LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng thì các tranh chấp phát sinh càng nhiều với tính chất đa dạng và phức tạp; đặc biệt
là tranh chấp về kinh doanh thương mại. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền
kinh tế, các tranh chấp đó cần được giải quyết kịp thời, đúng đắn. Về nguyên tắc khi
tranh chấp trong kinh doanh, thương mại xảy ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thỏa
thuận trong kinh doanh, pháp luật cho phép các bên gặp nhau tự bàn bạc tìm cách giải
quyết. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau và có u cầu thì
tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết tại Trọng tài hoặc tại Tòa án nhân
dân giải quyết theo thủ tục tố tụng quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS)
được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 và có hiệu lực ngày 01 tháng 01
năm 2005. Một thực tế tại Việt Nam là hơn 95% các tranh chấp về kinh doanh, thương
mại được tòa án các cấp xét xử. Chính vì vậy, nhóm chúng tơi đã tìm hiểu về vấn đề
thẩm quyền dân sự của tồ án theo loại việc về tranh chấp kinh doanh thương mại.
NỘI DUNG
I.
Khái quát chung về thẩm quyền dân sự của toà án theo loại việc và
tranh chấp kinh doanh thương mại.
1. Thẩm quyền dân sự của toà án theo loại việc.
Thẩm quyền dân sự của toà án là quyền xem xét, giải quyết các vụ việc và
quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng
dân sự1.
Để phân biệt thẩm quyền của toà án với thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức
khác trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội; phân định thẩm
quyền của toà án trong việc giải quyết các loại việc theo thủ tục tố tụng dân sự với
thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết các loại việc theo thủ tục tố tụng hình sự
và tố tụng hành chính; pháp luật tố tụng dân sự đã quy định thẩm quyền dân sự của toà
án theo loại việc. Thẩm quyền dân sự của toà án theo loại việc là thẩm quyền của toà
án trong việc thụ lý, giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự. Theo quy định
tại điều 126 Hiến pháp năm 1992, điều 1 Luật Tổ chức Tồ án nhân dân, điều 1
BLTTDS thì Tịa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án và các việc dân sự, hơn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động theo quy định của pháp luật.
2. Tranh chấp kinh doanh thương mại.
Tranh chấp kinh doanh thương mại là sự bất đồng, mâu thuẫn, xung đột về
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh liên quan đến lợi ích kinh tế trong q
trình hoạt động kinh doanh, thương mại – các quan hệ có tính tài sản với mục đích kinh
1
Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, năm 2005, tr 59.
1
doanh kiếm lời. Trong đó, kinh doanh có thể hiểu là việc thực hiện liên tục một, một số
hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản cuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi; cịn thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Các tranh chấp kinh doanh , thương mại có đặc điểm sau2:
Tranh chấp về kinh doanh, thương mại nảy sinh trực tiếp từ các quan hệ kinh
doanh và luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh. Đó là hệ quả phát sinh từ quan
hệ giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc giữa các bên liên quan với chủ thể
kinh doanh trong quá trình tiến hành các mục đích nhằm mục đích sinh lợi .
Vấn đề giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại do các bên tranh
chấp tự định đoạt (có thể giải quyết bằng nhiều cách khác nhau như thương
lượng, hoà giải, trọng tài và toà án).
Các bên tranh chấp thương mại thường là chủ thể kinh doanh có tư cách thương
nhân.
Tranh chấp kinh doanh thương mại là những tranh chấp mang yếu tố vật chất và
thường có giá trị lớn .
Trong đó, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tồ án là hình thức
giải quyết thông qua hoạt động của cơ quan tài phán nhà nước, nhân danh quyền lực
nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên phải chấp hành, kể cả bằng sức mạnh
cưỡng chế. Trước ngày 01/01/2005, thủ tục tố tụng để giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại được giải quyết theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
có hiệu lực từ 01/7/1994, và từ 01/01/2005 thủ tục giải quyết các vụ án kinh doanh
thương mại được qui định chung trong BLTTDS. BLTTDS năm 2004 ra đời đã khắc
phục được những hạn chế của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế tạo điều
kiện thuận lợi cho việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
II.
