Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Chính phủ việt nam đã có những chính sách kinh tế vĩ mô gì để đối phó với những ảnh hưởng này tập trung đi sâu vào các chính sách tiền tề và tài khóa đã học trên lớp, dùng mô đồ để đánh giá tác động của các chính sách này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.07 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ

BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Kinh tế vĩ mô

Giảng viên hướng dẫn : Phạm Thanh Sơn
Sinh viên

: Dương Thị Hải Yến

Lớp

: 18J9KT

Mã sinh viên

: 17041177

Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2021

1


MỤC LỤC
1. Phân tích ảnh hưởng của Covid-19 lên thị trường kinh tế vĩ mô Việt Nam ...............................................3
Thị trường hàng hóa ...................................................................................................................................3
Thị trường lao động ....................................................................................................................................5
Thị trường vốn ............................................................................................................................................6
2. Chính phủ Việt nam đã có những chính sách kinh tế vĩ mơ gì để đối phó với những ảnh hưởng này. Tập
trung đi sâu vào các chính sách tiền tề và tài khóa đã học trên lớp, dùng mơ đồ để đánh giá tác động của


các chính sách này. .........................................................................................................................................6
Chính sách tài khóa ....................................................................................................................................7
Chính phủ mở rộng chính sách tài khóa: ................................................................................................8
Tăng chi tiêu G .......................................................................................................................................8
Giảm thuế T ............................................................................................................................................8
Chính sách tiền tệ .......................................................................................................................................9
Chính sách tiền tệ: Tăng cung tiền MS ................................................................................................ 10
3. (Bonus) Trình bày cơ chế ảnh hưởng của những chính sách cân thiệp của chính phủ, đánh giá tác dụng
phụ có thể có trong ngắn hạn và dài hạn. .................................................................................................... 10
Tài liệu tham khảo ....................................................................................................................................... 13

2


1. Phân tích ảnh hưởng của Covid-19 lên thị trường kinh tế vĩ mô Việt Nam
Kinh tế – xã hội năm 2020 diễn ra trong bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp do
chủng mới của vi rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh và diễn biến khó lường trên
phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế – xã hội của các quốc
gia trên thế giới. Các nền kinh tế lớn đối mặt với tình trạng suy thoái sâu, tồi tệ nhất
trong nhiều thập kỷ qua. Ở Việt Nam, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tăng trưởng
tích cực năm 2019, kinh tế vĩ mô ổn định nhưng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn,
thách thức. Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường làm tăng trưởng ở hầu hết các
ngành, lĩnh vực chậm lại. Tình hình đứt gãy thương mại quốc tế gây ra những hệ lụy tới
hoạt động sản xuất và xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm
ở mức cao. Bên cạnh đó, hạn hán, xâm nhập mặn, mưa, lũ ảnh hưởng đến năng suất, sản
lượng cây trồng và đời sống nhân dân.
Thị trường hàng hóa
Thị trường hàng hóa có những biến động khơng ổn định qua các quý trong suốt giai
đoạn chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Trong quý II GDP vẫn tăng nhưng thấp
nhất trong các quý do chịu ảnh ảnh hưởng mạnh của dịch Covid-19 bùng phát trong

nước vào cuối quý I kéo dài sang đến quý II, nhiều địa phương phải thực hiện dãn cách
xã hội trong một thời gian dài làm cho sản xuất kinh tế chịu sự ảnh hưởng lớn.
Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tính chung q I/2020, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 59,08 tỷ USD, tăng
0,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 18,65 tỷ USD,
tăng 8,7%, chiếm 31,6% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi
(kể cả dầu thơ) đạt 40,43 tỷ USD, giảm 2,9%, chiếm 68,4%. kim ngạch hàng hóa nhập
khẩu ước tính đạt 56,26 tỷ USD, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực
kinh tế trong nước đạt 23,08 tỷ USD, giảm 3,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi đạt
33,18 tỷ USD, giảm 0,8%.
Trong quý II/2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 57.98 tỷ USD, giảm 9% so với cùng kỳ
năm trước và giảm 8.3% so với quý 1 năm nay. Kim ngạch nhập khẩu đạt 57.68 tỷ USD,
giảm 9.1% so với cùng kỳ năm trước và giảm 3% so với quý 1 năm nay.
Trong quý III/2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 80,07 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ
năm trước và tăng 34% so với quý II năm 2020 (tăng 26,6% so với quý I). Trong quý
III/2020, kim ngạch nhập khẩu đạt 68,54 tỷ USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước và
tăng 18,5% so với quý II năm 2020 (tăng 15,2% so với quý I).
Trong quý IV/2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 78,9 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ
năm trước và giảm 1,1% so với quý III năm nay. Trong quý IV/2020, kim ngạch nhập
khẩu đạt 76,4 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước và tăng 10,7% so với quý
III năm nay.
Hàng hóa bán lẻ
3


Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2020 đạt 1.246,1 nghìn
tỷ đồng, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước nhưng doanh thu du lịch lữ hành ước tính
đạt 7,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,6% tổng mức và giảm 27,8% (cùng kỳ năm 2019 tăng
13,2%).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm 2020

đạt 2380.8 nghìn tỷ đồng, giảm 5,3% nếu loại trừ yếu tố giá. Quý II/2020 là giai đoạn
chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch Covid-19 nên mức tiêu dùng giảm sâu khiến
cho cả giai đoạn nửa đầu năm tổng thể cũng giảm.
Tuy nhiên, nửa cuối năm 2020 có những cải thiện nên tổng quát chung thì tổng mức bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2020 ước tính đạt 5.059,8 nghìn tỷ đồng,
tăng 2,6% so với năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 1,2% (năm 2019 tăng 9,5%),
trong đó q IV/2020 ước tính đạt 1.378,6 nghìn tỷ đồng, tăng 6,4% so với quý trước
và tăng 8% so với cùng kỳ năm trước.

Y0
Ảnh hưởng của sự cắt giảm tổng cầu đến sản lượng và mức giá
Một cú sốc cầu lên thị trường kinh tế Việt Nam do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19:
Ban đầu nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng tại mức sản lượng tự nhiên. Do đại
dịch Covid-19 xuất hiện vào Việt Nam từ đầu năm 2020, các nhà đầu tư và hộ gia đình
trở nên bi quan hơn về triển vọng phát triển kinh tế trong tương lai nên đã cắt giảm
mức chi tiêu hiện tại. Lúc này tổng cầu giảm xuống. Nhìn vào mơ hình bên trên có thể
thấy đường tổng cầu dịch chuyển sang bên trái từ AD0 đến AD1. Quy mô của ảnh
hưởng từ Covid-19 đc coi là khoảng ngắn hạn nên nền kinh tế di chuyển dọc theo
đường tổng cung ngắn hạn AS0 từ A đến B. Khi nền kinh tế di chuyển đến B thì sản
lượng giảm xuống Y1 và mức giá giảm xuống P1. Sự cắt giảm sản lượng cho thấy nền
kinh tế chuẩn bị lâm vào suy thối. Do đó các doanh nghiệp phản ứng lại sự giảm sút
doanh số bán ra bằng cách cắt giảm một số việc làm và thất nghiệp có xu hướng tăng
lên. Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì vào nửa đầu năm 2020, tỉ lệ người thất

4


nghiệp tăng lên, cao hơn so với năm 2019. Trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên giảm sâu, đạt mức kỷ lục từ trước đến nay.
Thị trường lao động

Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I/2020 là 54,2 triệu người, giảm 682,4
nghìn người so với quý trước và giảm 154,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó giảm chủ yếu ở khu vực nơng thơn: số người có việc làm ở khu vực nơng thơn
giảm 604,7 nghìn người so với quý trước và giảm 269,1 nghìn người so với cùng kỳ
năm trước.
Trong q I/2020, có khoảng 47,3 nghìn người tạm nghỉ việc vì lý do giãn việc, tạm
ngừng sản xuất kinh doanh hoặc do lượng khách hàng giảm.
Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý I/2020 là gần 1,1 triệu người, tăng 26,1
nghìn người so với quý trước và tăng 26,8 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ
thất nghiệp của thanh niên quý I năm 2020 là 7,01%, tăng 0,51 điểm phần trăm so với
quý trước và tăng 0,57 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp
thanh niên cao gấp 5,4 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của dân số trưởng thành (những người
từ 25 tuổi trở lên).
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý II/2020 là 53,1 triệu người, giảm 2,2
triệu người so với quý trước và giảm 2,4 triệu người so với cùng kỳ năm trước. Đây là
năm ghi nhận mức giảm sâu kỷ lục của lực lượng lao động từ trước đến nay. Lực lượng
lao động trong độ tuổi lao động quý II/2020 là 46,8 triệu người, giảm 2,1 triệu người so
với quý trước và giảm 2,2 triệu người so với cùng kỳ năm trước.
Trong quý I/2020 thì tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 2%, tỷ lệ thất
nghiệp chung là 2,02%. Nhưng đến hết tháng 6 thì tỷ lệ thiếu việc làm của lao động
trong độ tuổi là 2,58%, tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,26%.
6 tháng đầu năm 2020, số người mất việc làm tại Việt Nam liên tục gia tăng do ảnh
hưởng dịch COVID-19. Lực lượng lao động thấp kỷ lục, lao động có việc làm có mức
giảm mạnh nhất trong vịng 10 năm qua; tỉ lệ thất nghiệp tăng cao, tỉ lệ thiếu việc làm
của lực lượng lao động trong độ tuổi tăng cao nhất trong 5 năm trở lại đây do nhu cầu
thị trường lao động sụt giảm.
Tính đến tháng 9 năm 2020, cả nước có 31,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng
tiêu cực bởi dịch Covid-19 bao gồm người bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ
luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập. Khu vực dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất
bởi dịch Covid-19 với 68,9% lao động bị ảnh hưởng, tiếp đến là khu vực công nghiệp

và xây dựng với 66,4% lao động bị ảnh hưởng; tỷ lệ lao động bị ảnh hưởng trong khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 27,0%. Số người thiếu việc làm trong độ tuổi quý
III/ 2020 là 1,3 triệu người, giảm 81,4 nghìn người so với quý trước, tuy nhiên vẫn cao
hơn 560,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động

5


trong độ tuổi quý III/2020 là 2,79%, giảm 0,29 điểm phần trăm so với quý trước và tăng
1,21 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Thị trường vốn
Từ 1/1 đến 24/4/2020, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện là 5,2 tỷ USD, giảm
9,6%. Tính trong 6 tháng đầu năm 2020, vốn đầu tư vào khu vực FDI là 200,9 nghìn tỷ
đồng, giảm 3,8%. Đến 20/8/2020, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với tổng vốn
đăng ký là 19.5 tỷ USD, giảm 13,7%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện là 11,4
tỷ USD, giảm 5,1%.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I/2020 tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2019, mức
tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi thực hiện 3
tháng ước tính đạt 3,9 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm 2020, đây là lần giảm
đầu tiên trong giai đoạn 2016-2020.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành
ước tính đạt 850,3 nghìn tỷ đồng, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước và bằng 33%
GDP (vốn khu vực Nhà nước đạt 273,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 32,2% tổng vốn và tăng
7,4% so với cùng kỳ năm 2019; khu vực ngoài Nhà nước đạt 375,9 nghìn tỷ đồng, bằng
44,2% và tăng 4,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi đạt 200,9 nghìn tỷ
đồng, bằng 23,6% và giảm 3,8%), mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020. Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngồi thực hiện 6 tháng ước tính đạt 8,65 tỷ USD, giảm 4,9% so
với cùng kỳ năm 2019.
Tổng vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam tính đến ngày 20/9/2020 bao gồm vốn đăng
ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước

ngoài đạt 21,2 tỷ USD, giảm 18,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 1.947 dự án
được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 10,4 tỷ USD, giảm 29,4% về số dự án và
giảm 5,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; có 798 lượt dự án đã cấp phép
từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt trên 5,1 tỷ
USD, tăng 6,8%; có 5.172 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngồi với
tổng giá trị góp vốn 5,7 tỷ USD, giảm 44,9%. Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần
của nhà đầu tư nước ngồi có 1.296 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của
doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 2,1 tỷ USD và 3.876 lượt nhà đầu tư nước ngồi
mua lại cổ phần trong nước mà khơng làm tăng vốn điều lệ với giá trị 3,6 tỷ USD. Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 9 tháng ước tính đạt gần 13,8 tỷ USD, giảm 3,2%
so với cùng kỳ năm trước.
2. Chính phủ Việt nam đã có những chính sách kinh tế vĩ mơ gì để đối phó với
những ảnh hưởng này. Tập trung đi sâu vào các chính sách tiền tề và tài khóa đã
học trên lớp, dùng mô đồ để đánh giá tác động của các chính sách này.
Đại dịch Covid-19 đã và đang để lại những hậu quả nặng nề đối với nền kinh tế của
Việt Nam. Sản xuất kinh doanh nhiều ngành, lĩnh vực đình trệ. Tăng trưởng GDP năm
2020 thấp do nền kinh tế bị tác động ở cả tổng cung (nhập khẩu, vận chuyển hàng hóa,
6


ngun vật liệu, nhân cơng khó khăn) và tổng cầu (tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu tăng
thấp hoặc giảm). Bão lũ tại các tỉnh miền Trung gây thêm khó khăn đến đời sống của
nhân dân và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, gây thiệt hại nặng nề cho kinh tế
nhiều địa phương, làm chậm lại tiến trình hồi phục kinh tế.
Để hỗ trợ cho nền kinh tế, Chính phủ, các bộ, ban, ngành và các tổ chức có liên quan đã
triển khai nhiều biện pháp tích cực với trọng tâm là phối hợp hai nhóm Chính sách tiền
tệ và Chính sách tài khóa để tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp về tiếp
cận vốn, tín dụng, tài chính, thuế, thương mại, thanh tốn điện tử. Chính phủ đã, đang
và sẽ tiếp tục có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân chịu ảnh hưởng của
đại dịch, như chỉ đạo xây dựng, triển khai các gói hỗ trợ về tiền tệ (khoảng 300.000 tỷ

đồng), gói hỗ trợ về tài khóa (khoảng 180.000 tỷ đồng), gói hỗ trợ an sinh xã hội (trên
62.000 tỷ đồng), gói hỗ trợ giá điện (khoảng 12.000 tỷ đồng), gói hỗ trợ giá viễn thông
(khoảng 15.000 tỷ đồng) và miễn giảm khoảng 20.000 tỷ đồng các loại thuế, phí, lệ phí
cho doanh nghiệp, người dân. Trọng tâm và lộ trình các gói hỗ trợ được thực hiện theo
thứ tự ưu tiên như hỗ trợ an sinh xã hội, hỗ trợ tài khóa và hỗ trợ tín dụng; tập trung thực
hiện các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp với những biện pháp cụ thể như sau:
Chính sách tài khóa
Về thu ngân sách nhà nước, thực hiện giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm
30% thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay; giảm tiền thuê đất; gia hạn nộp thuế
giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất; gia
hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô-tô sản xuất, lắp ráp trong nước, tiếp tục miễn
thuế sử dụng đất nơng nghiệp, thực hiện miễn, giảm hàng chục loại phí, lệ phí cho người
dân và doanh nghiệp. Như là miễn thuế cho thiết bị y tế; giảm phí đăng ký kinh doanh
có hiệu lực từ ngày 25/2 (miễn thuế một năm của các thuế đăng ký kinh doanh đối với
doanh nghiệp hộ gia đình mới thành lập; miễn thuế đăng ký kinh doanh 3 năm đầu tiên
cho các doanh nghiệp nhỏ); cho phép các công ty và người lao động chậm nộp bảo hiểm
xã hội (tối đa 12 tháng) mà khơng bị phạt lãi (tổng đóng góp chậm được ước tính là 9,5
nghìn tỷ đồng hoặc 0,1% GDP). Ước tính, riêng trong năm 2020 đã gia hạn cho khoảng
185 nghìn lượt người nộp thuế; thực hiện miễn, giảm thuế, phí, lệ phí cho khoảng trên
6 triệu người nộp thuế, với tổng kinh phí được miễn, giảm, gia hạn khoảng 130 nghìn tỷ
đồng.
Về chi ngân sách nhà nước, trong bối cảnh thu ngân sách giảm, cân đối ngân sách khó
khăn, nhưng vẫn bảo đảm bổ sung nguồn tăng chi cho công tác phòng, chống dịch bệnh,
hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, khắc phục hậu quả thiên tai hạn
hán, bão lũ. Cụ thể, ngân sách nhà nước đã chi trên 18 nghìn tỷ đồng cho cơng tác phòng,
chống dịch và hỗ trợ người dân chịu tác động của đại dịch Covid-19 theo các Nghị quyết
37 và 42 của Chính phủ. Ngân sách trung ương đã dành 12,4 nghìn tỷ đồng dự phịng
để hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả bão, mưa lũ; xuất cấp gần 37 nghìn tấn gạo
dự trữ quốc gia để cứu trợ, cứu đói cho nhân dân, khắc phục hậu quả thiên tai và giáp
hạt đầu năm. Các địa phương cũng chủ động sử dụng khoảng 8,2 nghìn tỷ đồng dự

