Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may Việt Nam sau hội nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.17 KB, 31 trang )

ĐỀ CƯƠNG
A. MỞ ĐẦU ( Hằng)
B.NỘI DUNG
1. Khái quát về WTO, các cam kết của Việt Nam vs WTO về ngành dệt
may và tình hình phát triển ngành dệt may VN sau hội nhập WTO
1.1 Khái quát về WTO và các cam kết của VN với WTO về ngành dệt may.
( Nhung tẹc)
1.1.1. Khái quát về tổ chức thương mại thế giới WTO
1 Khái niệm
2 Nguồn gốc ra đời
3 Mục tiêu và chức năng hoạt động của WTO
4 Cơ cấu tổ chức của WTO
5 Các nguyên tắc hoạt động của WTO
2 Các cam kết của Việt Nam với WTO về ngành dệt may
1.2. Tình hình phát triển ngành dệt may VN sau hội nhập WTO (Trâm)
1.2.1 Thị trường xuất khẩu dệt may của Việt Nam ngày càng phát triển và
mở rộng
1.2.2 Kim ngạch xuất khẩu
1.2.3 Cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất khẩu
1.2.4 Về năng lực cạnh tranh
2. Những thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may VN sau hội nhập
WTO
2.1. Những thuận lợi của ngành dệt sau hội nhập (Vân)
2.1.1. Đối với xuất khẩu
1
2.1.2. Đối với sản xuất trong nước
2.2 Những khó khăn của ngành dệt sau hội nhập ( Dương)
3. Giải pháp phát triển ngành dệt (Hoài)
3.1 Đối với doanh nghiệp
3.2 Nhóm giải pháp từ phía Chính Phủ
3.2.1.Các chính sách về vốn đầu tư phát triển


3.2.1.1. Tạo nguồn vốn
3.2.1.2. Quy mô đầu tư
3.2.2. Chính sách về thuế
3.2.3. Tín dụng và trợ cấp xuất khẩu
3.2.4. Chính sách tổ chức quản lý
3.2.5. Chính sách về lao động, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
3.2.6. Hoàn thiện cơ cấu xuất nhập khẩu
C. KẾT LUẬN ( Ngọc Tuấn)
2
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường chính năm 2011
và năm 2012
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may theo tháng giai đoạn
2008 – 2012
Biểu đồ 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may bình quân tháng
(năm 2005 - 2012)
Biểu đồ 4: Tỷ trọng xuất khâu theo các loại hình của hàng dệt may năm 2012
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành dệt may (%)
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC TỪ LIÊN QUAN
DN Doanh nghiệp
XK Xuất khẩu
FOB Miễn trách nhiệm
FTA Hiệp định thương mại tự do
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ODM Nhà sản xuất thiết kế gốc
OEM Nhà sản xuất thiết bị nguyên thủy
MNF Tối huệ quốc
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
3

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dệt may là một trong những ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Với
những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh,
thu hút nhiều lao động và có điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước,
với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, ngành dệt may Việt
Nam có một vị trí rất quan trọng đối với nền kinh tế. Đây là ngành tạo công ăn
việc làm và là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta.
Đặc biệt, dệt may Việt Nam có bước tiến triển mới trong quá trình hội
nhập quốc tế khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương
Mại Thế Giới WTO. Đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước tiến mới trên con
đường chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, theo đó có những thuận lợi
mới xen lẫn những thách thức mới. Nó đã đem lại cho ngành Dệt May Việt Nam
những cơ hội rất lớn về thị trường, về đầu tư, và trên khía cạnh hội nhập quốc tế
về chính sách, pháp luật và đàm phán… Tuy nhiên, cùng với quá trình gia nhập
WTO ngành dệt may phải đối mặt với nhiều khó khăn như nguy cơ cạnh tranh
gay gắt hơn ở cả thị trường trong và ngoài nước, phải tuân thủ nhiều yêu cầu
hơn…Thực tế sau 5 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bất chấp
tác động xấu do 2 cuộc đại suy thoái kinh tế toàn cầu (2008 và 2011), dệt may
Việt Nam vẫn là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định,
đóng vai trò quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vậy Việt Nam sau khi gia nhập WTO Việt Nam đã tận dụng những thuận lợi nào
và đối phó với những khó khăn nào? Giải pháp nào để đối phó với những thách
thức, khắc phục những khó khăn và tận dụng những cơ hội giúp khẳng định tên
tuổi hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đó là vấn đề cấp thiết trong
4
giai đoạn hiện nay cần được nghiên cứu và tìm hiểu. Vì vậy, nhóm chúng tôi
chọn đề tài “Thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may Việt Nam sau hội nhập
WTO”
2. Mục đích nghiên cứu