Những nội dung chính về thẩm quyền dân sự của toà án theo loại việc về
tranh chấp kinh doanh thương mại.
Theo quy định tại điều 29 BLTTDS 2004 thì những loại việc tranh chấp kinh
doanh thương mại thuộc thẩm quyền của tòa án được chia thành ba nhóm. Nhóm thứ
nhất gồm các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Thứ hai,
là các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa các cá nhân, tổ
chức với nhau đều có mục đích lợi nhuận. Thứ ba, là nhóm tranh chấp kinh doanh,
thương mại giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công
ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia
2
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng toà án, Luật sư Tony Thắng.
2
tách chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng ty. Ngồi ra thì cịn có những tranh chấp
khác về kinh doanh, thương mại.
1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau
Theo quy định của pháp luật thì tranh chấp phát sinh giữa cá nhân, tổ chức phát
sinh từ hoạt động thương mại thuộc thẩm quyền dân sự của Tịa án khi những tranh
chấp đó có đủ 3 điều kiện như sau:
- Một là, các tranh chấp này phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại phải
có mục đích lợi nhuận. Dấu hiệu mục đích lợi nhuận của tổ chức, cá nhân trong hoạt
động kinh doanh, thương mại được Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005
giải thích là sự mong muốn của tổ chức, cá nhân đó là thu được lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh của mình cho dù thực tế có đạt được hay không.
- Hai là, các tranh chấp phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức với nhau đồng thời
các cá nhân, tổ chức phải là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật.
Nghị quyết số 01/2005/HĐTPTATC ngày 31/3/2005 về hướng dẫn một số quy
định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS đã mở rộng thêm đối
với những tranh chấp kinh doanh, thương mại mà một trong các bên khơng có đăng ký
kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận cũng thuộc thẩm quyền cũng thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án kinh tế. Có thể thấy, quy định này phù hợp hơn với quy
định của Luật thương mại năm 2005.
- Ba là, các tranh chấp thuộc 14 lĩnh vực được quy định tại khoản 1 điều 29
BLTTDS, đó là: Mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý;ký
gửi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng, tư vấn; kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành
khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hành khách, hàng
hóa bằng đường hàng khơng, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái và giấy tờ có giá
khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm do, khai thác.
Hoạt động kinh doanh thương mại là việc thực hiện một hoặc nhiều hành vi
thương mại, hoạt động này không chỉ dừng lại ở những hoạt động đã đăng ký mà nó
cịn bao gồm cả những hoạt động khác phục vụ cho việc thúc đẩy hay tạo điều kiện cho
hoạt động đã đăng ký. Ví dụ: Cơng ty trách nhiệm hữu hạn A được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng. Hoạt động của công ty A khơng chỉ
dừng lại ở việc xây các cơng trình mà cịn có thể bao gồm cả các hoạt động như mua
nguyên vật liệu để sản xuất, xây dựng nhà kho, mua sắm trang thiết bị, thuê công
nhân…Các hoạt động được ghi nhận tại khoản 1 điều 29 chính là cơ sở để phân định
giữa quan hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại với các quan hệ hợp đồng dân sự, lao
động…
3
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận
Trong điều kiện phát triển ngày một cao của khoa học công nghệ, hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày một gia tăng về số lượng, tinh vi về tính chất, nghiêm
trọng về hậu quả. Để đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, các điều ước quốc tế cũng đã ghi
nhận nhiều biện pháp thực thi như biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, kiểm sốt
biên giới…Trong đó, thực thi bằng biện pháp dân sự có mục đích chủ yếu là nhằm khôi
phục, khắc phục các thiệt hại để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người có
quyền bị xâm phạm.