7


phòng ngân sách địa phương và nguồn lực tại chỗ để chi cho cơng tác phịng chống dịch
bệnh, khắc phục hậu quả thiên tai.
Nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và người dân, các bộ, cơ quan Trung ương và
địa phương triệt để tiết kiệm chi ngân sách nhà nước, rà sốt cắt giảm tối thiểu 70% kinh
phí hội nghị, cơng tác phí trong và ngồi nước, tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên,
hủy dự toán một số nhiệm vụ chi sử dụng khơng triển khai thực hiện, …
Chính phủ mở rộng chính sách tài khóa:
Tăng chi tiêu G

r
Y
Khi chính phủ tăng chi tiêu từ G0 lên G1 (G1=G0+ G) thì tổng chi tiêu tăng từ E0 lên
E1, tăng thêm một lượng đúng bằng sự gia tăng của chi tiêu chính phủ (G).
Theo mơ hình giao điểm Keynes, thu nhập cân bằng được khuếch đại theo số nhân chi
1
tiêu Y=Y1-Y0=
G. Sự gia tăng chi tiêu chính phủ làm đường IS dịch chuyển
1−𝑀𝑃𝐶
sang phải từ IS0 tới IS1 phương ngang tại mọi mức lãi suất r0 cho trước, tương ứng thu
nhập quốc dân lúc này sẽ là Y1>Y0.
Giảm thuế T

r

Y
8



Khi Chính phủ đưa ra quyết định giảm thuế thì thu nhập khả dụng tăng lên là Y1, tiêu
dùng cũng tăng, tổng chi tiêu tăng từ E0 lên E1 và tăng sản lượng cân bằng. Với mức lãi
suất cho trước r0 thì sản lượng cân bằng sẽ được khuếch đại qua số nhân thuế
Y=

−𝑀𝑃𝐶
1−𝑀𝑃𝐶

T. Đường IS dịch chuyển sang phải từ IS0 sang IS1 theo phương ngang.

Chính phủ đưa ra gói hỗ trợ tài chính trị giá 279 nghìn tỷ đồng (3,7% GDP) để hỗ trợ
nền kinh tế. Các biện pháp bao gồm trả chậm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh
nghiệp và phí thuê đất trong 5 tháng, hoãn trả thuế thu nhập cá nhân đến cuối năm (số
tiền thanh tốn trả chậm là 180 nghìn tỷ đồng, tương đương 2,4% GDP). Các biện pháp
được phê duyệt bao gồm hoãn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất trong nước,
giảm tiền thuê đất, cắt giảm hoặc miễn các loại phí và lệ phí khác nhau, cắt giảm thuế
thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ và tăng khấu trừ thuế thu
nhập cá nhân. Kết quả đạt được là tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng năm 2020 đạt 5059,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% so với năm 2019. Tính đến hết
tháng 6/2020, số Doanh nghiệp đăng ký thành lập mới là 62.048 còn doanh nghiệp quay
trở lại hoạt động là 25.157 doanh nghiệp. Nhờ vào chính sách tài khóa tăng chi tiêu kết
hợp giảm thuế của chính phủ kịp thời, nhanh chóng mà số doanh nghiệp đăng ký thành
lập mới là 134.940 doanh nghiệp, doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 44.096 doanh
nghiệp (xét hết năm 2020). Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi đạt 2,51%
giảm 0,07% so với nửa đầu năm 2020.
Chính sách tiền tệ
Ngày 06/8/2020, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã giảm thêm một số lãi suất điều hành
với mức điều chỉnh 0,2 - 0,5% một năm. Đây là lần thứ ba trong năm 2020, NHNN giảm
các loại lãi suất điều hành. Theo đó, lãi suất áp dụng cho tiền gửi dự trữ bắt buộc và

