Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Lý luận về quy phạm pháp luật và phân tích cơ cấu của 2 quy phạm pháp luật thực tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.55 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY PHẠM PHÁP LUẬT...........2
1.1. Khái niệm quy phạm pháp luật......................................................2
1.2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật.................................................3
1.3. Cơ cấu của quy phạm pháp luật.....................................................5
1.3.1 Giả định........................................................................................5
1.3.2 Quy định.......................................................................................7
1.3.3 Chế tài..........................................................................................8
II. PHÂN TÍCH QUY PHẠM PHÁP LUẬT............................................9
2.1. Phân tích Quy định..........................................................................9
2.2. Phân tích Chế tài............................................................................10
2.2.1. Mợt sớ loại chế tài thường gặp..................................................10
2.2.2. Ví dụ các loại chế tài.................................................................11
KẾT LUẬN....................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................14

i


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Do vậy nhà nước ta vẫn giữ nguyên các đặc trưng cơ
bản của nhà nước, trong đó “Nhà nước ban hành luật và thực hiện sự quản lý
bắt buộc đối với mọi công dân” là đặc trưng thứ tư trong số năm đặc trưng
của mọi nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật, tức là ban ra hệ thống các quy tắc xử sự
cho mọi thành viên của xã hội. Để bảo đảm cho các quy tắc ấy được thực
hiện, nhà nước sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như tuyên truyền, phổ biến
giáo dục, thuyết phục mọi người tôn trọng và tự giác thực hiện và trong


những trường hợp cần thiết, nhà nước có thể áp dụng những biện pháp cưỡng
chế nhất định như việc áp dụng các biện pháp xử phạt đối với những người vi
phạm pháp luật.
Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Đảng và nhà
nước thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Việc ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của cơ bản đúng thẩm quyền về nội dung và hình
thức, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, phù hợp với tình hình phát triển kinh
tế – xã hội tại địa phương, đã cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật của
các cơ quan nhà nước cấp trên, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ
thống pháp luật; góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
phục vụ cho công tác quản lý nhà nước trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã
hội. Thành tựu nêu trên là sự đóng góp thiết thực vào việc hồn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính
trị, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, ổn định an ninh chính trị, trật tự xã
hội và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn. Do đó qua q trình
học tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “ Lý luận về quy phạm pháp luật
và phân tích cơ cấu của 2 quy phạm pháp luật thực tế” để có cái nhìn sâu
và rộng hơn.
1


2


PHẦN II: NỘI DUNG
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm quy phạm pháp luật
Một trong những thuộc tính cơ bản, quan trọng của pháp luật là tính
quy phạm phổ biến, bởi pháp luật được tạo nên chủ yếu là từ các quy phạm
pháp luật. Quy phạm pháp luật vừa mang những đặc tính của pháp luật vừa có

những đặc tính riêng rẽ của mình liên quan đến hình thức và nội dung của nó.
Nghiên cứu lí luận về quy phạm pháp luật có ý nghĩa rất lớn khơng chỉ về mặt
lí luận nhận thức mà còn phục vụ rất thiết thực cho các hoạt động thực tiễn
pháp lí như xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật được chính xác, khoa
học. Ngồi ra, nó cịn phục vụ việc nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân,
tạo kĩ năng sống và làm việc theo pháp luật của các tổ chức và cá nhân trong
xã hội. Vì những lẽ đó mà lí thuyết về quy phạm pháp luật cần được nghiên
cứu chi tiết, đầy đủ.
Trong xã hội có nhiều loại quy phạm xã hội khác nhau cùng được sử
dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội như quy phạm đạo đức, quy phạm tập
quán, quy phạm của các tổ chức chính trị - xã hội, quy phạm (tín điều) tơn
giáo và quy phạm pháp luật... Các quy phạm xã hội khác nhau thì có những
đặc tính khác nhau, nhưng chúng ln liên quan mật thiết với nhau, ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau và cùng tác động lên các quan hệ xã hội. Trong xã hội
có giai cấp thì quy phạm pháp luật có vai trị quan trọng nhất đối với việc duy
trì trật tự xã hội, tạo điều kiện cho xã hội ổn định và phát triển.
Theo định nghĩa về Quy phạm phát luật tại Khoản 1 Điều 3 Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 thì quy định như sau:
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc
chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà
3


nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà
nước bảo đảm thực hiện.
1.2. Đặc điểm của quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội, vì vậy cũng như các
quy phạm xã hội khác nó là quy tắc xử sự của con người. Quy phạm pháp luật
luôn là khuôn mẫu cho hành vi của con người, nó chỉ dẫn cho con người cách