Trước yêu cầu hội nhập với thế giới, pháp luật TTDS Việt Nam cũng đã ghi
nhận thẩm quyền dân sự cho tòa án để giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ (bao
gồm quyền tác giả, quyền liên quan và quyền sở hữu công nghiệp), chuyển giao công
nghệ giữa cá nhân, tổ chức.
Theo quy định của Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TAND-VKSNDBVHTT&DL ngày 03/04/2008, các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao
cơng nghệ bao gồm các tranh chấp như tranh chấp giữa chủ đầu tư và người biểu diễn
về quyền nhân thân, quyền tài sản; tranh chấp về quyền liên quan đối với cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng; tranh chấp về hợp đồng chuyển
nhượng quyền sở hữu công nghiệp…Tuy nhiên, không phải tất cả các tranh chấp về sở
hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ là loại vụ việc về kinh doanh thương mại. Một tranh
chấp liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ cịn có thể xác định là một
tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo quy định của Khoản 4
Điều 25 BLTTDS. Vì vậy để phân biệt hai loại tranh chấp này pháp luật đã đưa ra dấu
hiệu “mục đích lợi nhuận”. Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 đã giải
thích rõ: “Đối với các tranh chấp quy định tại khoản 2 điều 29 BLTTDS thì khơng nhất
thiết địi hỏi cá nhân, tổ chức phải có đăng ký kinh doanh mà chỉ đòi hỏi cá nhân, tổ
chức đều có mục đích lợi nhuận, cịn bên kia khơng có mục đích lợi nhuận thì đó là
tranh chấp về dân sự quy định tại khoản 4 điều 25 BLTTDS”.
3.Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên công
ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia
tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng ty.
3.1. Tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty.
Tranh chấp giữa thành viên công ty và công ty là sự mâu thuẫn, bất đồng về ý
chí giữa thành viên công ty với công ty. Tranh chấp phát sinh giữa công ty và thành
viên công ty là tranh chấp thương mại khi các tranh chấp này được phát sinh liên quan
đến các lĩnh vực được quy định tại khoản 3 điều 29 BLTTDS 2004. Thông thường, các
tranh chấp này xuất phát từ các vấn đề sau:
4
- Về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với cơng ty (thơng thường phần vốn
góp đó được tính bằng tiền, nhưng cũng có thể bằng hiện vật hoặc bằng giá trị quyền
sở hữu công nghiệp);
- Về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành đối với mỗi công ty cổ phần;
về quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp vào cơng
ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp
vào cơng ty;
- Về u cầu cơng ty đổi các khoản nợ hoặc thanh tốn các khoản nợ của cơng
ty, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp đồng mà công ty đã ký kết khi giải thể công ty;
- Về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng ty.
3.2.Tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau.
Các tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau là các tranh chấp phát
sinh giữa các thành viên của cơng ty về giá trị phần vốn góp vào cơng ty giữa các thành
viên của công ty; về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào cơng ty giữa các thành
viên của công ty hoặc về việc chuyển nhượng phần vốn góp vào cơng ty của thành viên
cơng ty đó cho người khác không phải là thành viên công ty; việc chuyển nhượng cổ
phiếu khơng ghi tên và cổ phiếu có ghi tên; mệnh giá cổ phiếu, số cổ phiếu phát hành
và trái phiếu của công ty cổ phần hoặc về quyền sở hữu tài sản tương ứng với số cổ
phiếu của thành viên công ty; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ,
thanh toán nợ của công ty; về việc thanh lý tài sản, phân chia nợ giữa các thành viên
của công ty trong trường hợp công ty bị giải thể, về các vấn đề khác giữa các thành
viên của công ty liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, chuyển đổi hình thức cơng ty.
