Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ TIẾP CẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.9 KB, 5 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ TIẾP CẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nguồn: fpe.hnue.edu.vn
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra năm tiêu chí để xác định bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Đó là: giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng
sản xuất, thủ tiêu chế độ bóc lột, xoá bỏ sự phân hoá giàu – nghèo để cuối
cùng, đạt đến đích cùng nhau giàu có. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta
không thể không thực hiện năm tiêu chí này trong mối quan hệ hữu cơ của
chúng. Đó là kết luận mà tác giả rút ra khi luận giải mối quan hệ này trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.


LÊ THANH SINH(*)
Nhân loại đã bước vào những năm cuối của thập kỷ đầu thế kỷ XXI
với những thuận lợi và triển vọng tốt đẹp, nhưng cũng có không ít thách
thức và trở ngại cần phải vượt qua.
Thế giới mà chúng ta đang sống đã có những đổi thay nhanh chóng
và đứng trước hàng loạt vấn đề nan giải mang tính toàn cầu phải giải
quyết, như tình trạng đói nghèo, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên, các cuộc xung đột khu vực,…
Những diễn biến và thay đổi mau lẹ của thế giới đang đòi hỏi các
nhà nuớc phải có cách nhìn nhận mới về vai trò của mình, đưa ra được
các chủ trương và giải pháp đúng, hoạt động có hiệu quả, bảo đảm ổn
định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đảng ta hết sức chú trọng nhiệm vụ xây dựng, tăng cường và kiện toàn
Nhà nuớc, đồng thời khẳng định rõ chủ trương tiếp tục cải cách bộ máy
nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nhằm xây dựng Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu quả, xứng đáng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.


Để thực hiện tốt vai trò của nhà nước ở Việt Nam hiện nay, theo
chúng tôi, vẫn cần phải tiếp tục làm rõ chủ nghĩa xã hội là gì? xây dựng
chủ nghĩa xã hội như thế nào? Trong chúng ta, rất nhiều nhà khoa học
vẫn còn đặt ra vấn đề này và đó không phải là vô cớ. Vì vậy, làm rõ vấn
đề chủ nghĩa xã hội là gì, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào trong
giai đoạn hiện nay vẫn luôn là vấn đề trọng đại về mặt lý luận, có quan hệ
đến cách hiểu, phương thức nắm bắt bản chất của chủ nghĩa xã hội và
con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, đến tiền đồ và vận mệnh của chủ
nghĩa xã hội.
Chúng ta có thể định nghĩa bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải
phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, thủ tiêu chế độ
bóc lột; xóa bỏ sự phân hóa giàu nghèo để cuối cùng, đạt đến đích cùng
nhau giàu có.
Quan điểm này không phải mới, nhưng nó là sự khái quát khoa học
tiến trình phát triển thực tiễn và nhận thức trong hơn hai mươi năm đổi
mới ở Việt Nam. Ý nghĩa của sự khái quát đó chính là câu trả lời cho vấn
đề lý luận cơ bản hàng đầu: chủ nghĩa xã hội là gì, xây dựng chủ nghĩa
xã hội như thế nào trong giai đoạn hiện nay, đồng thời mang lại cho
chúng ta một vũ khí tư tưởng có hiệu lực để tiếp tục giữ vững và “kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(1).
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, khái quát lại có năm tiêu
chí ngắn gọn mà sâu sắc, có lôgíc chặt chẽ, gắn liền với nhau thành một
chỉnh thể hữu cơ để vạch rõ bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Thực vậy, nếu chúng ta nói giải phóng lực lượng sản xuất mà lại chỉ
đơn thuần coi giải phóng lực lượng sản xuất và phát triển lực lượng sản
xuất là bản chất của chủ nghĩa xã hội, không nói gì đến ba nội dung sau
thì như vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ không khác gì so với xã hội tư
bản chủ nghĩa, sẽ không có một ranh giới rõ ràng so với quan điểm “hữu
khuynh”. Trong định nghĩa bản chất chủ nghĩa xã hội, cần phải nói đến