2.1. Mục đích chung
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng ngành dệt may Việt Nam, đi sâu đánh
giá thuận lợi, khó khăn của ngành dệt may Việt Nam sau khi Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của WTO, để từ đó tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự
phát triển của ngành dệt may.
2.2. Mục đích cụ thể
- Khái quát được các cam kết của Việt Nam với WTO về ngành dệt may Việt Nam.
- Đánh giá được những thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may Việt Nam sau khi
hội nhập WTO (2007 - 2012)
- Đưa ra phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển ngành dệt
may Việt Nam trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Ngành dệt may Việt Nam
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1.Về không gian: Việt Nam
3.2.2. Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2007-2012
Đề ra giải pháp từ năm 2013 – 2020
3.2.3. Về nội dung: chủ yếu nghiên cứu thuận lợi và khó khăn mà ngành
dệt may gặp phải. Từ đó đề ra giải pháp khắc phục khó khăn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp chung là biện chứng và lịch sử, đề tài sử dụng các
phương pháp chuyên khảo, phân tích, tổng hợp.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có 3 chương:
5
Chương 1: Khái quát về WTO, các cam kết của Việt Nam với WTO về
ngành dệt may và tình hình phát triển ngành dệt may Việt Nam sau hội nhập
WTO
Chương 2: Những thuận lợi và khó khăn của ngành dệt may Việt Nam sau

hội nhập WTO
Chương 3: Giải pháp phát triển ngành dệt may Việt Nam sau hội nhập
WTO
6
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA GIA
NHẬP WTO ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAU VIỆT NAM
1. Khái quát về WTO và các cam kết của VN với WTO về ngành dệt may
1.1. Khái quát về tổ chức thương mại thế giới (WTO)
1.1.1. Khái niệm
Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization – WTO) là tổ
chức quốc tế có trụ sở ở Geneva, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định
thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy ước thương mại.
Hoạt động của WTO nhằm mục đích lại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương
mại để tiến tới tự do thương mại. Ngày 13 tháng 5 năm 2005, ông Pascal Lamy
được bầu làm tổng giám đốc thay cho ông Supachai Panitchpakdi, người Thái
Lan, kể từ ngày 1 tháng 9 năm 2005. Tính đến ngày 7 tháng 11 năm 2006, WTO
có 150 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những
thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương mại, ví dụ (với một số
ngoại lệ) những sự nhượng bộ về thương mại được cấp bởi một thành viên của
WTO cho một quốc gia khác thì phải cấp cho mọi thành viên WTO. Trong thập
niên 1990, WTO là mục tiêu chính của phong trào chống toàn cầu hóa.
1.1.2. Nguồn gốc ra đời
Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức
Thương mại quốc tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại
giữa các nước. Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên hợp quốc về
thương mại và việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị
viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng
sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ chức
Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm soát chứ không phải đem lại tự

do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ (Lisa Wilkins, 1997). Đó là
7
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). GATT đóng vai trò là
khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50
năm sau đó. Các nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết
thêm nhiều thỏa ước thương mại mới. Vòng đàm phán thứ tám - vòng đàm phán
Uruguay kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của GATT được
WTO kế thừa, quản lý và mở rộng. Không giống như GATT chỉ có tính chất của
một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấy tổ chức hoạt động cụ thể. WTO
chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995.
1.1.3. Mục tiêu và chức năng hoạt động của WTO
Với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới,
WTO thừa nhận các mục tiêu của GATT trong đó có 3 mục tiêu chính như
sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới phục
vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và
tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương
mại đa phương, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm
cho các nước đang phát triển đặc biệt là các nước kém phát triển được hưởng
những lợi ích thực chất từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế.
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành
viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động đối thiểu.
Theo như Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO, tổ chức này có năm
chức năng cơ bản như sau:
8
- Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận thương
mại đa phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho
các nước thành viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.

- Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa
phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
- Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến
việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa
phương.
- Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên,
bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các quy
định của WTO.
- Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) trong việc hoạch định
những chính sách và dụ báo về xu hướng phát triển tương lai của nèn kinh tế
toàn cầu.
1.1.4. Cơ cấu tổ chức của WTO
Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban
của WTO, ngoại trừ cơ quan Phúc thẩm, các Ban hội thẩm giải quyết tranh chấp
và các ủy ban đặc thù.
+ Cấp cao nhất: Hội nghị bộ trưởng
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất
hai năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các
thành viên này có thể là một nước hay một liên minh thuế quan.
+ Cấp thứ hai: Đại hội đồng
9
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội
đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương
mại. Ba cơ quan này được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của
WTO.
+ Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại hội đồng. Có ba
Hội đồng thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại
Dịch vụ và Hội đồng Các khía cạnh của Sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại.

