Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

LUẬN VĂN:Quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.3 KB, 40 trang )








LUẬN VĂN:
Quá trình tuần hoàn và chu
chuyển tư bản






Phần I : Mở đầu


Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá trình
lưu thông, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư và quá trình thực hiện giá trị thặng dư đó. Để
thực hiện mục đích tối đa hoá lợi nhuận tư bản trong CNTB luôn luôn vận động, trong quá
trình vần động nó lớn lên không ngừng. Tư bản vận động để biến lượng tiền T thành lượng
tiền T’ > T và để ngày càng sản sinh ra nhiều giá trị thặng dư.
Để trở thành T’ thì T phải trải qua quá trình tuần hoàn và chu chuyển lâu dài và phức tạp
không phải tự nhiên mà tiền tệ tự đẻ ra, phần tiền tệ tăng thêm sau quá trình vận động là bản
chất của sự bóc lột giá trị thặng dư đã được che dấu bởi hình thức bên ngoài là sự vận động.
Vì sao phải nghiên cứu quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản?
Nghiên cứu “Quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản” là để hiểu biết đầy đủ hơn về
sự vận động của tư bản cùng với những biểu hiện của quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa trong
quá trình vận động của nó.


Trong thời đại ngày nay, quá trình tuần hoàn tư bản có thể hiểu là quá trình tuần hoàn vốn.
Với nhịp độ phát triển như vũ bão của nền kinh tế vấn đề tạo nguồn vốn , sử dụng và quay
vòng vốn cho phát triển là một vấn đề lớn cần được xem xét. Nó đóng một vai trò quan trọng
trong nền kinh tế _ xã hội.
Nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản để có một cái nhìn rõ nét, đúng
hướng về vấn đề vốn, tiền tệ trong những thời đại khác nhau.
Dưới giác độ môn kinh tế chính trị học ta chỉ nghiên cứu các hình thái khác nhau mà tư
bản lần lượt khoác lấy rồi lại trút bỏ đi trong khi lặp đi lặp lại tuần hoàn của nó.Đồng thời
cũng cần giả định rằng hàng hoá được bán đúng theo giá trị của chúng và việc bán hàng hoá
như thế được tiến hành trong những tình hình không thay đổi.
Bằng sự kết hợp giữa hai phương pháp logic và lịch sử ta sẽ nghiên cứu quá trình tuần
hoàn và chu chuyển tư bản theo không gian và thời gian xem xét các mối liên hệ giữa các sự


vật hiện tượng xung quanh có ảnh hưởng tới quá trình với cách tiếp cận ấy, bố cục nội dung
của đề án này bao gồm hai phần chính:
- Cơ sở lý luận của vấn đề
- ý nghĩa vận dụng vào thực tiễn nước ta
Với khuôn khổ một đề án, ta không thể nào phân tích được hết những vấn đề sâu xa, chi
tiết mà chỉ đủ để nói được những vấn đề chung nhất, điển hình nhất của quá trình tuần hoàn và
chu chuyển của tư bản.




















Phần II: Nội dung

A - Cơ sở lý luận của vấn đề.
I Sự tuần hoàn của tư bản.
1. Khái niệm:
Tư bản luôn luôn vận động, nó vận động qua ba giai đoạn, chuyển hoá qua ba hình thái,
thực hiện qua ba chức năng rồi lại quay về với hình thái chức năng ban đầu nhưng với số
lượng lớn hơn đó là tuần hoàn của tư bản.
Thực chất của tuần hoàn tư bản là gì?
Nó được hiểu như một chu kỳ hay một vòng quay của tiền tệ, sự tuần hoàn đó sẽ không mất
đi mà chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác và được biểu hiện qua công thức: T_H_T’
T_số tiền tệ (tư bản) bỏ ra ban đầu để mua tư liệu sản xuất, sức lao động, sau đó biến thành
“ H” đem bán để thu về một lượng giá trị là T’.
T ‘_ số tiền hay giá trị kết tinh của sản xuất hàng hoá mà chúng ta nói một cách chính xác
hơn là lợi nhuận mà nhà tư bản thu được qua quá trình đầu tư sản xuất.
Mỗi quá trình của tư bản, tiền tệ càng lớn thì lợi nhuận thu được càng cao tức T’ càng
nhiều. Để minh chứng cho điều đó ta hãy nghiên cứu các giai đoạn tuần hoàn của tư bản.
2 Các giai đoạn tuần hoàn của tư bản tiền tệ.
Quá trình tuần hoàn của tư bản trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai
đoạn sản xuất.

- Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản với tư cách là người mua, xuất hiện trên thị trường hàng
hoá và thị trường lao động; tiền của hắn chuyển hoá thành hàng hoá, hay thông qua hành vi
lưu thông T_ H.
- Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản tiêu dùng bằng cách sản xuất những hàng hoá mà hắn đã
mua. Hắn hoạt động với tư cách là người sản xuất hàng hoá TBCN, tư bản của hắn thực hiện