xử sự (được làm gì, khơng được làm gì, hoặc phải làm gì, làm như thế nào)
frong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Điều này cũng có nghĩa là quy
phạm pháp luật đã chỉ ra cách xử sự và xác định các phạm vi xử sự của con
người, cũng như những hậu quả bất lợi gì nếu như không thực hiện đúng hoặc
vi phạm chúng.
Quy phạm pháp luật là kết quả hoạt động có lí chí và ý chí của con
người. Quy phạm pháp luật khơng hình thành một cách tự nhiên mà nó phụ
thuộc vào ý chí nhà nước, ý chí của những người tạo ra nó.
Quy phạm pháp luật có thể tác động rất nhiều lần và trong thời gian
tưong đối dài cho đến khi nó bị thay đổi, hoặc bị mất hiệu lực. Nó được sử
dụng ữong tất cả mọi trường hợp khi xuất hiện những hoàn cảnh, điều kiện đã
được dự liệu.
Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá
hành vi của con người. Không chỉ là khn mẫu cho hành vi, quy phạm pháp
luật cịn là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá về tính hợp pháp hay
khơng hợp pháp trong hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều
chỉnh. Nghĩa là, thơng qua quy phạm pháp luật mới biết được hành vi nào của
các chủ thể có ý nghĩa pháp lí, hành vi nào khơng có ý nghĩa pháp lí, hành vi
nào phù hợp với pháp luật, hành vi nào trái pháp luật... Chẳng hạn, để biết
được đâu là hành vi tình cảm, đâu là hành vi pháp luật của cá nhân chúng ta
phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật hay để đánh giá hành vi nào là vi
4


phạm hành chính, hành vi nào là vi phạm hình sự (tội phạm) thì phải căn cứ
vào các quy phạm của pháp luật hành chính và pháp luật hình sự.
Quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm
thực hiện. Quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt
ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, do vậy quy phạm pháp luật thể hiện ý chí nhà
nước, chúng chứa đựng trong mình những tư tưởng, quan điểm chính trị pháp lí của nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong việc điều chỉnh các

quan hệ xã hội. Nhà nước áp đặt ý chí của mình trong quy phạm pháp luật
bằng cách xác định những đối tượng (tổ chức, cá nhân) nào trong những hồn
cảnh, điều kiện nào thì phải chịu sự tác động của quy phạm pháp luật, những
quyền và nghĩa vụ pháp lí mà họ có và cả những biện pháp cưỡng chế nào mà
họ buộc phải gánh chịu. Bằng việc chỉ ra các quyền, nghĩa vụ hoặc trách
nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật điều
chỉnh tức là nhà nước đã nhận trách nhiệm bảo vệ chúng và bảo đảm cho
chúng được thực hiện bằng quyền lực nhà nước. Thuộc tính do các cơ quan
nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện là thuộc tính thể hiện sự khác biệt
cơ bản giữa quy phạm pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác.
Quy phạm pháp luật là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, nội dung của
nó thể hiện hai mặt là cho phép và bắt buộc, nghĩa là, quy phạm pháp luật là
quy tắc xử sự trong đó chỉ ra các quyền và nghĩa vụ pháp lí của các bên tham
gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Trong quy phạm pháp luật thường chứa
đựng những chỉ dẫn về khả năng và các phạm vi có thể tiến hành hành vi,
cũng như những nghĩa vụ mà các bên tham gia quan hệ xã hội phải thực hiện.
Trong cơ chế điều chỉnh pháp luật quy phạm pháp luật có vai trị thực hiện
chức năng thơng báo của nhà nước đến các chủ thể tham gia quan hệ xã hội
về nội dung ý chí, mong muốn của nhà nước để họ biết được cái gì có thể
làm, cái gì khơng được làm, cái gì phải làm, cái gì phải tránh khơng làm trong
những hồn cảnh, điều kiện nhất định nào đó...
5


