty với Công ty hoặc giữa các thành viên của Cơng ty với
nhau, vì cá nhân người mua trên chưa là thành viên của Công ty. Vấn đề này
chiếu theo quy định của BLTTDS thì có được coi là tranh chấp kinh doanh,
thương mại hay không? Hay như trường hợp công ty thuê người là Giám đốc


nay thành viên công ty khởi kiện Giám đốc bồi thường do quản lý kém, khơng
hồn thành nhiệm vụ - tranh chấp này có được coi là tranh chấp giữa các
thành viên công ty hay không?
◊ Về tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, việc áp
dụng trên thực tế còn nhiều lúng túng khi các tịa án xác định có phải là tranh
chấp kinh doanh thương mại giữa thành viên công ty với công ty khơng. Ví
dụ, trong q trình điều hành hoạt động của cơng ty, lợi dụng cương vị quản
lý của mình, giám đốc Công ty đã chiếm dụng vốn của Công ty để sử dụng
cho hoạt động kinh doanh riêng của mình (không thuộc trường hợp chiếm
đoạt được quy định trong Bộ luật hình sự), Cơng ty khởi kiện vụ án để địi lại
số tiền bị chiếm thì có phải là loại tranh chấp kinh doanh thương mại giữa

thành viên công ty với cơng ty khơng? Có ý kiến nhận định rằng đây là tranh
chấp dân sự về vay, mượn tài sản chứ không thuộc loại tranh chấp về kinh
doanh, thương mại theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS. Chính vì vậy,
cần có hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này.
+ Theo quy định, trong một thời hạn nhất định, cổ đơng, thành viên hội
đồng quản trị... có quyền yêu cầu tòa án xem xét, hủy bỏ quyết định của đại
hội đồng cổ đơng... Một số ý kiến nói yêu cầu này là loại việc kiện thuộc
thẩm quyền giải quyết của tòa bằng một vụ án kinh doanh, thương mại tại
khoản 3 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nhưng nhiều ý kiến khác lại bảo đây
là loại việc dân sự (yêu cầu về kinh doanh, thương mại) thuộc thẩm quyền của
tòa theo quy định tại khoản 4 Điều 40 bộ luật trên. Nhóm chúng tơi cho rằng,
đây là loại việc dân sự. Tuy nhiên để tránh nhầm lẫn và để áp dụng một cách
thống nhất thì cũng cần có quy định rõ ràng hơn.
+ Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sát nhập, chia tách... của trường dạy nghề, trường dân lập, trường tư
thục, các doanh nghiệp hoạt động lĩnh vực chứng khốn, hợp tác xã... cũng
cịn gặp nhiều khó khăn. Bởi lẽ những vấn đề trên chưa được nêu trong Luật


doanh nghiệp 2005. Nhiều tòa đã lúng túng khi xác định quan hệ tranh chấp
cũng như việc áp dụng văn bản pháp luật. Có quan điểm cho rằng đây là tranh
chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với
nhau nhưng vấn đề đặt ra là áp dụng Luật Doanh nghiệp hay áp dụng các Luật
chuyên ngành? Chẳng hạn trường hợp trường tư thục, trường dân lập, Luật
giáo dục có quy định về quyền sở hữu tài sản, rút vốn, chuyển nhượng vốn
nhưng không quy định các trường này theo mơ hình như trong Luật doanh
nghiệp. Nếu thụ lý, giải quyết theo Luật doanh nghiệp (coi các trường trên là
cơng ty TNHH) thì các thành viên khơng được rút vốn mà chỉ có quyền mua
lại, chuyển nhượng vốn góp mà thơi...
Các vấn đề nêu trên cần phải quy định rõ hơn trong BLTTDS và trước

mắt cần phải có văn bản hướng dẫn để thống nhất trong quá trình áp dụng
pháp luật, hướng dẫn để thống nhất xử lý giữa các tồ, tránh chuyện tịa này
áp dụng luật chung, tòa kia áp dụng luật chuyên ngành.
3.2. Kiến nghị
+ Hoàn thiện các quy định của pháp luật: cần tiến hành rà soát sửa đổi,
bổ sung thêm các quy định cịn thiếu sót trong hệ thống các quy phạm pháp
luật quy định về thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực này (như đã phân tích
ở trên), từ đó kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn nhằm áp dụng thống
nhất và tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại
+ Thực hiện tăng cường thẩm quyền của TAND cấp huyện.
Trong những năm qua, số lượng vụ án mà TAND cấp Tỉnh phải giải
quyết khá lớn, điều này đã tạo sức ép cho Tòa án Tỉnh, đây là một trong
những nguyên nhân dẫn tới tình trạng tồn đọng các vụ án. Để có thể giải
quyết tốt các tranh chấp kinh doanh, thương mại như đã phân tích ở trên, cần