quá trình sản xuất. Kết quả là có một hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị của các yếu tố sản xuất
ra hàng hoá đó.
- Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách người bán, hàng hoá của hắn
chuyển hoá thành tiền hay thực hiện hành vi lưu thông.
Do đó công thức có thể ứng dụng cho tuần hoàn của tư bản tiền tệ là: T_H_ sản xuất
H’_T’. Đường chỉ ra rằng quá trình lưu thông bị đứt quãng còn H’ và T’ là H và T đã tăng
thêm giá trị thặng dư.
a Giai đoạn thứ nhất.
T_ H ở đây chỉ là hành vi mua bán thông thường, tiền tệ được sử dụng làm phương tiện
mua bán như mọi số tiền khác trong lưu thông. Tiền tuy làm phương tiện mua nhưng phải mua
được hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm mục đích sản xuất giá trị thặng dư. Hành
vi T_ H không chỉ đơn thuần biểu thị việc chuyển hoá một món tiền thành hàng hoá mà nó đã
bước vào những giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản.
Hơn nữa, việc mua TLSX và SLĐ không những phải phù hợp với loại sản phẩm cần chế
tạo mà phải tỷ lệ thích hợp với nhau về số lượng. Tỷ lệ đó nhằm đảm cho quá trình sản xuất
được tiến hành bình thường và nhất là để sử dụng triệt để thời gian lao động của công nhân.
Nếu thiếu tư liệu sản xuất thì công nhân không đủ việc làm và ngược lại nếu thiếu công nhân
thì tư liệu sản xuất không được sử dụng triệt để. Do đó lòng thèm khát lao động thặng dư của
nhà tư bản cũng không được thoả mãn.
Công thức vận động:
Rõ ràng trong quá trình này hành vi T_ SLĐ ( việc mua sức lao động) là yếu tố đặc
trưng khiến tiền xuất hiện ngay từ đầu với tư cách là tư bản. Hành vi T_TLSX chỉ cần thiết để
sức lao động đã mua có thể hoạt động được song T_ SLĐ được coi là nét đặc trưng của

TLSX

T_ H




phương thức sản xuất TBCN không phải do tính chất tiền tệ của mối quan hệ đó. Nét đặc
trưng không phải ở chỗ người ta có thể mua sức lao động bằng tiền mà sức lao động tiến hành
hàng hoá. Đây là một việc mua bán, một quan hệ hàng hoá tiền tệ những người mua là nhà tư
bản_ kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất và người bán là người lao động làm thuê bị tách rời hoàn
toàn với tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền tệ đã đẻ ra mối
quan hệ TBCN; trái lại chính sự tồn tại của quan hệ TBCN mới làm cho chức năng của tiền tệ
là công cụ của lưu thông hàng hoá nói chung biến thành chức năng của tư bản.
Hoàn thành quá trình T_ H, giá trị tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và mang hình thái các
yếu tố của sản xuất TBCN: TLSX và SLĐ, tức là hình thái tư bản sản xuất.
b Giai đoạn thứ hai: SX
Tư bản ứng ra mua hàng hoá sức lao động, tư liệu sản xuất nhằm mục đích thu về một tư
bản có giá trị lớn hơn. Mục đích đó không thể thực hiện được bằng cách sử dụng các hàng hoá
đã mua mà chỉ có thể đạt được bằng cách sử dụng các hàng hoá ấy để sản xuất ra hàng hoá
mới. Do đó, tiếp theo giai đoạn thứ nhất tất yếu dẫn đến giai đoạn thứ hai_ giai đoạn sử dụng
các hàng hoá đã mua, tức là sản xuất. Quá trình này có thể biểu diễn như sau:

TLSX
T SX
SLĐ

Quá trình sản xuất ở đây diễn ra cũng giống như quá trình sản xuất của mọi hình thái xã hội
khác, là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Phương thức kết hợp đặc
thù nàykhông chỉ là kết quả mà còn là yêu cầu của sự vận động tư bản; quá trình sản xuất vì

vậy mà trở thành một chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất TBCN.
Trong khi thực hiện chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của nó
để biến thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả là một hàng hoá mới được


tạo ra cả về giá trị sử dụng và lượng giá trị so với hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng
hoá mới này là hàng hoá mang giá trị thặng dư, đã trở thành H’, có giá trị bằng giá trị của tư
bản sản xuất hao phí ra nó cộng với giá trị thặng dư do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Kết quả của
giai đoạn này là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá.
c Giai đoạn thứ ba: H' - T'
Hàng hoá do quá trình sản xuất TBCN tạo ra là tư bản hàng hoá hay tư bản tồn tại dưới
hình thài hàng hoá, trong đó chứa đựng không phải chỉ có giá trị tư bản ứng trước mà có cả giá
trị thặng dư ( H’=H+ h).
Khi tồn tại dưới hình thái hàng hoá, tư bản chỉ thực hiện được các chức năng của hàng hoá
khi nó được bán đi tức là chuyển hoá được thành tiền, trong đó có sự chuyển hoá trở lại của
giá trị tư bản về hình thái tiền H_T và sự chuyển hoá giá trị thặng dư được tạo ra trong quá
trình sản xuất dưới hình thái hàng hoá thành tiền.
Chức năng của H’ không chỉ là chức năng của mọi sản phẩm hàng hoá, mà quan trọng hơn
còn là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất. Kết thúc giai
đoạn này tư bản hàng hoá đă biến thành tư bản tiền tệ. Đến đây mục đích của tư bản được thực
hiện. Tư bản trở lại hình thái ban đầu với số lượng lớn hơn trước.
Sự vận động của tư bản T_ H sản xuất H’_ T’ là sự vận động có tính chất tuần hoàn:
từ hình thái tiền đầu quay lại hình thái tiền cuối quá trình đó tiếp tục và lặp đi lặp lại không
ngừng. Trong mỗi giai đoạn tư bản mang một hình thái và thực hiện một chức năng. Tư bản
tiền tệ chuyển thành tư bản sản xuất rồi tư bản hàng hoá. Vận động của tư bản là một chuỗi
những biến hoá hình thái của tư bản. Điều đó cho thấy rõ tư bản không phải là vật mà là một
quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất; nó chỉ lấy vật làm hình thái tồn tại trong quá trình vận động.
Hơn nữa tư bản là một quan hệ sản xuất khác với quan hệ sản xuất của sản xuất hàng hoá. Nó
chỉ lấy các phạm trù của kinh tế hàng hoá , lấy hàng và tiền làm hình thái tồn tại của mình.Sự
vận động của tư bản chỉ tiến hành được bình thường khi các giai đoạn của nó diễn ra liên tục,

các hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyển hoá một cách đều đặn. Mỗi sự ách tắc, gián
đoạn ở một giai đoạn nào đó đều gây rối loạn hay đình trệ cho sự vận động của tư bản. Có


nhiều yếu tố ảnh hưởng tới thời gian tư bản nằm lại ở mỗi giai đoạn. Tuy nhiên trong mỗi
ngành ở mỗi thời kỳ nhất định có một mức thời gian trung bình xã hội, thu hẹp hay kéo dài các
thời gian đó đều ảnh hưởng tới hiệu quả của tư bản. Trong các loại tư bản chỉ có tư bản công
nghiệp mới có hình thái tuần hoàn gồm đầy đủ ba giai đoạn. Nó là hình thái tư bản duy nhất
không chỉ chiếm đoạt giá trị thặng dư mà còn tạo ra giá trị thặng dư.
3 Các hình thái của tuần hoàn và sự thống nhất giữa chúng_ tư bản công
nghiệp.
Trong quá trình vận động trải qua ba giai đoạn, tư bản lần lượt khoác lấy các hình thái tư
bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hoá và ở mỗi hình thái nó hoàn thành một chức năng
thích hợp. Đó là tư bản công nghiệp ( công nghiệp với ý nghĩa bao quát mọi ngành sản xuất
vật chất kinh doanh). Vì tư bản công nghiệp là hình thái tồn tại duy nhất của tư bản với chức
năng không chỉ chiếm lấy giá trị thặng dư mà còn tạo ra giá trị thặng dư.
Tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá đều không phải là những loại tư bản độc
lập mà chỉ là những hình thái chức năng đặc thù của tư bản công nghiệp. Tư bản này lần lượt
mang ba hình thái và xét trong quá trình vận động liên tục, mỗi hình thái đều có thể xem là
điểm xuất phát đồng thời là điểm hồi quy của nó. Vì vậy tư bản công nghiệp vận động đồng
thời cùng một lúc dưới cả ba dạng tuần hoàn: tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư
bản sản xuất, tuần hoàn của tư bản hàng hoá.
a Tuần hoàn của tư bản tiền tệ: T_ H sản xuất H’_T’ ( hay T_T’)
Mở đầu và kết thúc tuần hoàn đều là tiền. Sự vận động của tư bản biểu hiện ra là sự vận
động của tiền. Hàng hoá hay sản xuất chỉ là những yếu tố trung gian, chỉ là những “ tai vạ cần
thiết” để đẻ ra tiền.
Trong T_T’ mọi quá trình trung gian đều biến mất, quan hệ bóc lột của tư bản với lao động
làm thuê bị che giấu.
Dưới TBCN, tư bản cho vay là một bộ phận của tuần hoàn tư bản công nghiệp dưới hình
thức tư bản tiền tệ tách ra. Trong quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp tất yếu sẽ dẫn

đến hai hiện tượng trái ngược nhau: một số nhà tư bản có lượng tiền tạm thời chưa dùng đến,


họ cần cho vay để thu lợi tức; trong khi đó một số nhà tư bản khác cần tư bản để mua nguyên
vật liệu, cần mở rộng kinh doanh mà chưa tích luỹ đủ vốn họ cần phải đi vay. Từ đó xuất
hiện tư bản cho vay.
Tư bản cho vay là tư bản mà quyền sử dụng và quyền sở hữu tách rời nhau. Cùng một tư
bản, đối với người cho vay nó là tư bản sở hữu, tức là nó chỉ được tạm giao cho người khác sử
dụng sau kỳ hạn nhất định sẽ được hoàn lại kèm theo một số lãi, đối với người đi vay nó là tư
bản hoạt động làm chức năng tạo ra lợi nhuận. Tư bản cho vay là một loại hàng hoá đặc biệt vì
người bán không mất quyền sở hữu còn người mua khi dùng thì giá trị của nó không mất đi
mà còn tăng lên, giá cả của nó không do giá trị mà do giá trị sử dụng của nó quyết định và
thấp hơn nhiều so với giá trị.
Hình thái tuần hoàn này phản ánh rõ nét nhất mục đích, động cơ vận động của tư bản là làm
tăng giá trị, là đem lại giá trị thặng dư. Hơn nữa, giá trị thặng dư lại biểu hiện dưới hình thức
chói lọi nhất của nó là hình thái tiền tệ. Bởi vậy, T_T’ là hình thái biểu hiện phiến diện nhất
nhưng cũng đặc trưng nhất cho sự vận động của tư bản.

b Tuần hoàn của tư bản sản xuất: H’_T’_ H sản xuất.
Tuần hoàn này nói lên sự lặp đi lặp lại một cách chu kì của tư bản sản xuất, do đó nói lên
quá trình tái sản xuất hay quá trình sản xuất của tư bản với tư cách là quá trình tái sản xuất gắn
liền với việc tăng thêm giá trị; nó không những nói lên việc sản xuất mà còn nói lên việc tái
sản xuất giá trị thặng dư một cách chu kì; nó nói lên hoạt động của tư bản công nghiệp đang
nằm dưới hình thái sản xuất của nó, hoạt động không chỉ có một lần, mà lặp đi lặp lại một
cách chu kì, thành thử sự lặp đi lặp lại đã do chính điểm xuất phát quy định.
Mở đầu và kết thúc tuần hoàn là sản xuất, vận động của tư bản biểu hiện ra là sự vận động
không ngừng của sản xuất. Trong quá trình này tư bản hàng hoá cho thấy rõ nó là kết quả trực
tiếp của sản xuất, còn hàng hoá và tiền tệ chỉ là những yếu tố trung gian, toàn bộ quá trình lưu
thông H’_ T’ _ H chỉ là điều kiện cho sản xuất.