Mỗi hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng.
1.1.5. Các nguyên tắc hoạt động của WTO
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử
- Nguyên tắc tiếp cận thị trường
+ Thứ nhất, các nước thành viên mở cửa thị trường cho nhau thông qua
việc cắt giảm từng bước, đi tới xóa bỏ hàng rào thuế quan
+ Thứ hai, các chính sách và luật lệ thương mại phải được công bố công
khai, kịp thời, minh bạch.
Cả hai khía cạnh này đều nhằm tạo ra một môi trường thương mại bình
đẳng cho tất cả các nước thành viên.
- Nguyên tắc cạnh tranh công bằng: yêu cầu các nước chỉ được sử dụng
thuế là công cụ duy nhất để bảo hộ. Các biện pháp phi thuế quan (giấy phép, hạn
ngạch,…) đều không được sử dụng. Các biểu thuế phải được giảm dần trong quá
trình hội nhập theo thời gian thỏa thuận.
- Nguyên tắc áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết:
Khi thị trường và nền kinh tế của một nước thành viên bị hàng nhập khẩu đe dọa,
thì nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có hành động khẩn cấp,
cần thiết để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước
- Nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát
triển: Các nước đang phát triển được kéo dài thời gian thực hiện cam kết và mức
độ cam kết thấp hơn, phạm vi nhỏ hơn so với các nước phát triển.
1.2. Các cam kết của Việt Nam với WTO về ngành dệt may
10
Dệt may là một trong những ngành cực kì quan trọng, không chỉ đối với
Việt Nam mà rất nhiều nước khác trên thế giới (thậm chí cả một nước phát triển
mạnh như Mỹ), bởi vì đây là một ngành sử dụng rất nhiều nhân công, nếu ngành
này bị biến mất hoặc suy yếu thì sẽ dẫn làm tăng một cách nhanh chóng số người
bị thất nghiệp. Chính vì tầm quan trọng của nó mà trong quá trình đàm phán để
Việt Nam gia nhập WTO, những điều kiện liên quan đến hàng dệt may được bàn
đến rất kĩ.

Sau đây là cam kết của Việt Nam với WTO liên quan đến ngành dệt may:
+ Các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt
Nam (riêng trường hợp ta vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng
dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trã đũa nhất định).
+ Các thành viên WTO sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt
may Việt Nam (trừ trường hợp Việt Nam vi phạm qui định WTO về trợ cấp bị
cấm đối với hàng dệt may)
+ Việt Nam phải dỡ bỏ hàng rào bảo hộ đối với ngành dệt may, đồng thời giảm
thuế cho các mặt hàng dệt may của các nước thành viên trong WTO.
11
1.3. Tình hình phát triển ngành dệt may Việt Nam sau hội nhập WTO
So với với nhiều ngành khác, ngành dệt may Việt Nam là một ngành công
nghiệp truyền thống có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Từ khi đổi mới dệt
may Việt Nam không ngừng phát triển về quy mô, năng lực sản xuất, trình độ
công nghệ trang thiết bị, ngày một tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Cho
đến nay dệt amy Việt Nam đã đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang
những thị trường lớn như MỸ, EU… Đặc biệt sau hội nhập Tổ chức thương mại
Thế giới WTO, ngành dệt may Việt Nam có nhiều bước phát triển nổi bật. Để
đánh giá tình hình phát triển ngành dệt may Việt Nam, ta xét trên các khía cạnh:
1.3.1 Thị trường xuất khẩu dệt may của Việt Nam ngày càng phát triển
và mở rộng
Trước khi hội nhập WTO Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hàng dệt may sang
các thị trường truyền thống như ASEAN, Trung Quốc, Nga… Hiện nay, xuất
khẩu các mặt hàng may mặc của Việt Nam tăng trưởng mạnh tại các thị trường
mới, không phải thị trường truyền thống của Việt Nam. Việt Nam đã ký kết xuất
khẩu hàng dệt may sang các thị trường mới như Mỹ, EU, Nhật Bản, Ustralia
Theo Tổng cục Hải quan thì kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường
ASEAN tăng 44,4% so với cùng kỳ năm trước. Campuchia là nước đứng đầu về
kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong khối ASEAN, với kim
ngạch tăng 103% so với cùng kỳ năm 2012. Ngoài ra, xuất khẩu dệt may của Việt