Nếu giữa cơng ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành viên của
cơng ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó khơng liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức
của cơng ty mà chỉ liên quan đến các quan hệ khác như quan hệ lao động, quan hệ dân
sự (ví dụ tranh chấp về bảo hiểm xã hội, về trợ cấp cho người lao động, về hợp đồng
lao động,…) thì tranh chấp đó khơng phải là tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy
định tại khoản 3 điều 29 BLTTDS.
4. Những tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại.
Hiện nay, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại rất đa dạng và phong phú,
khó có thể liệt kê hết được. Bên cạnh đó, đời sống kinh tế luôn luôn vận động và phát
triển, trong khi pháp luật lại mang tính ổn định tương đối. Do đó, pháp luật khơng thể
dự báo và liệt kê hết các loại việc có thể nảy sinh trên thực tế. Chính vì vậy, khoản 4
điều 29 BLTTDS đã quy định, ngồi các tranh chấp đã nêu trên, cịn có “các tranh chấp
5
khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định” thuộc thẩm quyền dân sự
của toà án. Như vậy, đây là một điều luật “mở”, mang tính dự phòng, được xây dựng
theo phương pháp liệt kê – một phương pháp xây dựng luật khá phổ biến tại Việt Nam.
Các tranh chấp khác trong kinh doanh thương mại có thể ví dụ như tranh chấp phát
sinh từ quan hệ ủy thác, giám định, đấu giá, đấu thầu, hay những tranh liên quan đến
cạnh tranh không lành mạnh...
III. Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án theo loại việc trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
1. Thực trạng pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền của Tòa án theo loại việc
giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại
BLTTDS 2004 ra đời đã khắc phục được rất nhiều hạn chế của Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, nó góp phần giải quyết các vụ việc theo thủ tục
tố tụng dân sự một cách hiểu quả hơn. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai thi hành
BLTTDS cho thấy một số quy định của BLTTDS về thẩm quyền dân sự của toà án về
tranh chấp kinh doanh, thương mại chưa đáp ứng được các yêu cầu thực tế, có những
quy định mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác; chưa đầy đủ, thiếu rõ
ràng và cịn có những cách hiểu khác nhau…
Trên cơ sở tham khảo các bài viết, tài liệu, báo cáo tổng kết của ngành Tồ án,
nhóm chúng em xin đưa ra các ý kiến sau:
+ Tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS đã liệt kê những tranh chấp kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án. Hạn chế của phương pháp liệt kê này là sẽ
không thể liệt kê đầy đủ những tranh chấp kinh doanh, thương mại nhất là trong nền
kinh tế đang phát triển mạnh mẽ và có sự tham gia của nhiều chủ thể và nhiều hành vi
thương mại như ở Việt Nam hiện nay. Điều đó dẫn đến việc, nếu có những tranh chấp
thuộc loại nằm ngoài các tranh chấp được liệt kê này thì Tịa án có thẩm quyền giải
quyết hay khơng? Ví dụ: tranh chấp về vận chuyển hàng hóa bằng đường ống…Ngược
lại, nhiều loại tranh chấp cụ thể này đều có thể quy về loại tranh chấp “cung ứng dịch
vụ” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 29 BLTTDS. Có ý kiến cho rằng cần nghiên cứu
để bỏ phần liệt kê này và chỉ cần quy định “Các tranh chấp kinh doanh, thương mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là các tranh chấp kinh doanh, thương mại
giữa các thương nhân với nhau” là đủ. Nhóm chúng tơi đồng ý với ý kiến này, tuy
nhiên, để quy định như vậy, pháp luật cần làm rõ khái niệm tranh chấp kinh doanh,
thương mại. Ví dụ: có thể đưa ra một khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại với
hai dấu hiệu3:
Thẩm quyền dân sự của toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại :
Khoá luận tốt nghiệp / Nguyễn Đức Chiến; Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Triều Dương
3
6
- Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh
doanh, tranh chấp này phát sinh từ các hoạt động phục vụ một cách trực tiếp hay gián
tiếp cho quá trình kinh doanh.