Tuần hoàn của tư bản sản xuất không chỉ ra động cơ, mục đích của vận động tư bản nhưng
lạilàm rõ được nguồn gốc của tư bản. Nguồn gốc đó là lao động của công nhân tích luỹ lại.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất phản ánh tính chất liên tục của sản xuất. Một số nhà kinh tế chỉ
căn cứ vào hình thái tuần hoàn này đã cho rằng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa sẽ không thể có
khủng hoảng sản xuất thừa.
c Tuần hoàn của tư bản hàng hoá: H’_ T’_ H sản xuất _ H’.
Điểm mở đầu và kết thúc tuần hoàn đều là hàng hoá. Vận động của tư bản biểu hiện ra là
sự vận động của hàng hoá; sản xuất và tiền tệ chỉ là những hình thái trung gian, là điều kiện
cho sự vận động của hàng hoá. Hình thái tuần hoàn này nhấn mạnh vai trò của lưu thông hàng
hoá và tính liên tục của lưu thông đó; quá trình sản xuất và lưu thông của tiền chỉ là điều kiện
môi giới cho lưu thông hàng hoá.
Trong nền kinh tế TBCN, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp
dưới hình thái tư bản hàng hoá tách ra. Nó được hình thành khi có một thương nhân ứng tư
bản tiền tệ ra đảm bảo việc mua và bán hàng hoá cho tư bản công nghiệp nhằm mục đích thu
lợi nhuận. Tư bản thương nghiệp là tư bản hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Nó
thực hiện chức năng của tư bản hàng hoá đã tách ra khỏi quá trình tuần hoàn của tư bản công
nghiệp. Sự tách rờinàyphản ánh sự phát triển sản xuất và phân công lao động xã hội.
Tuần hoàn của tư bản hàng hoá khác hẳn với cách hình thái tuần hoàn khác, điểm xuất phát
của nó bao giờ cũng bắt đầu bằng H’_ một giá trị đã tăng thêm giá trị, một giá trị tư bản ứng
trước đã chứa đựng giá trị thặng dư với bất kỳ quy mô như thế nào. Do đó tuần hoàn tư bản
hàng hoá có một số đặc trưng sau:
 Ngay từ đầu nó đã biểu hiện là hình thái của sản xuất tư bản chủ nghĩa nên đã bao gồm cả
tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân.
 Kết thúc bằng H chứ chưa chuyển hoá trở lại thành tiền đã tăng thêm giá trị mới (T’), nó là
hình thái chưa hoàn thành còn phải tiếp tục vận động.
 Tuần hoàn của tư bản hàng hoá là hình thái nổi bật sự liên tục của lưu thông hàng hoá. H’
là điểm bắt đầu tuần hoàn và H’ _ điểm kết thúc tuần hoàn đều biểu hiện một khối lượng



giá trị sử dụng được sản xuất ra để bán. Do đó H’_điểm bắt đầu tuần hoàn đòi hỏi lưu
thông thì điểm kết thúc tuần hoàn cũng đòi hỏi một quá trình lưu thông mới.
 Hình thái tuần hoàn này còn trực tiếp bộc lộ mối quan hệ giữa những người sản xuất với
nhau.
Tóm lại, nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn, mỗi hình thái chỉ phản ánh hiện thực tư
bản chủ nghĩa một cách phiến diện, làm nổi bật bản chất này lại che dấu bản chất khác của sự
vận động. Do đó phải xem xét đồng thời cả ba hình thái tuần hoàn mới nhận thức đầy đủ sự
vận động thực tế của tư bản, mới hiểu biết đúng đắn bản chất của mối quan hệ giai cấp mà tư
bản biểu hiện trong sự vận động của nó.
Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành được bình thường khi cả ba giai đoạn chuyển tiếp một
cách trôi chảy. Nếu một giai đoạn nào ngừng trệ thì toàn bộ tuần hoàn sẽ bị ngừng trệ. Song
muốn đảm bảo tuần hoàn không ngừng của tư bản, đảm bảo cho tư bản liên tục chuyển hoá
hình thái qua các giai đoạn kế tiếp nhau thì phải có đủ hai điều kiện:
- Thứ nhất, toàn bộ tư bản phải phân ra ba bộ phận, tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái
- Thứ hai, mỗi bộ phận tư bản ở mỗi hình thái khác nhau đều phải không ngừng liên tục trải
qua ba hình thái.
Hai điều kiện trên quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau.
d Sự vận động của tư bản công nghiệp là sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn.
Đặc trưng của tư bản là sự vận động liên tục. Điều kiện cho sự vận động liên tục đó là cùng
một lúc tư bản phải tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái: tiền tệ, sản xuất và hàng hoá; mỗi hình
thái đó đều thực hiện vòng tuần hoàn của mình. Vậy tuần hoàn của tư bản trong sự liên tục của
nó không những là sự thống nhất của quá trình lưu thông và quá trình sản xuất mà còn là sự
thống nhất của cả ba hình thái tuần hoàn của nó.
Tỷ lệ phân chia tư bản thành ba hình thái phụ thuộc vào những yếu tố khác nhau ở các
ngành và các hoàn cảnh khác nhau. Trong chủ nghĩa tư bản đương đại có những yếu tố làm
cho quy mô của tư bản ứng trước ngày càng tăng như: do cạnh tranh, do công nghệ hiện đại,
do khó khăn về tiêu thụ và việc vươn tới những thị trường ngày càng xa với yêu cầu chất


lượng ngày càng cao. Ngược lại cũng có những yếu tố làm giảm quy mô tư bản ứng trước như