Nam tại một số thị trường khác cũng có mức tăng trưởng mạnh như sang Na Uy
tăng 134,6%, sang New Zealand tăng 120%, sang Australia tăng 37%
Trong thời điểm hiện tại, khi nhu cầu tiêu dùng của các thị trường truyền
thống bị giảm sút, thay vì đợi các thị trường xuất khẩu truyền thống, các doanh
nghiệp Việt Nam cũng tích cực hơn trong tìm kiếm cơ hội gặp gỡ những đối tác
mới, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng dệt may của Việt Nam. Như
vậy, không ỷ lại vào các thị trường lớn sẵn có, dệt may Việt Nam tiếp tục mở
12
rộng đối tác sang các thị trường mới và tiềm năng. Tính đến nay sản phẩm dệt
may Việt Nam đã có mặt ở tại trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trong năm 2012, Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 đối tác lớn nhất
nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Tổng kim ngạch hàng dệt may xuất sang
4 thị trường này đạt 12,96 tỷ USD, chiếm tới 86% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may của cả nước.
Biểu đồ 1: Xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường chính năm 2011
và năm 2012
Theo số liệu thống kê mới nhất của Văn phòng Dệt may Mỹ (OTEXA), năm
2012 thị phần hàng dệt may Việt Nam tại Hoa Kỳ chiếm khoảng 7,6%. Trong
năm qua, Hoa Kỳ nhập khẩu hàng dệt may từ tất cả các nước trên thế giới giảm
nhẹ (0,4%) nhưng nhập khẩu nhóm hàng này từ Việt Nam vẫn tăng hơn 8% so
với năm trước.Trong 4 thị trường chính nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam, EU
là thị trường duy nhất có mức suy giảm nhẹ trong năm 2012, đạt 2,5 tỷ USD,
giảm 3,8% so với năm 2011. Ba thị trường Hoa Kỳ (đạt 7,5 tỷ USD), Nhật Bản
(đạt 2,0 tỷ USD) và Hàn Quốc (đạt 1,1 tỷ USD) đều có mức tăng cao hơn mức
tăng chung (7,5%) của nhóm hàng này, lần lượt là 8,7%, 22,2% và 17,6%.
13
1.3.2 Kim ngạch xuất khẩu
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bất chấp tác động
xấu do 2 cuộc đại suy thoái kinh tế toàn cầu ( 2008 và 2011), dệt may Việt Nam
là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, đóng vai trò

quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong cạnh
tranh quốc tế, đây là ngành mà Việt Nam có thế mạnh.
Ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong những năm
vừa qua. Xuất khẩu hàng dệt may cũng đạt được những kết quả tăng trưởng khá
ấn tượng. Kim ngạch xuất khẩu dệt may liên tục tăng cao, từ mức 5,9 tỉ USD của
năm 2006 và xấp xỉ 7,8 tỷ USD vào năm 2007 và khoảng 9,1 tỷ USD vào năm
2008.
Trong 10 tháng đầu năm 2009, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngành dệt may đạt giá trị xuất khẩu gần 7,5 tỷ
USD, chỉ giảm khoảng 1,5 % so với cùng kì năm 2008.
Năm 2011, hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may tiếp tục giữ vị trí đứng
đầu cả nước với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 15,6 tỷ USD. Cũng trong năm
2011, ngành dệt may đã xuất siêu được 6,5 tỷ USD.
Tuy vậy, bước vào những tháng đầu năm 2012, hoạt động xuất khẩu của
ngành dệt may đã gặp không ít khó khăn… Nhiều doanh nghiệp lớn trong ngành
dệt may đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm được những đơn hàng sản
xuất lớn. Nhiều hợp đồng mới đều có hướng điều chỉnh theo hướng giảm số
lượng xuống 20 - 30%. Nhưng năm 2012, ngành dệt may vẫn đặt mục tiêu kim
ngạch xuất khẩu đạt 17 tỷ USD, tăng 7,5 % so với năm 2011, chiếm 13 % tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước và cao hơn so với nhóm hàng xuất khẩu có kim
ngạch lớn thứ 2 (là điện thoại các loại và linh kiện) tới 2,38 tỷ USD. (Nguồn tổng
cục thống kê)
14
Cũng theo số liệu thống kê Hải quan nhiều năm qua cho thấy, chu kỳ xuất
khẩu của hàng dệt may do tính chất mùa vụ nên thường bắt đầu tăng trưởng vào
tháng 5 và đạt mức cao nhất vào tháng 8 hàng năm (tháng 8, năm 2012 xuất khẩu
đạt 1,52 tỷ USD - mức kim ngạch kỷ lục từ trước tới nay).
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may theo tháng giai đoạn
2008 - 2012
Số liệu thống kê hải quan nhiều năm qua cho thấy, mức kim ngạch bình

