Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Áp dụng án lệ ở việt nam những bất cập và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.56 KB, 8 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ ÁN LỆ....................2
1.1.

Khái niệm.......................................................................................2

1.2.

Nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử...........................................2

CHƯƠNG II: MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ÁN
LỆ HIỆN HÀNH.........................................................................................3
2.1. Một số hạn chế, bất cập về hoạt động áp dụng án lệ..........................3
2.2. Hướng hoàn thiện án lệ......................................................................5
KẾT LUẬN......................................................................................................6

i


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU

1

Đến nay, pháp luật Việt Nam quy định về cơ sở pháp lý cho hoạt động
áp dụng án lệ của Tòa án một cách rõ ràng khơng chỉ trong Nghị quyết
03/2015/ NQ – HĐTP mà cịn quy định trong các lĩnh vực pháp luật nội dung
lẫn pháp luật hình thức (tố tụng). Cụ thể tại khoản 2 Điều 8 quy định: “Khi
xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các


vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống
nhau phải được giải quyết như nhau”. Tại khoản 2 Điều 6 của BLDS năm
2015 cũng quy định: “Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo
quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ cơng bằng”. Ngồi
ra, tại khoản 3 Điều 45 của BLTTDS năm 2015 quy định: “Việc áp dụng các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng được thực hiện
như sau: Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ
công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương
tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và Khoản 1 Điều 6 của Bộ luật Dân sự,
khoản 1 và khoản 2 điều này”. Nhằm cụ thể khoản 3 Điều 45, BLTTDS năm
2015[1] còn quy định chi tiết hoạt động áp dụng án lệ của tòa án ở cấp xét xử
sơ thẩm và phúc thẩm tại điểm b, khoản 2, Điều 266 và khoản 4, Điều 313
của Bộ luật này. Ngoài ra, Luật Tố tụng hành chính (TTHC) cũng quy định cơ
1

[1]. Khoản 4, Điều 313 BLTTDS năm 2015: “Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại

phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tịa để phân tích, đánh giá, nhận định về kháng cáo, kháng nghị, các tình tiết của vụ
án, việc giải quyết, xét xử của tòa án cấp sơ thẩm, những căn cứ pháp luật mà tòa án áp dụng, nếu vụ án thuộc trường hợp
quy định tại Khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này thì cịn phải căn cứ vào tập qn, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ
bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giải
quyết các vấn đề khác có liên quan”.
[2]. Khoản 2, Điều 194 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng, các chứng
cứ đã được xem xét tại phiên tịa để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về các tình tiết của vụ án, những
căn cứ pháp luật, án lệ (nếu có) mà tịa án áp dụng để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề khác có liên quan”.

1



sở pháp lý cho hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án ở cấp xét xử sơ thẩm và
phúc thẩm tại điểm b, khoản 2, Điều 194 và khoản 4, Điều 242 của Luật
TTHC năm 2015[2]. Hoạt động áp dụng án lệ của tòa án cũng còn khá mới
mẻ ở Việt Nam nên vẫn cịn nhiều khó khăn đặt ra cần giải quyết. Trong
phạm vi bài viết này, tác giả sẽ phân tích những bất cập cịn tồn tại trong hoạt
động áp dụng án lệ của Tòa án ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đưa ra những
kiến nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng án lệ của Tòa án.
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ ÁN LỆ
1.1.

Khái niệm

2

Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tịa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tồ án nhân dân tối cao
cơng bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.[3]
1.2.

Nguyên tắc áp dụng án lệ trong xét xử
1) Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 45 ngày kể từ ngày

công bố hoặc được ghi trong quyết định cơng bố án lệ của Chánh án Tồ án
nhân dân tối cao.
2) Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để
giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện
pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau. Trường hợp áp dụng án lệ

thì số bản án, quyết định của Tồ án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ
việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được
giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ
2

[3]. />
dat-ra-doi-voi-cong-tac-cong-an-gop-phan-thuc-thi-cac-6715

2


trong bản án, quyết định của Toà án; trường hợp khơng áp dụng án lệ thì phải
phân tích, lập luận, nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tồ án.
3) Trường hợp do có sự thay đổi của Luật, Nghị quyết của Quốc hội,
Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Nghị định của Chính
phủ mà án lệ khơng cịn phù hợp thì Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng án
lệ.
4) Trường hợp do chuyển biến tình hình mà án lệ khơng cịn phù hợp
thì Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng án lệ, đồng thời phải kiến nghị ngay
với Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế và
Quản lý khoa học) để xem xét hủy bỏ theo hướng dẫn tại các khoản 2, 3, 4 và
5 Điều 9 Nghị quyết này.
Việc án lệ được áp dụng trong xét xử sẽ góp phần tích cực trong việc
đảm bảo xét xử cơng bằng các vụ án có tính chất tương tự nhau, rà soát những
sai phạm trong xét xử các vụ án và đem lại sự công bằng cho xã hội.
CHƯƠNG II: MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
ÁN LỆ HIỆN HÀNH
2.1. Một số hạn chế, bất cập về hoạt động áp dụng án lệ
Thứ nhất, pháp luật quy định Tòa án tuân theo án lệ xuất phát từ hiệu
lực pháp lý của án lệ sẽ dẫn đến nguy cơ Tòa án dụng án lệ một cách cứng