vượt dự trữ bắt buộc tiền đồng giảm 0,5 điểm phần trăm xuống cịn 0,5% một năm. Bên
cạnh đó, NHNN cũng quy định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam
(VND) của các tổ chức, cá nhân tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngồi, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi khơng kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng
giảm từ 0,8%/năm xuống 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn
từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 5,0%/năm xuống 4,75%/năm.
Bên cạnh việc cắt giảm các mức lãi suất điều hành, NHNN cũng hướng dẫn các ngân
hàng thương mại cơ cấu lại các khoản cho vay, giảm lãi, và hoãn nợ đối với khách hàng
gặp khó khăn do dịch bệnh. Trên cơ sở đó, hệ thống ngân hàng thương mại đã dành
khoản tiền 300 nghìn tỷ đồng để cho vay với lãi suất thấp và hỗ trợ 920.000 khách hàng
dưới hình thức cơ cấu lại nợ, hoãn, miễn, và giảm lãi suất. Các tổ chức tài chính cũng
giảm và miễn các khoản phí.
Các công ty bị ảnh hưởng bởi Covid-19 đủ điều kiện được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng
Chính sách xã hội Việt Nam (VBSP) để trả lương cho công nhân của họ, những người
tạm thời nghỉ việc mà không phải trả lãi. Tổng giá trị khoản vay ước tính là 16,2 nghìn
tỷ đồng (khoảng 0,2% GDP).
9


Ngồi ra, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tích cực giảm tiền thưởng và tiền lương, cắt
giảm chi phí hoạt động khác, điều chỉnh kế hoạch kinh doanh kịp thời (bao gồm không
trả cổ tức bằng tiền mặt) và sử dụng các nguồn lực tiết kiệm để giảm lãi. NHNN đã ban
hành thông tư tái cấp vốn cho VBSP lên tới 16 nghìn tỷ đồng với lãi suất 0%.
Chính sách tiền tệ: Tăng cung tiền MS

Y1
Khi NHTW tăng MS => Lãi suất r giảm từ r0 xuống r1 khi thu nhập quốc dẫn vẫn là Y0
cho trước. Với mức thu nhập cố định, để tăng lượng cầu tiền cho phù hợp với mức cung
tiền cao hơn, lãi suất cần phải thấp hơn. Do đó đường LM dịch chuyển xuống dưới và
sang phải tới LM1. Nói cách khác, nếu lượng cung tiền là MS1, lãi suất vẫn giữ nguyên