- Một trong các bên chủ thể của tranh chấp phải là chủ thể kinh doanh. Đây là
những chủ thể thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạng của quá trình
đầu tư từ sản xuất tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.
+ Về khoản 2 Điều 29 BLTTDS: tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển
giao cơng nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận
Có ý kiến cho rằng khơng nên tách loại tranh chấp về sở hữu trí tuệ ra làm hai
loại căn cứ vào việc xác định có hay khơng có mục đích lợi nhuận. Việc phân biệt như
hiện nay dẫn đến sự phân loại tranh chấp, xác định thẩm quyền của Tòa án chưa rõ
ràng. Thực tế ngày nay tri thức đã trở thành hàng hóa trực tiếp, các tranh chấp về sở
hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ sẽ ngày càng nhiều, ngày càng phức tạp và ngày
càng gần gũi với các tranh chấp thương mại hơn (các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ hầu hết là đều nhằm mục đích lợi nhuận). Do vậy, có ý kiến cho rằng nên gộp hai
loại tranh chấp về sở hữu trí tuệ này thành một loại là tranh chấp về sở hữu trí tuệ và
giao cho Tịa Kinh tế đồng thời đổi tên “Tòa Kinh tế” hiện nay thành “Tịa Thương mại
và Sở hữu trí tuệ” như xu thế hiện nay của các nước trên thế giới.
+ Về khoản 3 Điều 29 BLTTDS:
Thực tiễn xét xử trong thời gian qua cho thấy loại án này ngày càng nhiều và rất
phức tạp. Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của Cơng ty theo quy định tại khoản
3 Điều 29 BLTTDS đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 khá cụ thể nên giúp cho Tòa án
phân định rõ các loại tranh chấp kinh doanh thương mại khá mới mẻ ở Việt Nam. Tuy
nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần làm rõ:
◊ Cụm từ “liên quan đến việc thành lập, hoạt động…” có nghĩa rất rộng, nên các
Tịa án địa phương gặp lúng túng và nhầm lẫn trong việc xác định các loại tranh chấp
dân sự, tranh chấp lao động nói ở điểm c tiểu mục 3.5 Nghị quyết số 01/2005 nêu trên
là tranh chấp thương mại (như các trường hợp: Cơng ty khởi kiện địi lại con dấu của
Cơng ty do thành viên của Công ty - lãnh đạo của Công ty nhiệm kỳ trước - không chịu
giao con dấu cho lãnh đạo mới của Công ty; thành viên Công ty cho Cơng ty vay tiền
nay khởi kiện địi nợ; Cơng ty khởi kiện địi thành viên của Cơng ty thực hiện nghĩa vụ
khốn trong kinh doanh. . .). Vì vậy, cần nghiên cứu để sửa lại quy định này cho rõ
ràng hơn.
7
◊ Trong trường hợp cá nhân đã nộp tiền mua phần vốn góp của thành viên Cơng
ty nhưng chưa được đăng ký để trở thành thành viên Công ty TNHH, nay có tranh chấp
thì có là tranh chấp giữa thành viên Công ty với Công ty hoặc giữa thành viên Công ty
với nhau không hay tranh chấp giữa cá nhân với cơng ty? Có quan điểm cho rằng đây
là tranh chấp về mua bán phần vốn góp giữa cá nhân người mua với Công ty hoặc giữa
cá nhân người mua với cá nhân khác là thành viên của Công ty chứ không phải là tranh
chấp giữa thành viên Công ty với Công ty hoặc giữa các thành viên của Công ty với
nhau, vì cá nhân người mua trên chưa là thành viên của Công ty. Vấn đề này chiếu theo
quy định của BLTTDS thì có được coi là tranh chấp kinh doanh, thương mại hay
không? Hay như trường hợp công ty thuê người là Giám đốc nay thành viên công ty
khởi kiện Giám đốc bồi thường do quản lý kém, khơng hồn thành nhiệm vụ - tranh
chấp này có được coi là tranh chấp giữa các thành viên công ty hay không?