quân tháng của nhóm hàng dệt may xuất khẩu tăng liên tục qua các năm. Cụ thể,
năm 2005 mức kim ngạch bình quân tháng chỉ là 401 triệu USD/tháng, đến năm
2010 con số này đạt hơn 900 triệu USD/tháng và đến thời điểm năm 2012 đạt
1,26 tỷ USD/tháng.
15
Biểu đồ 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may bình quân tháng
(năm 2005 - 2012)
Nguồn: Tổng cục Hải quan
1.3.3 Cơ cấu sản xuất hàng hóa xuất khẩu
Từ nhiều năm qua, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu theo
hình thức gia công cho nước ngoài (xuất gia công) và xuất hàng sản xuất từ
nguyên liệu nhập khẩu. Năm 2012, tỷ trọng hai loại hình này chiếm hơn 96%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước (trong đó xuất gia công
chiếm 75,3 %, xuất sản xuất khẩu chiếm 21,2 %).
Nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may mặc chủ yếu là từ nguồn nhập
khẩu. Trong khi đó, ngành dệt hầu như chưa đáp ứng đáp ứng được yêu cầu (cả
về số lượng và chất lượng) cho ngành may. Nói cách khác, mối liên hệ giữa
ngành may và ngành dệt chưa thật sự chặt chẽ. Ngành dệt còn mang hơi hướng
thay thế nhập khẩu, nhưng chưa đạt hiệu quả và quy mô cần thiết. Trong khi đó,
16
ngành may mặc lại có tính định hướng xuất khẩu cao, nhưng dựa vào nguyên liệu
nhập khẩu.
Biểu đồ 4: Tỷ trọng xuất khâu theo các loại hình của hàng dệt may năm 2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
1.3.4 Về năng lực cạnh tranh
Nhiều chuyên gia nhìn nhận, bên cạnh những thành tựu thì quá trình hội
nhập cũng mang đến nhiều thách thức cho các doanh nghiệp (DN) Việt Nam, đặc
biệt là các DN có quy mô vừa và nhỏ. Và nếu DN không đầu tư, tính toán cân
nhắc đến chiến lược, chiến thuật kinh doanh một cách lâu dài, chắc chắn các DN
của ta sẽ dần để mất tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Theo đó, lợi thế về lao động không còn là ưu thế nổi trội của Việt Nam so
với các nước trong khu vực cũng như một số nước khác trên thế giới
như Bangladesh, Mehico, Ấn Độ, Sri Lanka Ngoài ra, hiện ngành dệt bị bỏ
lửng trong cuộc đua giành lợi nhuận của ngành may. Ngành dệt của
Việt Nam vốn còn rất non kém, lại chưa được chú trọng đầu tư đúng mức vì vốn
đầu tư ban đầu quá lớn. Các doanh nghiệp tập trung tìm kiếm đơn hàng cho
17
ngành may vốn đem lại lợi nhuận tức thì. Kết quả là Việt Nam vẫn phụ thuộc rất
lớn và nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Bên cạnh đó, nội tại bản thân các DN trong nước vẫn chưa làm quen và
thích ứng được với nhiều phương thức sản xuất kinh doanh mới (FOB, ODM,
OEM) dẫn đến giá trị sản phẩm làm ra còn thấp, giá trị gia tăng không cao.Việc
xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn chưa thực sự có
tương lai rõ ràng và cụ thể trong một thời gian gấn.
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, dự báo trong thời gian tới, cạnh tranh
trên thị trường thế giới đối với hàng dệt may sẽ căng thẳng hơn. Nhiều nước trên
thế giới đang tập trung vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàng dệt may để
cạnh tranh. Trong khi đó, khủng hoảng tài chính toàn cầu đang làm giảm đáng kể
nhu cầu đối với hàng dệt may. Yếu tố này cùng với việc Trung Quốc được Hoa
Kỳ và EU bái bỏ chế độ hạn ngạch, hàng dệt may của ta sẽ chịu sự cạnh tranh
gay gắt với Trung Quốc và các nước như Ấn Độ, Bangladesh, Sri Lanka.
Với những khó khăn hiện tại, các DN Việt Nam cần củng cố lại hoạt động
sản xuất, đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của các nhà nhập khẩu truyền thống, duy trì các bạn hàng lâu năm như EU,
Mỹ, Nhật Bản, Nga, v.v
18
CHƯƠNG 2. NHỮNG THUẬN LỢI CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
SAU HỘI NHẬP WTO
2.1 Những thuận lợi của ngành dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO
2.1.1 Đối với xuất khẩu