công nghệ mới, tổ chức quản lý khoa học, quan hệ tín dụng
4 Lưu thông:
Sự vận động của tư bản thông qua lĩnh vực sản xuất và hai giai đoạn của lĩnh vực lưu thông
được thực hiện nối tiếp nhau trong thời gian. Thời gian mà tư bản nắm trong lĩnh vực sản xuất
là thời gian sản xuất của tư bản, thời gian mà tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông là thời gian
lưu chuyển hay lưu thông của tư bản. Do đó, toàn bộ thời gian mà tư bản dùng để hoàn thành
vòng tuần hoàn của nó bằng thời gian sản xuất và thời gian lưu thông cộng lại.
Tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông dưới hình thái tư bản hàng hoá và tư bản tiền tệ. Hai
quá trình lưu thông ấy biểu hiện ở chỗ là nó chuyển hoá từ hình thái hàng hoá sang hình thái
tiền và từ hình thái tiền thành hình thái hàng hoá. ở đây sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền
cũng đồng thời là sự thực hiện giá trị thặng dư chứa đựng trong hàng hoá và sự chuyển hoá
của tiền thành hàng hoá động thời lại là sự chuyển hoá trở lại của giá trị tư bản thành hình thái
các yếu tố sản xuất của tư bản.
Thời gian lưu thông và thời gian sản xuất loại trừ lẫn nhau. Trong thời gian lưu thông, tư
bản không hoạt động với tư cách là tư bản sản xuất vì vậy không sản xuất ra hàng hoá cũng
không sản xuất ra giá trị thặng dư. Chừng nào thời gian lưu thông còn kéo dài thì chừng đó
quá trình sản xuất và do đó, sự tăng thêm giá trị thặng dư của tư bản cũng bị gián đoạn. Tuỳ
theo thời gian lưu thông dài hay ngắn mà quá trình sản xuất lặp đi lặp lại nhanh hay chậm.
Vậy thời gian lưu thông của tư bản nói chung giới hạn thời gian sản xuất của nó, do đó
cũng giới hạn quá trình tăng thêm giá trị của tư bản.
II Chu chuyển của tư bản:
Sự tuần hoàn của tư bản nếu xét nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lặp đi lặp lại chứ
không phải là một quá trình cô lập, riêng rẽ thì gọi là chu chuyển của tư bản.
Nếu như khi phân tích tuần hoàn của tư bản ta phân tích các hình thái chuyển đổi của tư
bản qua ba giai đoạn vận động của nó thì khi phân tích chu chuyển của tư bản ta sẽ phải lần


lượt phân tích tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm và sự ảnh hưởng của tốc độ đó tới
việc sản xuất và giá trị thặng dư.
1- Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển.

a.Thời gian chu chuyển:
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khitư bản ứng ra dưới một hình
thức nhất định ( tiền tệ, sản xuất, hàng hoá ) cho đến khi nó trở về tay nhà tư bản cũng dưới
hình thức như thế nhưng đã có thêm giá trị thặng dư. Đó là thời gian tư bản thực hiện được
một vòng tuần hoàn.

Thời gian Thời gian Thời gian
Chu chuyển = sản xuất + lưu thông


Thời gian sản xuất = thời gian lao động + thời gian gián đoạn lao động
+ thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra
sản phẩm. Đây là thời gian hữu ích nhất, vì nó tạo ra giá trị cho sản phẩm.
Thời gian gián đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động dưới dạng bán thành phẩm
nằm trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không có sự tác động của lao động mà chịu sự tác động
của tự nhiên như thời gian để cây luá tự lớn lên, rượu trong thời gian ủ men Thời gian gián
đoạn lao động có thể xen kẽ với thời gian lao động hoặc tách ra thành một thời kỳ riêng biệt;
nó có thể dài ngắn khác nhau phụ thuộc vào các ngành sản xuất, các sản phẩm chế tạo, phụ
thuộc vào công nghệ sản xuất và dự trữ sản xuất đủ , thiếu hay thừa.
Thời gian dự trữ sản xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua về ,sẵn sàng tham
gia vào quá trình sản xuất nhưng chưa thực sự được sử dụng vào sản xuất,còn ở dạng dự trữ.
Sự dự trữ đó là điều kiện cho quá trình sản xuất liên tục. Quy mô dự trữ phụ thuộc vào nhiều
yếu tố: đặc điểm của các ngành, tình hình của thị trường và năng lực tổ chức quản lý sản
xuất Cả thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất đều không tạo ra giá trị cho


sản phẩm. Sự tồn tại của các thời gian này là không tránh khỏi, nhưng thời gian của chúng
ngày càng dài hay sự chênh lệch giữa thời gian sản xuất với thời gian lao động ngày càng lớn
thì hiệu quả của tư bản ngày càng thấp. Rút ngắn thời gian này là yếu tố quan trọng để nâng

cao hiệu quả của tư bản.
Trong chủ nghĩa tư bản đương đại, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại, việc sử dụng các giống mới, các công nghệ sản xuất mới, việc tổ chức sản xuất khoa
học đã rút ngắn được đáng kể thời gian gián đoạn lao động, thời gian dự trữ sản xuất do đó
làm tăng hiệu quả của tư bản.
Thời gian lưu thông là thời gian nằm trong lĩnh vực lưu thông.

Thời gian lưu thông = thời gian mua + thời gian bán.
Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
- Trình độ thị trường, quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường.
- Khoảng cách tới thị trường.
- Trình độ phát triển của giao thông vận tải
Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, nhìn chung không tạo ra
giá trị thặng dư cho tư bản. Tuy nhiên sự tồn tại của nó là tất yếu và có vai trò quan trọng vì đó
là đầu vào và đầu ra của sản xuất, cung cấp các điều kiện cho sản xuất và thực hiện tiêu thụ
sản phẩm. Rút ngắn thời gian lưu thông làm cho tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông giảm
xuống, tăng được lượng tư bản đầu tư cho sản xuất, đồng thời còn rút ngắn thời gian chu
chuyển, làm cho quá trình sản xuất được lặp lại nhanh hơn tạo được nhiều giá trị và giá trị
thặng dư, làm tăng hiệu quả của tư bản.
Do chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như vậy, nên thời gian chu chuyển của các tư bản
khác nhau là rất khác nhau.
b - Số vòng chu chuyển.