◊ Về tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, việc áp dụng trên
thực tế còn nhiều lúng túng khi các tòa án xác định có phải là tranh chấp kinh doanh
thương mại giữa thành viên cơng ty với cơng ty khơng. Ví dụ, trong q trình điều
hành hoạt động của cơng ty, lợi dụng cương vị quản lý của mình, giám đốc Cơng ty đã
chiếm dụng vốn của Công ty để sử dụng cho hoạt động kinh doanh riêng của mình
(khơng thuộc trường hợp chiếm đoạt được quy định trong Bộ luật hình sự), Cơng ty
khởi kiện vụ án để địi lại số tiền bị chiếm thì có phải là loại tranh chấp kinh doanh
thương mại giữa thành viên công ty với công ty khơng? Có ý kiến nhận định rằng đây
là tranh chấp dân sự về vay, mượn tài sản chứ không thuộc loại tranh chấp về kinh
doanh, thương mại theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS. Chính vì vậy, cần có
hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này.
+ Theo quy định, trong một thời hạn nhất định, cổ đông, thành viên hội đồng quản
trị... có quyền u cầu tịa án xem xét, hủy bỏ quyết định của đại hội đồng cổ đơng...
Một số ý kiến nói u cầu này là loại việc kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa
bằng một vụ án kinh doanh, thương mại tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nhưng nhiều ý kiến khác lại bảo đây là loại việc dân sự (yêu cầu về kinh doanh,
thương mại) thuộc thẩm quyền của tòa theo quy định tại khoản 4 Điều 40 bộ luật trên.
Nhóm chúng tơi cho rằng, đây là loại việc dân sự. Tuy nhiên để tránh nhầm lẫn và để
áp dụng một cách thống nhất thì cũng cần có quy định rõ ràng hơn.
+ Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sát nhập, chia tách... của trường dạy nghề, trường dân lập, trường tư thục, các doanh
nghiệp hoạt động lĩnh vực chứng khốn, hợp tác xã... cũng cịn gặp nhiều khó khăn.
Bởi lẽ những vấn đề trên chưa được nêu trong Luật doanh nghiệp 2005. Nhiều tòa đã
lúng túng khi xác định quan hệ tranh chấp cũng như việc áp dụng văn bản pháp luật.
Có quan điểm cho rằng đây là tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các
thành viên công ty với nhau nhưng vấn đề đặt ra là áp dụng Luật Doanh nghiệp hay áp
8
dụng các Luật chuyên ngành? Chẳng hạn trường hợp trường tư thục, trường dân lập,
Luật giáo dục có quy định về quyền sở hữu tài sản, rút vốn, chuyển nhượng vốn nhưng
khơng quy định các trường này theo mơ hình như trong Luật doanh nghiệp. Nếu thụ lý,
giải quyết theo Luật doanh nghiệp (coi các trường trên là công ty TNHH) thì các thành
viên khơng được rút vốn mà chỉ có quyền mua lại, chuyển nhượng vốn góp mà thơi...
Các vấn đề nêu trên cần phải quy định rõ hơn trong BLTTDS và trước mắt cần
phải có văn bản hướng dẫn để thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật, hướng dẫn
để thống nhất xử lý giữa các toà, tránh chuyện tòa này áp dụng luật chung, tòa kia áp
dụng luật chuyên ngành.
2. Một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy đinh pháp luật về thẩm
quyền của Tòa án theo loại việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
+ Hoàn thiện các quy định của pháp luật: cần tiến hành rà soát sửa đổi, bổ sung
thêm các quy định cịn thiếu sót trong hệ thống các quy phạm pháp luật quy định về
thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực này (như đã phân tích ở trên), từ đó kịp thời ban
hành các văn bản hướng dẫn nhằm áp dụng thống nhất và tháo gỡ các vướng mắc trong
quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại
+ Thực hiện tăng cường thẩm quyền của TAND cấp huyện.