tiêu chuẩn về lực lượng sản xuất, nhưng cũng cần phải thấy rằng, tiêu
chuẩn về lực lượng sản xuất không phải là tiêu chí căn bản để phân biệt
sự khác nhau giữa chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hơn nữa, do nhiều nguyên nhân lịch sử và hiện thực, một số nước tư
bản chủ nghĩa trên thế giới đã đạt tới trình độ phát triển cao về lực lượng
sản xuất. Vì vậy, phải gắn liền việc giải phóng lực lượng sản xuất, phát
triển lực lượng sản xuất với việc xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu -
nghèo để cuối cùng, tiến tới tất cả cùng giàu có. Chỉ có như vậy, mới thể
hiện được bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta chỉ nói tới ba nội dung sau mà không
nói giải phóng lực lượng sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất thì về
hình thức, dẫu đã có sự phân biệt về ranh giới giữa chế độ xã hội chủ
nghĩa với mọi chế độ bóc lột, trong đó có cả chủ nghĩa tư bản, nhưng lại
không thể phân biệt được với quan điểm sai lầm “tả khuynh” trước đây
chỉ đơn thuần xuất phát từ quan hệ sản xuất để xác định tính chất của chủ
nghĩa xã hội, tách rời với thực trạng của lực lượng sản xuất, vượt qua các
giai đoạn phát triển tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Kết quả cuối cùng vẫn
không đạt tới mục tiêu tất cả cùng giàu có, mà chỉ có thể tạo ra một cuộc
sống theo chủ nghĩa bình quân và tất cả cùng nghèo. Rõ ràng, điều đó là
trái với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Năm nội dung cấu thành bản chất chủ nghĩa xã hội, nếu đi sâu phân
tích, có thể thấy, giải phóng lực lượng sản xuất là cốt để phát triển sản
xuất, phát triển sản xuất là cốt để xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu -
nghèo, cũng có nghĩa là muốn xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu -
nghèo phải có điều kiện căn bản là sự phát triển cao của lực lượng sản
xuất. Như vậy, chủ nghĩa xã hội muốn đạt được mục tiêu cuối cùng là tất
cả mọi người dân đều giàu có thì xét đến cùng, phải phát triển lực lượng
sản xuất, không thể đơn thuần dựa vào việc thay đổi quan hệ sản xuất.
Hai nội dung này không thể tách rời nhau, bởi đó là nguyên tắc thể hiện
bản chất chủ nghĩa xã hội.

Theo chúng tôi, luận điểm về bản chất chủ nghĩa xã hội là vấn đề
căn bản, là hạt nhân trong toàn bộ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa
xã hội. Để hiểu rõ quá trình hình thành luận điểm của Đảng ta về bản
chất chủ nghĩa xã hội, cần phải nghiên cứu và nắm vững quá trình hình
thành và phát triển trong thực tiễn lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Cho đến nay, những suy nghĩ cơ bản góp phần hình thành
luận điểm của Đảng ta về bản chất chủ nghĩa xã hội, đại thể có thể chia
ra làm ba giai đoạn: suy nghĩ về bản chất chủ nghĩa xã hội trong quá
trình sửa sai, xóa bỏ chế độ quan liêu bao cấp; suy nghĩ về bản chất chủ
nghĩa xã hội trong quá trình tiến hành đổi mới; kết hợp lý luận với thực
tiễn để đưa ra khái quát khoa học về bản chất chủ nghĩa xã hội.
Việc thực hiện bản chất chủ nghĩa xã hội là một quá trình tiến triển
tuần tự. Bởi lẽ, bản chất của chủ nghĩa xã hội không đứng im một chỗ,
nó không thể vạch ra một ranh giới rõ ràng ngăn cách giữa những gì đã
được thực hiện với những gì sắp thực hiện, mà được thực hiện từng
bước theo một tiến trình tuần tự, luôn vận động. Điều này đòi hỏi chúng
ta cần phải hiểu và nắm bắt bản chất đó một cách biện chứng.
Xuất phát từ hiện thực, trước hết phải xác định được các giai đoạn
phát triển của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng ta
đã khẳng định Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển thấp của chủ nghĩa
xã hội - giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự cống hiến của lý luận
về giai đoạn này của chủ nghĩa xã hội là ở chỗ coi chủ nghĩa xã hội là
một quá trình phát triển lâu dài; giai đoạn hiện nay ở Việt Nam chỉ là giai
đoạn đầu trong quá trình phát triển lâu dài đó. Vì vậy, khi tìm hiểu và nắm
bắt bản chất của chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xuất phát từ hiện thực
của giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, vừa phải thấy rằng nước ta đã
tiến vào xã hội xã hội chủ nghĩa, vừa phải thừa nhận còn rất nhiều
khoảng cách và chủ nghĩa xã hội ấy chưa đủ tiêu chuẩn. Từ chỗ chưa đủ
tiêu chuẩn đến chỗ đủ tiêu chuẩn, tức là đến khi có chủ nghĩa xã hội
hoàn thiện, đó cũng là quá trình phát triển tự thân của chủ nghĩa xã hội.