tăng cường thẩm quyền cho TAND cấp huyện để đảm bảo các tranh chấp
kinh doanh, thương mại được giải quyết kịp thời, đầy đủ.
+ Đẩy nhanh tiến độ xây dựng để thực hiện đề án thành lập Tòa khu
vực.
Thực tiễn xét xử cho thấy, số lượng và tính chất các vụ tranh chấp kinh
doanh, thương mại ở địa phương nào cũng giống nhau. Trong khi ở các thành
phố lớn và khu vực kinh tế phát triển, các tranh chấp kinh doanh thương mại
xảy ra nhiều và có tính chất phức tạp, tạo áp lực lớn cho Tịa án thì lại có
những địa phương nhiều năm liền khơng có tranh chấp kinh doanh, thương
mại nào. Xuất phát từ thực tiễn địa phương đó kinh tế phát triển chậm, đời
sống ở mức đói nghèo, ở các vùng xâu vùng xa…Các quan hệ kinh doanh,
thương mại khơng nhiều, từ đó số lượng tranh chấp kinh doanh, thương mại
cũng ít. Nếu chúng ta vẫn áp dụng cách thức tổ chức của hệ thống Tòa án như

hiện nay: ở mỗi tỉnh và mỗi huyện đều có TAND. Cách thức tổ chức như vậy
sẽ là một sự lãng phí về nhân lực cũng như lãng phí về vật chất.
Thay vào đó, ở một số vùng, một số địa phương nhất định có thể tổ
chức các Tịa án khu vực. Tịa này sẽ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại (thậm chí là các vụ dân sự, hình sự…) trên phạm vi
một vài huyện. Việc nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu được giao cho ban Tư
pháp của các xã. Các Tòa án này có thể kết hợp với việc xét xử lưu động
nhằm tạo điều kiện cho đương sự cũng như nâng cao ý thức pháp luật của
người dân ở những vùng có điều kiện khó khăn.
+ Nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ Thẩm phán
Qua báo cáo của TANDTC những năm trước đây chúng ta thấy rằng
việc thiếu cán bộ lãnh đạo ở một số Tòa án địa phương đã ảnh hưởng trực tiếp
tới chất lượng xét xử của Tòa án. Trong năm 2009 Tòa án các cấp đã tuyển
dụng mới 744 cán bộ, chủ yếu là tuyển dụng cho các chức danh tư pháp; Tòa


án nhân dân tối cao đã xây dựng Đề án biên chế của ngành Tòa án nhân dân
và được Ủy ban thường vụ Quốc hội thơng qua, theo đó tổng biên chế của
ngành Tòa án nhân dân được tăng thêm 1500 người. Tòa án nhân dân tối cao
đã tổ chức các hội nghị để lấy ý kiến các Tòa án địa phương về tiêu chí, căn
cứ phân bổ biên chế, trên cơ sở đó đã quyết định phân bổ biên chế cho các
đơn vị trong tòa ngành và hướng dẫn các Tòa án địa phương xây dựng kế
hoạch tuyển dụng cán bộ và bổ nhiệm Thẩm phán.
+ Ban hành nhiều án lệ
Hiện nay, mỗi năm TANDTC có ban hành các tuyển tập “Quyết định
giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm pháp Toà án nhân dân tối cao”. Tuy nhiên,
số các bản án được đưa ra cịn ít. Thực tiễn cơng tác giải quyết tranh chấp
thương mại tại Tòa án các cấp cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn
đến có sai lầm trong các bản án, quyết định dân sự là việc Thẩm phán hiểu và
vận dụng pháp luật khi xét xử có những điểm chưa đầy đủ và chưa phù hợp

với thực tiễn, trong khi đó cơng tác hướng dẫn, giải thích pháp luật của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền và của Toà án nhân dân tối cao lại không kịp
thời hoặc chỉ hướng dẫn dưới dạng công văn, kết luận của Chánh án tại Hội
nghị tổng kết, nên tính ổn định của các hướng dẫn đó rất hạn chế và khơng có
tính pháp lý bắt buộc. Vì vậy, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung những quy định
pháp luật sao cho phù hợp thực tiễn, cần nghiên cứu và ban hành các tập án
lệ. Đây chính là tài liệu để cho Tòa án các cấp vận dụng khi xét xử những vụ
án có nội dung tương tự, đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật và xét xử thống
nhất.


PHẦN III: KẾT LUẬN
Vậy, có thể nói thẩm quyền Tịa án trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại có một ý nghĩa vơ cùng to lớn bởi nó đã góp phần nào giải
quyết được một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta mà trước đây pháp luật còn bỏ
ngỏ. Các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doang thương mại này khá đa dạng
vì thế nên nó sẽ ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống cũng như trong sản
xuất. Hiểu được tầm quan trọng đó nên việc phải nâng cao hơn nữa thẩm
quyền của Tòa án nhằm khắc phục những hạn chế đã đề ra là điều cấp thiết và
cần sự quan tâm.
Cùng với đó, các nhà làm luật không nên sử dụng phương pháp liệt kê
để qui định các tranh chấp kinh doanh, thương mại mà nên xây dựng một khái
niệm thống nhất mang tính khái quát và phải nêu bật được các dấu hiệu cụ thể
của dạng tranh chấp này khi nó thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án. Sở dĩ ta
phải nêu ra được các dấu hiệu là nhằm tạo cơ sở để phân biệt tranh chấp kinh
doanh, thương mại với các tranh chấp khác đặc biệt là với tranh chấp kinh tế
và tranh chấp dân sự.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×