Thời gian chu chuyển của tư bản dài ngắn khác nhau nên muốn tính toán và so sánh chúng
người ta thường tính tốc độ chu chuyển của các tư bản trong cùng một khoảng thời gian nhất
định thường là một năm, xem tư bản đã quay được mấy vòng
Ta có công thức:
Trong đó: n – số vòng chu chuyển
CH – thời gian trong một năm (12 tháng)

ch – thời gain chu chuyển một vòng của tư bản
Ví dụ: Tư bản thứ nhất có thời gian chu chuyển 6 tháng, tư bản thứ hai có thời gian chu
chuyển 8 tháng thì số vòng chu chuyển trong năm của hai tư bản đó là:


Hay tư bản thứ nhất chu chuyển nhanh hơn tư bản thứ hai.
2. Tư bản cố định và tư bản lưu động.
Tham gia vào quá trình sản xuất gồm có tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra sản
phẩm. Căn cứ vào phương thức chu chuyển giá trị của các bộ phận tham gia vào sản xuất mà
người ta chia tư bản sản xuất ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định là bộ phận tư bản được sử dụng toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị
của nó chỉ chuyển từng phần vào sản phẩm. Đặc điểm của tư bản cố định là về hiện vật, nó
luôn luôn bị cố định trong quá trình sản xuất chỉ có giá trị của nó là tham gia vào quá trình lưu
ch
CH
n 
)¨/(
¸
¸
mnvong
ngth
ngth
n 2
6
12
1

)¨/(,
¸
¸

mnvong
ngth
ngth
n 51
8
12
2



thông cùng sản phẩm hơn nữa nó cũng chỉ lưu thông từng phần, còn một phần bị cố đình trong
tư liệu sản xuất, phần này không ngừng giảm xuống cho tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản
phẩm. Thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài
hơn thời gian một vòng tuần hoàn .
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản khi tham gia vào quá trình sản xuất nó chuyển toàn bộ
giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biến dưới hình thái nguyên nhiên liệu Bộ
phận tư bản khả biến, xét về phương thức chu chuyển cũng giống như bộ phận tư bản bất biến
lưu động nên cũng được xếp vào trung bình lưu động. Như vậy, xét theo nguồn gốc và giá trị
thặng dư thì tư bản chia thành tư bản bất biến và tư bản khả biến, còn khi xem xét về phương
thức chu chuyển giá trị thì tư bản được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Căn cứ
để phân chia không phải do đặc tính tự nhiên của chúng mà ở sự khác nhau về phương thức
chu chuyển giá trị, được quyết định bởi chức năng của các bộ phận tư bản trong quá trình sản
xuất.
Trong thực tế sự phân biệt giữa tư bản cố định và tư bản lưu động đôi khi rấtkhó. Sự phân
chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động là đặc điểm riêng của tư bản sản xuất. Tư
bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động, trong khi tư bản cố định chu chuyển được
một vòng thì tư bản lưu động có thể chu chuyển được nhiều vòng.
Xác định tư liệu sản xuất là tư bản cố định hay tư bản lưu động phải căn cứ vào chức năng
cuả nó trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất tư bản cố định bị hao mòn dần.
Ví dụ:

Một cỗ máy từ chỗ mới nguyên vẹn bị hao mòn dần trong quá trình sử dụng cuối cùng chỉ
còn là một đống sắt vụn.
Đó chính là hao mòn về giá trị sử dụng. Đôi khi đối với hao mòn vật chất giá trị của nó
cũng bị giảm dần do đã chuyển từng phần sang sản phẩm, đó là hao mòn về giá trị. Những sự
hao mòn đó gọi là hao mòn hữu hình_ tức là hao mòn do sử dụng trong sản xuất, do phá hoại
của thiên nhiên gây ra. Ngoài hao mòn hữu hình, tư bản cố định còn bị hao mòn vô hình _ tức


là nói về những trường hợp máy móc tuy còn tốt nhưng đã bị mất giá do có những máy móc
tốt hơn hiện đại hơn xuất hiện. Nó là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị.
Nguyên nhân của hao mòn hữu hình:
- Năng suất lao động tăng lên do đó làm giảm giá trị của những chiếc máy cũ tuy giá trị
sử dụng cuả chúng còn nguyên vẹn hoặc mới chỉ hao mòn một phần.
- Tiến bộ của khoa học kĩ thuật được ứng dụng đã tạo ra những máy móc tối tân hơn, có
công suất cao hơn các máy móc cũ. Tình hình này làm cho các máy móc cũ tuy giá trị sử dụng
còn nguyên vẹn nhưng giá trị bị giảm đi nhiều.
Hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình của tư bản cố định đều được tính chuyển vào giá
trị của sản phẩm, lưu thông sản phẩm chuyển hoá thành tiền và hình thành quỹ khấu hao dùng
để đổi mới tư bản cố định khi đến kỳ tái tạo nó dưới hình thái hiện vật. Tư bản cố định phải
được bảo quản chu đáo để tránh những hao mòn bất thường và nâng cao hiệu quả của nó. Việc
bảo quản được thực hiện một phần ngay trong việc sử dụng, bảo tồn và chuyển giá trị của nó
vào sản phẩm. Việc bảo quản này là một cồng hiến tự nhiên không mất tiền của lao động sống.
Do đó phải có những chi tiêu đặc biệt để bảo dưỡng, tu bổ và sửa chữa tài sản cố định. Chi phí
bảo quản và sửa chữa đó được phân phối bình quân vào suốt cuộc đời phục vụ trung bình cuả
tư bản cố định và tính vào giá cả sản phẩm sản xuất ra. Số tư bản chi cho bảo quả, sửa chữa
xét về nhiều điểm là một thứ tư bản có tính chất đặc biệt, không thể xếp vào tư bản cố định
cũng không thể xếp vào tư bản lưu động. Nhưng vì là bộ phận trong chi phí thường ngày nên
nó được xếp vào tư bản lưu động, trừ những chi phí sửa chữa lớn có tính chất thay thế hay đổi
mới tư bản cố định thì được tính vào quỹ khấu hao tài sản cố định.
Trong CNTB hiện đại, tư bản cố định có quy mô rất lớn. Các chi phí bảo quản sửa chữa,

thay thế bảo đảm điều kiện cho nó hoạt động cũng rất lớn nên thu hồi nhanh tư bản cố định
càng có ý nghĩa quan trọng trong cạnh tranh. Do tác động của khoa học công nghệ hiện đại tư
bản cố định càng có nguy cơ hao mòn vô hình, vì vậy các nhà tư bản phải tìm mọi cách để
khấu hao nhanh tư bản cố định. Tỷ lệ khấu hao thường được tính rất cao ngay từ những năm