Đồng thời, đây cũng là quá trình mà bản chất chủ nghĩa xã hội không
ngừng được thể hiện.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải làm cho lực lượng sản
xuất phát triển. Khoảng cách lớn nhất trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa
xã hội hay cái gọi là “không đủ tiêu chuẩn” chủ yếu nhất lúc này là ở chỗ
lực lượng sản xuất chưa phát triển. Vì vậy, giải phóng lực lượng sản
xuất, phát triển lực lượng sản xuất tuy là nhiệm vụ căn bản, xuyên suốt
toàn bộ quá trình phát triển của chủ nghĩa xã hội, nhưng đối với nước ta
hiện nay, nhiệm vụ căn bản đó lại càng quan trọng, càng bức xúc. Không
chỉ thế, chúng ta còn phải xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân hóa giàu - nghèo
để cuối cùng, đạt tới tất cả giàu có. Việc thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã
hội này cũng đòi hỏi chúng ta phải phát triển lực lương sản xuất. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất, đến lượt nó, lại có quy luật riêng và cũng
tiến triển một cách tuần tự, đòi hỏi phải có đường lối và chính sách đúng
đắn, có chiến lược phát triển hợp lý và sự phấn đấu gian khổ, không mệt
mỏi của nhân dân cả nước; tóm lại, phải trải qua một quá trình lâu dài.
Có thể nói, đặt vấn đề giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực
lượng sản xuất ở vị trí hàng đầu, vị trí cơ sở, nổi bật trong định nghĩa bản
chất chủ nghĩa xã hội là chính xác và sâu sắc.
Trong quá trình phát triển chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải xóa
bỏ bóc lột, xóa bỏ sự phân hóa giàu - nghèo. Đó cũng là một trong những
mục tiêu của việc phát triển lực lượng sản xuất và là sự thể hiện quan
trọng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nước ta đang ở giai
đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, chế độ bóc lột và giai cấp bóc lột đã bị
xóa bỏ một cách căn bản, và trên tổng thể, trong xã hội ta không còn sự
phân hóa giàu - nghèo thành hai cực đối lập nhau, nhưng không thể phủ
nhận hiện tượng bóc lột vẫn còn tồn tại trong một số lĩnh vực, sự chênh
lệch giàu - nghèo bất hợp lý cũng vẫn còn tồn tại trong xã hội. Ở giai
đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện lực lượng sản xuất hiện
nay, Đảng ta chủ trương xây dựng một chế độ sở hữu mà trong đó, công

hữu là chủ đạo; đồng thời thực hiện chế độ phân phối mà trong đó, phân
phối theo lao động là chủ đạo, cho phép các thành phần kinh tế khác
nhau cùng tồn tại, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lực
lượng sản xuất, coi đó là sự bổ sung cần thiết cho kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Chỉ đến khi nào các thành phần kinh tế khác gây tác động hạn chế
sự phát triển lực lượng sản xuất thì khi đó, chúng mới mất đi lý do và giá
trị tồn tại. Vì vậy, chỉ có không ngừng phát triển lực lượng sản xuất mới
có thể từng bước xóa bỏ hiện tượng bóc lột và sự phân hóa giàu - nghèo
bất hợp lý. Nói cách khác, việc hoàn toàn xóa bỏ bóc lột và xóa bỏ phân
hóa giàu - nghèo cũng là một quá trình không thể thực hiện được ngay
khi mới bước vào chủ nghĩa xã hội.
Tất cả cùng giàu là mục tiêu cuối cùng mà chủ nghĩa xã hội phải đạt
tới, không thể thực hiện được ngay khi mới bước vào chủ nghĩa xã hội.
Cái gọi là tất cả cùng giàu mà chủ nghĩa xã hội theo đuổi là toàn dân
cùng giàu trên cở sở lực lượng sản xuất phát triển cao, của cải xã hội
tuôn ra dồi dào. Tất cả cùng giàu không có nghĩa là thực hiện chủ nghĩa
bình quân trong điều kiện lực lượng sản xuất thấp kém, đời sống vật chất
thiếu thốn, cái gì cũng chia đều, cùng nhau đi đều bước để tiến tới tất cả
cùng giàu. Cách làm như vậy thường chỉ có thể dẫn tới tất cả cùng
nghèo.
Để thực hiện mục tiêu cuối cùng, mục tiêu căn bản là tất cả cùng
giàu, một yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển lâu dài của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội là cho phép một số người, một số địa phương
giàu trước, người giàu trước lôi cuốn người giàu sau để cuối cùng, tất cả
cùng giàu. Làm như vậy đương nhiên phải trải qua quá trình lâu dài, phải
cố gắng nâng cao năng suất lao động và giác ngộ tư tưởng cho mọi
người; đồng thời phải có chính sách đúng đắn mới có thể đạt tới mục
đích tất cả cùng giàu.
Sự khái quát khoa học về những cơ sở lý luận để tiếp cận chủ nghĩa
xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

đã cho chúng ta thấy rằng, trên tổng thể, trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, những việc mang tính chất căn bản là nên làm thì phải làm,
có thể làm trước, nhưng vẫn phải tuân theo quy luật khách quan và tình
hình cụ thể của đất nước, phải phân chia giai đoạn để từng bước thực
hiện mục tiêu đã định của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, vừa có thể phân
biệt ranh giới với tất cả những tư tưởng từng vin vào những thất bại của
chủ nghĩa xã hội để phủ nhận nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội
khoa học, phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa, lại vừa phân biệt ranh giới
với tất cả những tư tưởng chỉ khư khư giữ lấy những mô hình cụ thể
không còn phù hợp với tình hình thực tế trong nước, với đặc điểm thời
đại, coi thường những yêu cầu của bản thân chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, những cơ sở lý luận nêu trên không chỉ đúng với Việt
Nam, với giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, mà còn đúng với tất cả các
nước đang trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là với những
nước lạc hậu khi bước vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.


×