Trong những năm qua, số lượng vụ án mà TAND cấp Tỉnh phải giải quyết khá
lớn, điều này đã tạo sức ép cho Tòa án Tỉnh, đây là một trong những nguyên nhân dẫn
tới tình trạng tồn đọng các vụ án. Để có thể giải quyết tốt các tranh chấp kinh doanh,
thương mại như đã phân tích ở trên, cần tăng cường thẩm quyền cho TAND cấp huyện
để đảm bảo các tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết kịp thời, đầy đủ.
+ Đẩy nhanh tiến độ xây dựng để thực hiện đề án thành lập Tòa khu vực.
Thực tiễn xét xử cho thấy, số lượng và tính chất các vụ tranh chấp kinh doanh,
thương mại ở địa phương nào cũng giống nhau. Trong khi ở các thành phố lớn và khu
vực kinh tế phát triển, các tranh chấp kinh doanh thương mại xảy ra nhiều và có tính
chất phức tạp, tạo áp lực lớn cho Tịa án thì lại có những địa phương nhiều năm liền
khơng có tranh chấp kinh doanh, thương mại nào. Xuất phát từ thực tiễn địa phương đó
kinh tế phát triển chậm, đời sống ở mức đói nghèo, ở các vùng xâu vùng xa…Các quan
hệ kinh doanh, thương mại không nhiều, từ đó số lượng tranh chấp kinh doanh, thương
mại cũng ít. Nếu chúng ta vẫn áp dụng cách thức tổ chức của hệ thống Tòa án như hiện
nay: ở mỗi tỉnh và mỗi huyện đều có TAND. Cách thức tổ chức như vậy sẽ là một sự
lãng phí về nhân lực cũng như lãng phí về vật chất.
Thay vào đó, ở một số vùng, một số địa phương nhất định có thể tổ chức các
Tịa án khu vực. Tịa này sẽ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại (thậm chí là các vụ dân sự, hình sự…) trên phạm vi một vài huyện. Việc
nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu được giao cho ban Tư pháp của các xã. Các Tịa án
này có thể kết hợp với việc xét xử lưu động nhằm tạo điều kiện cho đương sự cũng như
nâng cao ý thức pháp luật của người dân ở những vùng có điều kiện khó khăn.
+ Nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ Thẩm phán
9
Qua báo cáo của TANDTC những năm trước đây chúng ta thấy rằng việc thiếu
cán bộ lãnh đạo ở một số Tòa án địa phương đã ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng xét
xử của Tòa án. Trong năm 2009 Tòa án các cấp đã tuyển dụng mới 744 cán bộ, chủ
yếu là tuyển dụng cho các chức danh tư pháp; Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng Đề
án biên chế của ngành Tòa án nhân dân và được Ủy ban thường vụ Quốc hội thơng
qua, theo đó tổng biên chế của ngành Tòa án nhân dân được tăng thêm 1500 người.
Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức các hội nghị để lấy ý kiến các Tịa án địa phương
về tiêu chí, căn cứ phân bổ biên chế, trên cơ sở đó đã quyết định phân bổ biên chế cho
các đơn vị trong tòa ngành và hướng dẫn các Tòa án địa phương xây dựng kế hoạch
tuyển dụng cán bộ và bổ nhiệm Thẩm phán.