đầu chế tạo sản phẩm mới, lợi dụng giá cả sản phẩm cao của đầu chu kỳ sản phẩm sau đó giảm
dần khấu hao cùng với việc giảm giá sản phẩm cuối chu kỳ.
3 - Chu chuyển chung, chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước và tỷ suất giá trị
thặng dư hàng năm.
a. Chu chuyển chung.
Chu chuyển chung của tư bản ứng trước là con số chu chuyển trung bình của những thành
phần khác nhau của tư bản.
Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ chu chuyển trung bình
cuả tư bản cố định và tư bản lưu động.Nó được tính bằng giá trị chu chuyển của tư bản cố định
giá trị của tư bản trong năm chia cho tổng số tư bản ứng trước.
Ví dụ: tổng tư bản ứng trước là $80.000 trong đó tư bản cố định là $60.000 và cứ 10 năm
phải đổi mới một lần tức một năm chu chuyển giá trị của nó vào sản phẩm mới bằng
60.000/10 = $6.000, còn tư bản lưu động là $20.000 và cứ 2 tháng chu chuyển một lần tức là
một năm chuyển một số giá trị vào sản phẩm mới là 20.000x6 = $120.000.
Tốc độ chu chuyển của tư bản ứng trước là: 120.000 + 6.000 /80.000 = 1,575 vòng.
Qua ví dụ trên ta thấy tốc độ chu chuyển của tổng tư bản tỷ lệ thuận với tổng giá trị chu
chuyển và tỷ lệ nghịch với giá trị của tổng tư bản ứng trước.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản sẽ tăng được hiệu suất sản xuất và mang lại giá trị thặng
dư nhiều hơn cho nhà tư bản. nó còn giúp nhà tư bản tránh được thiệt hại do hao mòn và tăng
cường sử dụng quỹ khấu hao vào việc mở rộng và cải tiến sản xuất.
b. chu chuyển thực tế.
Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư bản ứng trước được khôi phục
toàn bộ về mặt giá trị cũng như về mặt hiện vật; chu chuyển thực tế chủ yếu do thời gian tồn
tại của tư bản cố định quyết định.

Ví dụ: trong một doanh nghiệp chu chuyển của tư bản cố định là 10 năm một lần, của tư
bản lưu động là 10 năm 3 lần thì chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước là 10 năm.


Ngày nay khoa học kỹ thuật rất phát triển cho việc ra đời các máy móc hiện đại thay thế
cho những máy móc cũ lạc hậu là điều tất yếu. Song chính sự thay thế này là một trong những
nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước.
c. tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm.
Tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư vào tư bản khả
biến, biểu thị bằng công thức:

m: giá trị thặng dư tạo ra / một vòng chu chuyển.
v: tư bản khả biến .
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó chính là nâng cao tỷ
suất giá trị thặng dư hàng năm, tức là nâng cao tỷ số giữa khối lượng giá trị thặng dư hàng
năm với giá trị tư bản khả biến ứng trước.
Ví dụ: Giả định 2 tư bản A và B có khối lượng tư bản khả biến ứng ra như nhau là 20.000
đ có tỷ suất giá trị thặng dư như nhau là 100% nhưng tư bản A mỗi năm chỉ chu chuyển một
vòng còn tư bản B được 2 vòng thì số lượng giá trị thặng dư hai tư bản ấy thu được sẽ khác
nhau: tư bản A thu được 20.000 đ x 100% = 20.000 đ còn tư bản B thu được (20.000 x 2) x
100% = 40.000 đ do đó tỷ suât giá trị thặng dư của hai tư bản cũng khác nhau.
Tư bản A đạt tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là %100%100
000
.
20
000.20


Tư bản B đạt tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là %200%100
000

.
20
000.40

Tuy hai tư bản ứng trước như nhau nhưng do tốc độ chu chuyển khác nhau nên tư bản khả
biến sử dụng khác nhau do đó tỷ suất giá trị thặng dư thực tế như nhau lại dẫn đến tỷ suất giá
trị thặng dư hàng năm khác nhau. Bởi vậy, việc lựa chọn ngành có thời gian chu chuyển ngắn
hơn và tìm mọi cách rút ngắn thời gian của một vòng chu chuyển là một trong những biện
pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp.Điều đó gây ảo tưởng rằng lưu
(%)100
'
v
m
m 


thông cũng tạo ra giá trị thặng dư cho tư bản. song thực tế không phải vậy, sở dĩ chu chuyển
nhanh có thể đem lại cho nhà tư bản nhiều giá trị thặng dư hơn là vì đã thu hút được nhiều lao
động sống hơn, nhờ đó mà tạo ra được nhiều giá trị thặng dư mới.
4- Các thời kỳ của chu chuyển tư bản.
Để thức hiện quá trình chu chuyển của tư bản, tư liệu sản xuất và sức lao động mà nhà tư
bản mua về phải trải qua hai thời kỳ: sản xuất và lưu thông. Qua quá trình sản xuất, người lao
động sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm và qua quá trình lưu thông để sản phẩm đó
được tiêu thụ đem về cho nhà tư bản hình thái tiền tệ như ban đầu.
a. thời.kỳ sản xuất
Thời kỳ sản xuất của tư bản ứng trước gồm có hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất là thời kỳ mà tư
bản nằm trong quá trình lao động, thời kỳ thứ hai là thời kỳ mà hình thái tồn tại của tư bản-
tức là hình thái của sản phẩm chưa hoàn thành bị phó mặc cho các tác động của tự nhiên mà
không nằm trong quá trình lao động. Nếu đôi khi hai thời kỳ này xem kẽ nhau, cài răng lược
với nhau, thì tình hình cũng không vì thế mà thay đổi một chút nào. Chỉ đến cuối thời kỳ sản