nhắc. Mặc dù Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP cũng dự liệu trường hợp án lệ
khơng cịn phù hợp nên cho phép Tịa án có quyền năng bác bỏ án lệ nhưng
Tịa án khó có thể thực hiện quyền năng này. Tại khoản 3 Điều 9 Nghị quyết
03/2015/ NQ – HĐTP quy định cho phép Tịa án khơng áp dụng án lệ:
“Trường hợp Hội đồng xét xử không áp dụng án lệ và có phân tích, lập luận
nêu rõ lý do trong bản án, quyết định thì ngay sau khi tuyên án phải gửi kiến
nghị thay thế án lệ về Tòa án nhân dân tối cao”. Như vậy, nếu không áp dụng
án lệ thì Tịa án phải gửi kiến nghị thay thế án lệ đến TANDTC. Kiến nghị
3


thay thế án lệ chưa biết có được TANDTC chấp nhận hay khơng nhưng nguy
cơ bị Tịa án cấp trên hủy án là có thể.
Thứ hai, đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định yếu tố
bắt buộc nằm ở phần “Khái quát nội dung của án lệ” hay phần “Nội dung của
án lệ” theo mẫu án lệ đã công bố. Công văn số 146/TANDTC-PC của
TANDTC ngày 11 tháng 7 năm 2017 có hướng dẫn xác định yếu tố bắt buộc
của án lệ ở phần “Khái quát nội dung của án lệ” như sau: “Trường hợp áp
dụng án lệ thì số án lệ, số bản án, quyết định của Tồ án có chứa đựng án lệ,
tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết
vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ (nội dung khái quát
của án lệ) phải được viện dẫn, phân tích trong phần Nhận định của Tòa án”.
Thực tiễn áp dụng án lệ, một số Tịa án cịn trích tồn bộ nội dung của phần
“Khái quát nội dung của án lệ” trong phần lập luận của mình.
Thứ ba, các Thẩm phán chưa được trang bị kỹ càng kỹ năng xác định
tình tiết cơ bản có tính chất tương tự trong hoạt động áp dụng án lệ. Điều này
dẫn đến tình trạng cùng một tình tiết nhưng các tịa án áp dụng án lệ có quan
điểm khác nhau. Tịa án này cho rằng đó là tình tiết cơ bản nhưng Tịa án
khác lại khơng cho là tình tiết cơ bản.
Thứ tư, pháp luật quy định rõ thời điểm có hiệu lực của án lệ có thể dẫn

tình trạng bất bình đẳng, ngun tắc tương tự sẽ bị gián đoạn do áp dụng hiệu
lực thời gian của án lệ. Hai vụ việc A và B có tình tiết tương tự nhau nhưng
xảy ra ở hai thời điểm khác nhau có thể khơng được giải quyết như nhau.
Theo quy định của Nghị quyết 03/2015/ NQ – HĐTP năm 2015 thì thời điểm
có hiệu lực của án lệ là sau 45 ngày kể từ ngày công bố hoặc được ghi trong
quyết định công bố án lệ của Chánh án TANDTC chứ không dựa vào ngày
ban hành bản án, quyết định. Mặc dù bản án, quyết định có chứa giải pháp
pháp lý mới (chọn làm Dự thảo án lệ) đã công bố theo quy định của Nghị
quyết 03/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC nhưng trước
4


ngày công bố để nhằm xác định hiệu lực của án lệ thì các tịa án khơng được
phép áp dụng trong các trường hợp tương tự. Như vậy, nguyên tắc tương tự
nhằm bảo đảm sự công bằng bị gián đoạn bởi sự ấn định thời điểm có hiệu lực
án lệ của TANDTC.
2.2. Hướng hoàn thiện án lệ
Thứ nhất, pháp luật nên thay đổi theo hướng quy định mang tính “mềm”
hóa nghĩa vụ tuân theo án lệ của Tòa án. Thực tiễn ở các nước common law
lẫn các nước civil law khơng có văn bản pháp luật quy định trực tiếp nghĩa vụ
tuân theo án lệ của tòa án cũng như không quy định hiệu lực pháp lý của án
lệ. Ở các nước Đức, Pháp, Nhật Bản là các nước theo hệ thống luật lục địa,
trong đó luật thực định là nguồn cơ bản của luật, khơng có văn bản quy phạm
pháp luật quy định rằng phải xét xử theo án lệ. Ở các nước common law,
nghĩa vụ tuân theo án lệ của Tòa án được xác định theo nguyên tắc stare
decisis. Trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, do chịu ảnh hưởng từ
học thuyết thực chứng pháp lý (legal positivism) nên nguyên tắc bắt buộc tòa
án tuân theo án lệ trở nên cứng nhắc. Tuy nhiên, từ nửa sau thế kỷ XX, nghĩa
vụ tuân theo án lệ của Tòa án ở các nước common law trở nên mềm dẻo linh
hoạt hơn. Chẳng hạn, ở Anh, Tòa tối cao đưa ra tuyên bố (Practice Statement)