+ Ban hành nhiều án lệ
Hiện nay, mỗi năm TANDTC có ban hành các tuyển tập “Quyết định giám đốc
thẩm của Hội đồng thẩm pháp Toà án nhân dân tối cao”. Tuy nhiên, số các bản án được
đưa ra cịn ít. Thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án các cấp
cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến có sai lầm trong các bản án, quyết
định dân sự là việc Thẩm phán hiểu và vận dụng pháp luật khi xét xử có những điểm
chưa đầy đủ và chưa phù hợp với thực tiễn, trong khi đó cơng tác hướng dẫn, giải thích
pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và của Tồ án nhân dân tối cao lại
không kịp thời hoặc chỉ hướng dẫn dưới dạng công văn, kết luận của Chánh án tại Hội
nghị tổng kết, nên tính ổn định của các hướng dẫn đó rất hạn chế và khơng có tính pháp
lý bắt buộc. Vì vậy, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật sao cho
phù hợp thực tiễn, cần nghiên cứu và ban hành các tập án lệ. Đây chính là tài liệu để
cho Tịa án các cấp vận dụng khi xét xử những vụ án có nội dung tương tự, đảm bảo
cho việc áp dụng pháp luật và xét xử thống nhất.
KẾT LUẬN
Mấy năm trở lại đây, do những diễn biến phức tạp của đời sống xã hội nên các
tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Năm 2005,
toà án đã giải quyết được 1223 vụ trong tổng số 1495 vụ việc tranh chấp, yêu cầu về
kinh doanh, thương mại và yêu cầu phá sản; năm 2006 là 2274/2866 vụ việc; năm 2008
là 5343/6034 vụ việc cho đến năm 2009 số vụ việc được giải quyết lên đến hơn 8000
vụ. Có thể nói, đó là một con số khơng nhỏ, phản ánh một thực tế về sự gia tăng của
các tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng như những loại án đặc thù, mới phát sinh
mà để giải quyết ổn thỏa, đảm bảo quyền lợi cho các bên là một cơng việc khơng phải
đơn giản. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung BLTTDS là điều cần thiết để đảm bảo lợi ích
của mỗi cá nhân,bảo vệ lợi ích quốc gia trong q trình hội nhập, đồng thời tơn trọng
các điều ước quốc tế; kế thừa các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành và b ảo
đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, đầy đủ và hiệu quả của hệ thống
pháp luật
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Văn bản pháp luật
1. Hiến pháp năm 1992.
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
3. Luật doanh nghiệp năm 2005.
4. Luật thương mại năm 2005.
* Các bài viết, sách tham khảo.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2009.
2. Trường đào tạo các chức danh tư pháp, Sổ tay thẩm phán, Nxb. CAND, Hà Nội,
2001.
3. Viên Thế Giang, “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định
của BLTTDS”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 12/2005, tr. 49 - 51.
4. Phan Chí Hiếu, “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh theo
BLTTDS và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành”, Tạp chí nhà nước và
pháp luật, số 6/2005, tr. 43.
5. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự - Những vướng mắc và giải pháp khắc phục: Luận văn thạc sĩ Luật học /
Cung Mỹ Anh; Người hướng dẫn: TS. Phan Chí Hiếu . - H., 2008 .
6. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của toà án theo Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2004 / Vũ Thị Hồng Vân // Tạp chí Luật học. Trường
đại học luật Hà Nội. Số 4/2008, tr. 56 – 64
7. Tranh chấp lao động hay tranh chấp kinh doanh thương mại / ThS.Vũ Thị Thu
Hiền // Toà án nhân dân. Toà án nhân dân tối cao, Số12/2009, tr. 22 – 24.
8. Một số kiến nghị liên quan đến quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại theo điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự / Nguyễn Thị Vân
Anh // Nghề luật. Học viện tư pháp. Số3/2010, tr.18 – 22.
11
9. Thẩm quyền dân sự của toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại : Khoá luận tốt nghiệp / Nguyễn Đức Chiến; Người hướng dẫn: ThS.
Nguyễn Triều Dương, Hà Nội, 2010.
10. Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành BLTTDS của Toà án nhân dân tối cao.
* Website:
+ />Cơ chế và kiến nghị hoàn thiện giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng Tòa
Kinh tế, Nguyễn Minh Đức.
+ />Giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án, Luật sư Tony Thắng.
+ .
Xử án kinh doanh, thương mại cũng khổ , Tạp chí Pháp luật, Khái Hà, Đức Minh.
12