Khơng chỉ dừng ở đó, quy phạm cịn xác định rõ những hồn cảnh, điều
kiện tác động của mình, đồng thời cịn chỉ ra những hậu quả pháp lí đối với
các chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh đã được thiết lập trong quy
phạm.
Tóm lại: Quy phạm pháp luật là quy tẳc xử sự chung do nhà nước đặt
ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo

những định hướng và nhằm đạt được những mục đích nhất định.
Các quy phạm pháp luật có thể là những quy tắc xử sự của cơng dân,
của những người có chức vụ, quyền hạn, là những quy định về cơ cấu tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, là những quy định về địa vị pháp lí của
các đồn thể, tổ chức quần chúng và các chủ thể pháp luật khác.
1.3. Cơ cấu của quy phạm pháp luật
1.3.1 Giả định
Khái niệm: Giả định là một phần của quy phạm pháp luật trong đó nêu
ra những tình huống (hồn cảnh, điều kiện) có thể xảy ra trong đời sống xã
hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ thể (tổ chức, cá
nhân) nhất định, nói cách khác giả định nêu lên phạm vi tác động của quy
phạm pháp luật đối với cá nhân hay tổ chức nào? Trong những hoàn cảnh,
điều kiện nào?
Chẳng hạn, Điều 95 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 quy định: “ Cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, người tố
cáo có cơng trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì
được khen thưởng theo quy định của pháp luật”. Phần giả định của quy phạm
này là: “ Cơ quan, tổ chức , cá nhân có thành tích trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo, người tố cáo có cơng trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước,
tổ chức, cá nhân”.
Mục đích, ý nghĩa của giả định
6


Phần giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tổ chức, cá
nhân nào? Trong những tình huống (hồn cảnh, điều kiện) nào? Thơng qua
phần giả định của quy phạm pháp luật chúng ta biết được tổ chức, cá nhân
nào? khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện nào? thì chịu sự tác động của quy
phạm pháp luật đó. Việc xác định tổ chức, cá nhân nào và những hoàn cảnh,
điều kiện nào để tác động là phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.

Yêu cầu.
Những chủ thể, hoàn cảnh, điều kiện nêu trong phần giả định của quy
phạm pháp luật phải rõ ràng, chính xác, sát với tình hình thực tế, tránh tình
trạng nêu mập mờ, khó hiểu dẫn đến khả năng khơng thể hiểu được hoặc hiểu
sai lệch nội dung của quy phạm pháp luật.
Trong phần giả định nêu phạm vi tác động của quy phạm pháp luật. Do
vậy, khi xây dựng pháp luật cần phải dự kiến được mức tối đa những tình
huống (hồn cảnh, điều kiện) có thể xảy ra trong đời sống thực tế mà trong đó
quan hệ xã hội cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật.
Các tổ chức, cá nhân khi thực hiện pháp luật cần phải nhận thức thật
chính xác xem chủ thể nào chịu sự tác động của quy phạm pháp luật đó.
Chẳng hạn, Khoản 1 Điều 102 Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 quy định:
“Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng, tuy có điều kiện mà khơng cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì
bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng
đến hai năm”.
Hoàn cảnh ở đây là: “người nào thấy người khác đang ở trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng”, nhưng chủ thể chịu sự tác động của quy
phạm này không phải là tất cả những người trong hồn cảnh đó mà chỉ gồm
những người: “tuy có điều kiện mà khơng cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó
chết”.
7


Ví dụ về quy phạm của pháp luật: “Người nào thấy người khác đang ở
tring tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà khơng cứu giúp
dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm” (Khoản 1 Điều 102 Bộ
Luật hình sự 1999).
Những hồn cảnh, điều kiện và chủ thể được nêu trong phần giả định

các quy phạm pháp luật có thể được nêu theo cách liệt kê (kể tên tất cả các
tình huống có thể xảy ra.
Chẳng hạn, Điều 29 Điều lệ trật tự an toàn giao thông đô thị 1995 quy
định: “Nghiêm cấm người điều khiển các loại xe trong các trường hợp sau
đây: a. Do tình trạng sức khỏe khơng tự chủ điều khiển được tốc độ xe; b.
Người lái xe đang điều khiển xe trên đường mà trong máu có nồng độ cồn,
rượu, bia vượt quá 80mmg/100mml máu hoặc 40mmg/1 lít khí thở và các
chất kích thích khác; c. Khơng có đủ giấy tờ đã quy định…”), nhưng cũng có
thể được nêu theo cách loại trừ (loại trừ những chủ thể hoặc những trường
hợp không chịu sự tác động của quy phạm. Chẳng hạn, Điều 7 Luật tổ chức
tòa án nhân dân 1992 quy định: “Tịa án xét xử cơng khai, trừ trường hợp cần
xét xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước hoặc thuần phong mỹ tục của dân tộc”).
Giả định của quy phạm pháp luật có thể thay đổi do sự thay đổi của các
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội…của đất nước hoặc sự thay đổi của các
quan điểm chính trị – pháp lý của nhà nước và sự nhận thức của những người
có liên quan tới q trình xây dựng pháp luật của nhà nước.
1.3.2 Quy định
Khái niệm: Quy định là bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu
cách xử sự mà tổ chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong
bộ phận giả định của quy phạm pháp luật được phép hoặc buộc phải thực
hiện.
8