ngày 26 tháng 7 năm 1966 để bác bỏ án lệ của mình trước đó với hai lý do
như sau: “tuân theo các án lệ cứng nhắc có thể duy trì những sự bất cơng mãi
mãi và có thể cản trở sự phát triển thích đáng của pháp luật”. Ở Hoa Kỳ, do
chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa pháp luật hiện thực nên Tòa tối cao của Liên
bang hoặc các tòa tối cao của bang có thể bác bỏ án lệ của chính mình dễ
dàng hơn so với Tịa tối cao của Anh. Pháp luật Việt Nam có thể tham khảo
cách quy định về nghĩa vụ tuân theo án lệ của tòa án của Trung Quốc.
Thứ hai, về cách thức công bố án lệ, pháp luật nên quy định công bố án
lệ dưới hình thức bản án, quyết định của tịa án có thể kèm theo phần tóm tắt
thay cho hình thức cơng bố án lệ mẫu như hiện nay nhưng cần phải cải cách
5


viết phần lập luận trong bản án, quyết định. Điều này sẽ tránh được tình trạng
sai lệch giữa phần lập luận trong bản án, quyết định gốc (nội dung án lệ) với
phần khái quát nội dung của án lệ do Ban biên tập viết. Mặt khác, có thể
thống nhất được cách thức xác định yếu tố bắt buộc của án lệ nằm ngay trong
bản án, quyết định của tòa án. Phần tóm tắt chỉ giữ vai trị giúp người đọc dễ
nắm bắt vấn đề pháp lý và giải pháp pháp lý của án lệ chứ khơng là cơ sở có
giá trị bắt buộc.
Thứ ba, TANDTC cần nhanh chóng mở các khóa đào tạo, bồi dưỡng kỹ
năng cho các Thẩm phán trong việc xác định tình tiết tương tự. Vấn đề này,
Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm từ các nước common law. Thực chất
xác định tình tiết tương tự cũng chính là việc xác định phạm vi của quy tắc án
lệ (yếu tố bắt buộc của án lệ). Đây chính là cơng việc khó khăn và phức tạp
nhất của các thẩm phán ở các nước common law trong hoạt động áp dụng án
lệ bởi lẽ phạm vi hay mức độ khái quát của quy tắc án lệ như thế nào là do
các Tịa án sau xác định chứ khơng phải do Tòa án ban hành bản án, quyết
định xác định.
Thứ tư, pháp luật không nên quy định rõ thời điểm phát sinh và chấm

dứt hiệu lực của án lệ như hiện nay nhằm tránh tình trạng áp dụng án lệ cứng
nhắc cũng như cơng lý bị trì hỗn chỉ vì phụ thuộc vào thời điểm hiệu lực của
án lệ. Các tịa án có thể áp dụng án lệ linh hoạt hơn nhằm bảo đảm các vụ việc
giống nhau phải được giải quyết như nhau. Mặt khác, cũng tránh được tình
trạng các vụ việc giống nhau nhưng giải quyết khác nhau do yếu tố thời gian
(thời điểm có hiệu lực của án lệ).
KẾT LUẬN
Án lệ nói chung từ lâu đã trở nên rất phổ biến và vượt ra khỏi biên giới
của truyền thống luật, trở thành nguồn pháp luật của nhiều hệ thống pháp luật
trên thế giới. Đó là kết quả tất yếu của q trình tồn cầu hóa, hội nhập, hợp
6


tác diễn ra mạnh mẽ trong đời sống kinh tế, chính trị và pháp luật của thế giới
hiện đại.
Án lệ được chính thức thừa nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam là
bước ngoặt lớn, đánh dấu sự đột phá trong quá trình cải cách tư pháp. Từ
những định hướng về cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng, những
quy định của Hiến pháp và pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao đã và đang tích
cực xây dựng các đề án, triển khai thực hiện một cách khẩn trương, quyết liệt,
cho ra đời những án lệ nói chung, án lệ hình sự nói riêng, phục vụ cải cách tư
pháp, nhằm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, hướng tới xây dựng
Tịa án thân thiện, gần dân, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân và xã hội trong
giai đoạn mới.
Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, nhiều vụ
án có cùng hành vi, tình tiết tương tự nhau nhưng còn tồn tại cách hiểu khác
nhau, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, đưa đến hệ quả xét xử
là khác nhau. Thực tiễn đó đặt ra nhu cầu áp dụng án lệ để giải quyết các vụ
án hình sự là một yêu cầu tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu án lệ
hình sự và hiểu thấu đáo về cách thức, quy trình xây dựng và áp dụng án lệ

hình sự là một cơng việc cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về các tình tiết của
vụ án, những căn cứ pháp luật, án lệ (nếu có) mà tịa án áp dụng để chấp nhận
hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề khác có liên quan”.

7



×