là r0 thì thu nhập cần phải tăng lên Y1 để cân băng thị trường tiền tệ.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, đến ngày 18-12-2020, tổng
phương tiện thanh toán (M2) tăng 12,83% so cuối năm 2019 và tăng 14,62% so cùng kỳ
năm 2019. Hết năm 2020, tổng số vốn đầu tư tồn xã hội đạt 2164,5 nghìn tỷ đồng
(=34,4% GDP), tăng 5,7% so với năm 2019. Kết quả đạt được là nhờ những chính sách
tiền tệ hợp lý của Chính phủ ban hành kịp thời trong giai đoạn khó khăn này.
3. (Bonus) Trình bày cơ chế ảnh hưởng của những chính sách cân thiệp của chính
phủ, đánh giá tác dụng phụ có thể có trong ngắn hạn và dài hạn.
Những kết quả tích cực về ổn định vĩ mơ, thị trường tài chính tiền tệ, tạo lập mơi
trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế cho thấy là các
giải pháp ngành Ngân hàng thực thi thời gian qua là đúng hướng, có tác dụng thiết thực
đối với các doanh nghiệp và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép” và
đóng góp lớn vào thành tựu chung về các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội của cả nước
mà Đảng và Quốc hội đã đề ra, tạo nền tảng vững chắc tiếp tục thực hiện các mục tiêu
trong giai đoạn tới.
Giải pháp kết hợp điều hành CSTT- chính sách tài khóa (CSTK) trong q trình điều
chỉnh giá các mặt hàng nhà nước quản lý, góp phần kiểm soát lạm phát dưới mục tiêu
4%, đảm bảo tốt cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Lạm phát cơ bản ổn định ở mức thấp,
thể hiện hiệu lực, hiệu quả công tác điều hành CSTT, tạo dư địa để Chính phủ điều chỉnh
giá các mặt hàng và dịch vụ Nhà nước quản lý.
10


GDP năm 2020 tăng 2,91% (Quý I tăng 3,68%; quý II tăng 0,39%; quý III tăng 2,69%;
quý IV tăng 4,48%) trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu
cực tới mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội là thành công lớn của Việt Nam. Trong mức tăng
chung của tồn nền kinh tế, khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,68%, đóng
góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53%; khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp
33,5%.

Cuối năm 2020, tỷ giá trung tâm ở mức 23.131 VND/USD, giảm -0,1% cuối năm 2019;
tỷ giá bình quân liên ngân hàng khoảng 23.090 VND/USD, giảm -0,35% so với cuối
năm 2019. Thanh khoản thị trường tốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy
đủ, kịp thời. Dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng cao giúp gia tăng tiềm lực tài chính và
củng cố uy tín quốc gia. Thị trường ngoại tệ duy trì ổn định trong những tháng đầu năm
2021, theo đó ngày 11/3/2021, tỷ giá trung tâm ở mức 23.204 VND/USD, tăng 0,32%
so với mức cuối năm 2020; tỷ giá bình quân liên ngân hàng ở mức 23.051 VND/USD,
giảm -0,17% so với cuối năm 2020.
Mặc dù vậy, thị trường thế giới còn diễn biến bất thường, đặc biệt đại dịch Covid-19,
thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường cịn tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế
và hệ thống ngân hàng trong nước, tăng trưởng kinh tế ở mức thấp (mặc dù là số ít trong
các quốc gia có tăng trưởng dương), lạm phát vẫn chịu áp lực khó lường từ giá cả thế
giới, áp lực nợ xấu hệ thống ngân hàng gia tăng từ tác động của đại dịch... là những
thách thức to lớn đối với ngành Ngân hàng trong thời gian tới.
Một sai lầm thường mắc phải khi vận dụng chính sách tiền tệ để ứng phó với dịch bệnh
là nới lỏng các quy định an tồn của hệ thống tài chính để tăng khả năng cung ứng vốn
cho nền kinh tế (điều chỉnh về phân loại nợ, tỷ lệ an toàn vốn, các điều kiện cho vay…).
Điều này trên thực tế sẽ làm suy yếu hệ thống ngân hàng, rủi ro hệ thống gia tăng, nợ
xấu tăng và một vài ngân hàng yếu kém dễ dàng rơi vào tình trạng phá sản khi các doanh
nghiệp vay nợ mất khả năng trả nợ, từ đó đẩy tồn bộ hệ thống vào nguy hiểm. Thêm
vào đó, những diễn biến xấu của dịch bệnh có thể làm cho hàng loạt doanh nghiệp lâm
vào khó khăn và nợ xấu trên bảng cân đối của các tổ chức tín dụng tăng nhanh. Điều
này làm cho các ngân hàng mất khả năng thanh khoản và gây khủng hoảng hệ thống
trong khi các DN cần các tổ chức tín dụng tiếp sức để phục hồi sau dịch. Do đó, để đảm
bảo khả năng phục hồi của nền kinh tế, việc duy trì một hệ thống các tổ chức tín dụng
lành mạnh là u cầu tiên quyết. Nói cách khác, trong thời kỳ dịch bệnh, các tổ chức tín
dụng là những DN cần được đặc biệt bảo vệ.
Thực tế cho thấy kể từ khi triển khai Thông tư 01/2020/TT-NHNN, các doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn khó tiếp cận gói tín dụng Covid-19. Trong bối
cảnh nền kinh tế đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19, việc chỉ cung cấp thanh