Mục đích, ý nghĩa
Thơng qua bộ phận quy định của quy phạm pháp luật các chủ thể pháp
luật mới biết được là nếu như họ ở trong hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong
phần giả định của quy phạm thì họ phải làm gì? Được làm gì? Hoặc khơng
được làm gì?
Như vậy, bộ phận quy định của quy phạm pháp luật đã thiết lập cho

các chủ thể tham gia quan hệ xã hội mà quy phạm pháp luật điều chỉnh có các
quyền và nghĩa vụ nhất định.
Yêu cầu.
Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật thường được nêu ở dạng:
Cấm, khơng được, phải, thì, được, có… Mức độ chính xác, chặt chẽ, rõ ràng
của bộ phận quy định là một trong những điều kiện đảm bảo nguyên tắc pháp
chế trong hoạt động của các chủ thể pháp luật.
Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định có thể dứt khốt (chỉ có một
sự lựa chọn cho chủ thể tham gia) hoặc khơng dứt khốt (nêu ra hai hoặc
nhiều cách xử sự và cho phép các tổ chức hoặc cá nhân chủ thể lựa chọn).
Trong một số trường hợp khác cịn tồn tại trường hợp tùy nghi nó cho phép
các chủ thể có thể tự lựa chọn và xác định quyền và nghĩa vụ của bản thân.
1.3.3 Chế tài
– Khái niệm: Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên
những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện nghiêm chỉnh. Các biện pháp tác động nêu ở bộ phận chế tài
sẽ được áp dụng đối với tổ chứ hay cá nhân nào vi phạm pháp luật, không
thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu ở bộ phận quy định của quy
phạm pháp luật.
Mục đích, ý nghĩa.

9


Bộ phận chế tài trả lời cho câu hỏi: Hậu quả sẽ như thế nào nếu vi
phạm pháp luật, không thực hiện đúng những mệnh lệnh của nhà nước đã nêu
ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.
Chế tài là điều kiện đảm bảo cần thiết cho những quy định của nhà
nước được thực hiện. Trong đó, các biện pháp mà nhà nước đưa ra rất đa
dạng. Như là:

+ Những biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính trừng phạt có liên
quan đến trách nhiệm pháp lý. Loại chế tài này gồm có: Chế tài hình sự, chế
tài hành chính, chế tài kỷ luật và chế tài dân sự.
+ Có thể chỉ là những biện pháp chỉ gây cho chủ thể những hậu quả bất
lợi như đình chỉ, bãi bỏ các văn bản sai trái của cơ quan cấp dưới.
II. PHÂN TÍCH QUY PHẠM PHÁP LUẬT
2.1. Phân tích Quy định
Quy định là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu cách xử
sự mà tổ chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong bộ phận
giả định của quy phạm pháp luật được phép hoặc buộc phải thực hiện.
Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi: Phải làm gì?
Được làm gì? Khơng được làm gì? Làm như thế nào?
Ví dụ về quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm.” (Điều 33 Hiến pháp năm 2013). Bộ
phận quy định của quy phạm là “có quyền tự do kinh doanh” (được làm gì).
Hoặc “Trường hợp các bên khơng có thỏa thuận và pháp luật khơng
quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ
luật này” (Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015), bộ phận quy định của quy phạm
là: “thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với
10


các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật
này”.
Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật có thể
dứt khốt (chỉ nêu một cách xử sự và các chủ thể buộc phải xử sự theo mà
không có sự lựa chọn.
Ví dụ khoản 1, Điều 12 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 quy
định: “Khi việc kết hơn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm

dứt quan hệ như vợ chồng.”).
Hoặc không dứt khoát (nêu ra 2 hoặc nhiều cách xử sự và cho phép các
tổ chức hoặc cá nhân có thể lựa chọn cho mình cách xử sự thích hợp từ những
cách xử sự đã nêu, ví dụ: Luật hơn nhân và Gia đình quy định: “Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan
đăng ký kết hôn.; Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở
nước ngồi là cơ quan đăng ký kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với nhau ở
nước ngồi”).
2.2. Phân tích Chế tài
2.2.1. Một số loại chế tài thường gặp
Chế tài hành chính: Là những hậu quả pháp lý khi chủ thể vi phạm
những quy định trong pháp luật về hành chính. Bộ phận của quy phạm pháp
luật hành chính (giả định, quy định, chế tài).
Chế tài hình sự: Là những hậu quả về pháp lý khi chủ thể vi phạm
những điều được quy định trong luật hình sự. Chế tài hình sự là bộ phận hợp
thành của quy phạm pháp luật hình sự.
Chế tài dân sự: Hậu quả pháp lý bất lợi ngoài mong muốn được áp
dụng đối với người có hành vi vi phạm trong quan hệ dân sự khi họ thực hiện.
Thực hiện không đúng các nghĩa vụ dân sự. Chế tài dân sự thường liên quan
11


đến tài sản (buộc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khơi phục lại tình trạng ban
đầu. Hồn trả lại cho nhau những gì đã nhận…).
Hoặc có thể là những biện pháp chế tài khác (buộc chấm dứt hành vi vi
phạm, buộc xin lỗi, cải chính cơng khai…).
Chế tài thương mại: Chế tài thương mại là hậu quả được áp dụng cho
bên vi phạm. Khi có những hành vi vi phạm xảy ra trong giao kết, thực hiện
hợp đồng thương mại.
2.2.2. Ví dụ các loại chế tài

Ví dụ số 1:
Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân
dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã
hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn
dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. (Điều 65 Hiến pháp
2013).
Phân tích dưới góc độ cấu thành quy phạm pháp luật gồm 3 phần: Giả
định, quy định và chế tài thì:
>> Giả định: “Lực lượng vũ trang nhân dân” Phần giả định trong
trường hợp này nêu lên quan hệ xã hội mà quy phạm này điều chỉnh, xác định
rõ đối tượng phải chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật này đó là lực
lượng vũ trang nhân dân.
>> Quy định: “tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng
và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân
dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất
nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”. Phần quy định trong trường hợp này nêu
lên cách thức xử sự của đối tượng được nêu ở phần giả định.
12


>> Chế tài: khơng có.
Ví dụ số 3:
Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người
khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng
hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. (Điều 155 Bộ luật Hình sự
2015).
>> Giả định: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự
của người khác”. Giả định trong trường hợp này đã nêu lên đối tượng phải

chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật này đó là người xúc phạm nghiêm
trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
>> Quy định: không được nêu rõ ràng trong quy phạm pháp luật nhưng
ở dạng quy định ngầm. Theo đó, quy định trong trường hợp này là không
được xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
>> Chế tài: “bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”. Chế tài ở
đây là biện pháp của Nhà nước tác động đến chủ thể vi phạm pháp luật.

13


KẾT LUẬN
Các nguyên tắc của hệ thống pháp luật nước ta được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013 tạo ra một không gian rộng lớn cho hoạt động xây dựng
pháp luật. Đồng thời, các ngun tắc đó cũng địi hỏi phải xây dựng chính
sách pháp luật có cơ sở khoa học với tư cách là phương tiện làm tối ưu hóa
hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, ở nước ta các văn bản quy phạm pháp luật mới có chất lượng
từng bước đã và đang được hình thành đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung
thường xuyên các văn bản quy phạm pháp luật; hình thành nên các ngành và
các chế định pháp luật mới, sửa đổi, bổ sung các chế định pháp luật hiện
hành, tiến hành hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật.
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là công cụ quan trọng và
hiệu quả được Nhà nước sử dụng để quản lý xã hội. Tính kịp thời, tính đầy
đủ, tính chính xác và tính hiện thực (khả thi) của các quyết định xây dựng
pháp luật, đặc biệt của các quyết định lập pháp là một trong những yếu tố
quyết định của quá trình tăng cường và phát huy dân chủ ở Việt Nam, xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hình
thành thị trường văn minh và tạo ra các bảo đảm cho quyền con người và

quyền công dân.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lưu Kiếm Thanh, Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật”, NXB Thống kê, 2015.
[2] Hà Quang Thanh, Hồn thiện quy trình ban hành và thực hiện văn
bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh, NXB
Chính trị – Hành chính, 2019.
[3] Lưu Kiếm Thanh, Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật”, NXB Thống kê, 2003.
[4] Hà Quang Thanh, Hồn thiện quy trình ban hành và thực hiện văn
bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh, NXB
Chính trị – Hành chính, 2009.

15



×