Khi Việt Nam là thành viên WTO, các nước thành viên khác có nghĩa vụ dành
cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sự đối xử bình đẳng (theo nguyên tắc tối
huệ quốc và đối xử quốc gia). Đối với ngành dệt may, điều này có nghĩa là:
• Về số lượng xuất khẩu: hạn ngạch vào các thị trường được dỡ bỏ.
Khi Việt nam gia nhập WTO, các thành viên WTO sẽ phải bãi bỏ hạn
ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Hoa Kỳ hiện đang là một thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam về mặt hàng này (chiếm hơn 50%) thị phần) nhưng
lại đang áp đặt hạn ngạch với ta. Khi ta gia nhập, thị trường lớn nhất này sẽ buộc
phải bãi bỏ hạn ngạch, do đó, ta có nhiều cơ hội đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu
sang thị trường này. Thêm vào đó, các thị trường khác như EU sẽ không có cơ
hội áp đặt hạn ngạch như đã làm trước đây, từ đó đảm bảo tính ổn định hơn cho
thị trường dệt may Việt Nam.
+ Với việc các thành viên WTO phải bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam, hàng dệt may
xuất khẩu của Việt Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất khẩu do không phải mất
chi phí do việc cấp hạn ngạch gây ra.
+ Do DN dệt may có thể tự do xuất khẩu theo nhu cầu thị trường. Kết thúc năm
2010, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may đạt 10,5 tỷ USD và đang trở thành
một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Hai tháng đầu năm
2011, với giá trị xuất khẩu đạt 2,15 tỷ USD, tăng tới 54,2% so với cùng kỳ năm
2010.
+ Các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi hơn trong thủ tục xuất khẩu, từ đó tăng
kim ngạch xuất khẩu.
19
Cơ chế hạn ngạch làm nảy sinh những vấn đề xã hội như nạn tham nhũng,
tiêu cực và sách nhiễu doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp
có năng lực sản xuất và chất lượng hàng hóa tốt lại không có cơ hội xuất khẩu do
không có hạn ngạch. Việc xóa bỏ hạn ngạch của các nước đối với Việt Nam khi
Việt Nam gia nhập WTO sẽ góp phần giải quyết dứt điểm tình trạng này, tạo điều
kiện cho các DN cạnh tranh bình đẳng trong việc xuất khẩu hàng dệt may và góp
phần nâng cao uy tín về chất lượng hàng dệt may trên thị trường thế giới.

• Về thuế quan: Theo nguyên tắc Tối huệ quốc (MFN), hàng dệt may Việt Nam
nhập khẩu vào các nước thành viên WTO sẽ được áp dụng mức thuế tương tự
như thuế đối với hàng dệt may nhập khẩu từ các nước khác vào nước đó.
• Về việc mua bán trên thị trường: Theo nguyên tắc đối xử quốc gia (NT), hàng
dệt may Việt Nam khi nhập khẩu vào một nước thành viên WTO sẽ được đối xử
bình đẳng với hàng dệt may nội địa (về thuế, phí, lệ phí, các quy định liên quan
đến việc bán hàng, cạnh tranh…).
2.1.2. Đối với sản xuất trong nước
Những thuận lợi từ việc xuất khẩu của hàng dệt may khi Việt Nam gia nhập
WTO được dự báo sẽ kéo theo dòng đầu tư nước ngoài (trực tiếp và gián tiếp) lớn
hơn vào ngành dệt may và hạ tầng phục vụ sản xuất dệt may. Điều này mang lại
cho ngành nhiều lợi thế:
− Khả năng cạnh tranh có thể được tăng cường (với việc bổ sung vốn cho các
doanh nghiệp đang tồn tại và sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới).
− Cơ hội tiếp cận kỹ năng quản lý và công nghệ kỹ thuật mới. Trước hết, trang thiết
bị của ngành may mặc đã được đổi mới và hiện đại hoá đến 90%. Các sản phẩm
đã có chất lượng ngày một tốt hơn, và được nhiều thị trường khó tính như Hoa
Kỳ, EU, và Nhật Bản chấp nhận.
20
− Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may đã xây dựng được mối quan hệ gắn bó
chặt chẽ với nhiều nhà nhập khẩu, nhiều tập đoàn tiêu thụ lớn trên thế giới. Bản
thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng được bạn hàng đánh giá là có lợi thế về chi
phí lao động, kỹ năng và tay nghề may tốt.
− Tạo điều kiện thuận lợi hơn để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài:
+ Tư cách thành viên WTO là bằng chứng của một môi trường kinh doanh
thuận lợi và nhờ đó sẽ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào khu vực xuất
khẩu và khu vực sản xuất cho thị trường nội địa. Tuy nhiên, xác định mức độ mà
tư cách thành viên WTO tác động đến FDI là một việc khó khăn, bởi có quá
nhiều nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư. Năm 2002, Trung Quốc
được kết nạp vào WTO, Trung Quốc thu hút được 52,7 tỷ USD đầu tư trực tiếp