khoản đơn thuần và cắt giảm lãi suất như hiện nay có thể khơng đem lại nhiều tác động
như mong muốn.

11


Việc tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách gián tiếp sẽ phù hợp với Luật Ngân sách Nhà nước
cũng như Luật Ngân hàng Nhà nước và có thể là lựa chọn ưu tiên, với điều kiện lãi suất
không quá cao trên thị trường thứ cấp. Tuy nhiên, nếu nhu cầu ngân sách lớn thì lãi suất
có thể tăng lên và trong tình huống này, tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách trực tiếp có thể
là một lựa chọn ưu tiên vì đây là phát hành riêng lẻ giữa NHNN với Bộ Tài chính.
Như vậy, có thể thấy việc tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách chỉ mang tính tạm thời và
NHNN có thể bán hết trái phiếu chính phủ khi cuộc khủng hoảng này kết thúc. Tuy
nhiên, khi thực hiện chính sách này về lâu dài sẽ có những rủi ro đi kèm.
Trước tiên là áp lực gia tăng lạm phát khi thực hiện chính sách này. Việc NHNN mua
trái phiếu chính phủ sẽ làm cung tiền tăng vọt và điều này có thể gây ra lạm phát. Ngồi
ra, hiện tại nhu cầu tín dụng của nền kinh tế đang suy giảm đáng kể so với các năm trước
do suy giảm các hoạt động kinh tế trong nước. Tính đến giữa tháng 4/2020, tăng trưởng
tín dụng của hệ thống là 0,8%, nhiều ngân hàng thậm chí cịn tăng trưởng tín dụng âm.
Như vậy, với số nhân tiền ổn định và vòng quay tiền giảm, nghĩa là, việc tạo cung tiền
và tăng trưởng cung tiền chuyển thành lạm phát sẽ giảm. Do đó, kết hợp các yếu tố số
nhân tiền ổn định và vịng quay tiền giảm và nhu cầu tín dụng thấp có thể thấy rủi ro
lạm phát tăng cao là thấp. Ngồi ra, nếu Chính phủ giải quyết được các vấn đề cung và
cầu cơ bản của hàng hóa và dịch vụ thiết yếu để ngăn chặn tình hình thiếu hụt và tăng
giá thì rủi ro lạm phát cao sẽ cịn thấp hơn nữa.
Và tiền tệ hóa thâm hụt làm suy giảm giá trị của đồng nội tệ và điều này có thể khiến
cho các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn và làm cho kế hoạch tài trợ này trở nên rủi ro.
Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề mang tính cấu trúc đối với Việt Nam vì Việt Nam
quản lý rất chặt các giao dịch bằng ngoại tệ, cùng với đó là dự trữ ngoại hối đang dồi
dào sẽ giúp NHNN có thể can thiệp vào thị trường ngoại tệ khi cần thiết. Hơn nữa, nhà

đầu tư nước ngoài hiện mới chỉ nắm giữ khoảng 1% quy mô thị trường trái phiếu Việt
Nam. Như vậy, với tỷ lệ tài trợ đối với trái phiếu chính phủ gần 100% vốn trong nước,
do đó, rủi ro liên quan đến vốn ngoại là khá thấp.
Do đó “Tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách là một công cụ mạnh và các nhà hoạch định
chính sách chỉ nên sử dụng chúng trong các tình huống khẩn cấp”. Nói cách khác, trong
những thời điểm đặc biệt như hiện nay, đòi hỏi phải có các chính sách đặc biệt và tiền
tệ hóa thâm hụt ngân sách là một trong số đó.

12


Tài liệu tham khảo
/> /> /> /> liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam

13



×