nước ngoài và Trung Quốc trở thành nước đứng đầu thế giới về FDI.
+ Việt Nam cũng đã thành công trong việc thu hút đầu tư. Năm 2004, tổng
FDI vào Việt Nam là 4,1 tỷ USD, trong đó số FDI vào ngành dệt may là 3.215
triệu USD (vốn đăng ký) với tổng số dự án là 534 từ 28 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) ngày 11/3/2013 chính thức
công bố, năm 2012, tính cả vốn cấp mới và tăng thêm, vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 16,3 tỷ USD, tăng 4,7% so với năm 2011. Đây là
một kết quả rất tích cực.
XK dệt may đạt 17,2 tỷ USD thì trong đó XK vào Mỹ và Nhật hơn 9 tỷ
USD, chiếm khoảng 58%; XK ngành da giày đạt 8,7 tỷ USD, trong đó XK sang
Mỹ và Nhật 3,6 tỷ USD, chiếm 41%
+ Như vậy, với những thay đổi trong hệ thống pháp lý của Việt Nam qua
tiến trình đàm phán gia nhập sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao tính
minh bạch và trách nhiệm trong các quy định liên quan đến đầu tư, và như vậy sẽ
tạo nên môi trường thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước,
21
trong đó đương nhiên có các nhà đầu tư vào ngành dệt là ngành thượng nguồn
cung cấp nguyên liệu cho ngành may Việt Nam, là yếu tố quan trọng cho việc
phát triển bền vững ngành dệt may Việt Nam.
Tuy nhiên, những lợi ích và cơ hội nói trên lớn chỉ ở dạng tiềm năng. Việc
biến các tiềm năng này thành lợi ích kinh tế thực sự phụ thuộc vào năng lực và sự
chủ động của từng doanh nghiệp.
2.2 Khó khăn của doanh nghiệp dệt may Việt Nam sau khi gia nhập
WTO
Cái được lớn nhất của ngành dệt may khi Việt Nam gia nhập WTO là thị
trường xuất khẩu, nhưng ngược lại, các DN cũng sẽ phải chia sẻ thị trường nội
địa cho các đối thủ nước ngoài. Có thể nói sự kiện Việt Nam đạt được thỏa thuận
với Mỹ về việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mở ra hy vọng
gia tăng xuất khẩu cho các doanh nghiệp dệt may. Tuy nhiên, điều đó không có
nghĩa tương lai chỉ toàn màu hồng, các DN dệt may Việt Nam sẽ phải đối mặt với

một số khó khăn khi gia nhập WTO.
Thứ nhất, công nghiệp phụ trợ còn kém phát triển, phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu nước ngoài, tỷ lệ gia công cao, năng lực cạnh tranh còn yếu hơn các
nước trong khu vực và trên thế giới là thách thức khi hội nhập kinh tế toàn cầu.
Do thiếu công nghiệp phụ trợ nên ngành dệt may Việt Nam gần như phụ thuộc
vào thị trường thế giới cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu.Theo số liệu cập nhật của Bộ
công thương: trong giai đoạn hiện nay, ngoài lợi thế lao động ra, nước ta còn lại
đều phải nhập khẩu với tỷ lệ lớn như: 100% máy móc thiết bị, phụ tùng; 100% xơ
sợi hoá học; 90% bông xơ thiên nhiên chủ yếu nhập từ Mỹ; 70% vải các loại;
67% sợi dệt. Nhập khẩu các loại phụ liệu như chỉ may, mex dựng, khoá kéo
cũng chiếm từ 30% đến 70% tổng nhu cầu. Đây là một trong những điểm yếu
nhất làm hạn chế khả năng cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp dệt may Việt
22
Nam so với các cường quốc xuất khẩu dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ,
Pakistan.
Một khó khăn điển hình là Việt Nam chưa hoàn thành, hoàn chỉnh chuỗi giá trị
từ trồng bông => dệt => nhuộm => may. Mỗi năm Việt Nam dệt 1,2 triệu m
2,
nhưng chỉ nhuộm 700-800 triệu m
2
. Do chúng ta gặp khó khăn trong khâu
nhuộm, nếu phát triển lĩnh vực thì gặp phải trở ngại về ô nhiễm môi trường.
Khâu nhuộm là một nút thắt trong ngành dệt may, điều này làm dệt may Việt
Nam phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài rất nhiều.
Với quy mô vừa và nhỏ như vậy, nếu không liên kết với một số doanh
nghiệp lớn thì những doanh nghiệp này cũng khó tồn tại, chưa nói tới việc cạnh
tranh quốc tế. Thực tế này đã được minh chứng trong tiến trình xoá bỏ hạn ngạch
cho hàng may mặc Việt Nam tại thị trường Canada trước đây và thị trường EU từ
đầu năm ngoái. Cứ xoá bỏ hạn ngạch đến đâu thì hàng dệt may Việt Nam mất
hoặc giảm thị phần đến đó vì các doanh nghiệp thiếu những nhà quản trị giỏi,

thiếu kỹ năng tiếp cận thị trường và năng suất lao động lại thấp…nên không thể
cạnh tranh ngang bằng với Bangladesh, Srilanca, Thái Lan, Indonesia, càng khó
để cạnh tranh được với các cường quốc dệt may.
Thứ hai, hàng rào bảo hộ dệt may trong nước không còn. Nếu như hiện
nay, thuế nhập khẩu hàng may mặc vào Việt Nam là 50%, thuế nhập khẩu vải là
40%, thuế nhập khẩu sợi là 20% thì khi vào WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện
đúng cam kết theo Hiệp định Dệt may (với mức giảm thuế lớn, ví dụ thuế suất
đối với vải giảm từ 40% xuống 12%, quần áo may sẵn giảm từ 50% xuống 20%).
Do vậy vải Trung Quốc sẽ tràn vào nước ta vì lúc nước sẽ phải cạnh tranh với vải
Trung Quốc nhập khẩu.
Thứ ba, nguồn lao động chắc chắn sẽ bị chia sẻ, giá lao động sẽ tăng lên,
cạnh tranh trong việc thu hút lao động cũng sẽ gay gắt hơn.
23
Thứ tư, sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ
tăng mạnh.
Hiện nay hầu hết hàng dệt may nước ngoài có mặt tại Việt Nam là hàng
Trung Quốc giá rẻ nhập lậu. Vì vậy, việc giảm thuế theo lộ trình cam kết với
WTO có khả năng cũng sẽ không làm tăng mạnh lượng hàng nhập khẩu vào Việt
Nam, đặc biệt là từ thị trường Trung Quốc. Nhưng khi gia nhập WTO thì thuế
giảm và bỏ hạn chế định lượng nhập khẩu hàng may mặc cho tất cả các nước.
Như thế không chỉ Trung Quốc mà cảThái Lan và nước ngoài vào tự do thị
trường Việt Nam.
Các hình thức hỗ trợ XK và thưởng XK từ Quỹ hỗ trợ XK; các biện pháp miễn
giảm thuế hoặc tiền thuê đất gắn với điều kiện XK; các ưu đãi tín dụng cho các
Doanh nghiệp Việt Nam bị giảm và không còn. Sẽ có rất nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào lĩnh vực này, do vậy, sức ép cạnh tranh đối với các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ tăng lên.
Thứ năm, phải tuân thủ các nguyên tắc, cam kết với WTO.
Khi gia nhập WTO, ngành dệt may Việt Nam chịu áp lực rất lớn về việc
tuân thủ các quy định và cam kết quốc tế:

(1) Tuy được dỡ bỏ hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ song Việt Nam lại
phải chịu Cơ chế giám sát dệt may của Hoa Kỳ và nguy cơ phía Hoa Kỳ tự khởi
kiện điều tra chống bán phá giá;
(2) Theo cam kết WTO, Việt Nam phải chấm dứt hiệu lực Quyết định
55/2001/QĐ-Ttg về một số cơ chế hỗ trợ ngành dệt may. Như vậy, tác động đối
với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3 hình thức ưu đãi còn
lại - Ưu đãi về tín dụng; Ưu đãi về đầu tư; Bảo lãnh tín dụng đầu tư thuộc. Chính
phủ sẽ xóa bỏ các hình thức trợ cấp không được phép như các hình thức hỗ trợ
24
XK và thưởng XK từ Quỹ hỗ trợ XK; các biện pháp miễn giảm thuế hoặc tiền
thuê đất gắn với điều kiện XK; các ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển
Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía Chính phủ, do
đó sẽ bị ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng cụ
thể còn tùy thuộc vào khả năng chủ động, lường trước khó khăn và chủ động điều
chỉnh chính sách sản xuất và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp.
(3) Các Hiệp định và quy định của WTO nói chung còn rất phức tạp với
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam; các doanh nghiệp còn chịu áp lực của nhiều
hàng rào kỹ thuật: CSR, SA 8000, Okotex, xử lý rác thải Reach, TB.
Thứ sáu, nguy cơ bị kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ ở các thị
trường xuất khẩu lớn hơn.
Đây có thể coi là khó khăn lớn nhất của các Doanh nghiệp Việt Nam khi chính
sách giám sát chống bán phá giá của Mỹ vẫn đang áp dụng đối với hang Dệt may
của Việt Nam, trong khi Mỹ là thị trường chiếm đến 55% tổng kim ngách xuất
khẩu dệt may của nước ta, đã làm cho nhiều khách hang lớn rút toàn bộ đơn đặt
hang ở nước ta để chuyển qua các nước khác. Sức ép này còn khiến cho nhiều
công ty trong và ngoài nước không dám đầu tư vào ngành dệt may vì sợ rủi ro.

25

×