xuất thì sản phẩm mới hoàn thành, mới chín muồi, và do đó, mới có thể chuyển hoá từ hình
thái tư bản sản xuất thành hình thái tư bản hàng hoá.
b. thời kỳ lưu thông.
Thời kỳ lưu thông đóng vai trò quan trọng trong quá trình chu chuyển của tư bản. Nếu sản
phẩm sản xuất ra không được tiêu thụ hết thì nhà tư bản không thu hồi được tiền tệ của mình,
và vì thế giá trị thặng dư thu được không cao, có khi không có. Thời gian lưu thông bao gồm
thời gian mua và bán. Phần quan trọng nhất là thời gian bán hàng, tức là thời kỳ mà tư bản
nằm trong trạng thái tư bản hàng hoá.Một trong những nguyên nhân gây ra sự khác nhau trong
thời gian bán hàng là khoảng cách giữa thị trường bán hàng hoá và nơi sản xuất ra hàng hoá
ấy.
Sự cải tiến những phượng tiện giao thông vận tải tuy rút ngắn một cách tuyệt đối khoảng
thời gian di chuyển của hàng hoá, nhưng không xoá bỏ được sự khác nhau tương đối mà sự
vận chuyển gây ra trong thời gian lưu thông của những hàng hoá khác nhau, thậm chí của
những bộ phận khác nhau của cùng một tư bản hàng hoá.
5 - Chi phí lưu thông.


a - Chi phí lưu thông thuần tuý.
Nói đến chi phí lưu thông thuần tuý, việc đầu tiên ta phải kể đến thời gian chi phí cho việc
mua và bán, tức là chi phí về mặt thời gian.
Chi phí cho việc mua và bán là một phần cấu thành chi phí lưu thông, là những chi phí cần
thiết làm cho hình thái hàng hoá chuyển thành hình thái tiền tệ và ngược lại.
Ngoài chi phí thời gian để thực hiện việc mua và bán, còn phải hao phí thời gian vào việc
kế toán, một việc cũng đòi hỏi phải chi phí cả lao đông đã vật hoá nghĩa là đòi hỏi những chi
phí sự vụ. Do đó trong khi thi hành chức năng này, một mặt người ta chi phí sức lao động, mặt
khác người ta chi phí tư liệu lao động.
b - chi phí bảo quản.
Trong thời gian chờ lưu thông, do chịu các yếu tố ngoại cảnh, tự nhiên tư bản phải chịu
một khoản chi phí để bảo toàn nguyên vẹn hình thái tư bản của mình.
Chi phí này sinh ra trong thời gian dự trữ hàng hoá, nhà sản xuất bao giờ cũng chuẩn bị một

lượng hàng hoá nhất định, nếu thị trường cần họ sẽ có ngay sản phẩm để bán, nhằm chớp lấy
cơ hội thu lợi nhuận cao.
c - chi phí vận chuyển.
Tư bản hàng hoá không phải được tiêu thụ ngay ở nơi sản xuất ra nó mà nó đươc tiêu thụ ở
những nơi khác nhau của thị trường, tức là phải vận chuyển nó từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
thụ. Trong quá trình đó, nhà tư bản phải chịu lượng chi phí gọi là chi phí vận chuyển. Chi phí
vận chuyển nhiều hay ít phụ thuộc vào khoảng cách giữa thị trường với khu vực sản xuất.
B - Sự vận dụng của vấn đề tuần hoàn và chu chuyển tư bản ở Việt Nam .
I - Tình hình kinh tế Việt Nam trước và sau đổi mới.
1- Đặc điểm kinh tế- xã hội Việt Nam trước và sau năm 1986.
a. Trước năm 1986:
Nước ta bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, vẫn là một nước
nghèo kém phát triển.
Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, nhân dân ta đã đạt được
những thành tựu to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát
triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, mở mang khoa học, giáo dục, văn hoá


Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng nông nghiệp lạc hậu, còn nặng tính chất tự
cấp tự túc. Trang bị kĩ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế _ xã hội thấp kém. Cơ cấu kinh tế mất
cân đối nặng. Cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề. Nền
kinh tế rất kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, tích luỹ trong nước chưa đáng kể, còn lệ
thuộc nhiều vào bên ngoài.
Khủng hoảng kinh tế – xã hội kéo dài, lạm phát nghiêm trọng, sản xuất bấp bênh, thất
nghiệp tăng; tiền lương không đủ sống; trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm; tham
nhũng và nhiều tệ nạn xã hội khác lan rộng, công bằng xã hội bị vi phạm; nếp sống văn hoá
tinh thần và đạo đức bị xói mòn
Thực trạng trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả của nhiều năm chiến
tranh, song chủ yếu là do chúng ta đã phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan trong cải tạo XHCN trong tiến trình công nghiệp hoá và trong cơ chế quản lý kinh

tế. Những sai lầm đó cùng với sự trì trệ trong công tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lượng
sản xuất và triệt tiêu nhiều động lực phát triển.
b. Sau năm 1986:
Những quan điểm và chính sách đổi mới về kinh tế xã hội do Đại hội VI của Đảng đề ra
được cụ thể hoá và phát triển trong quá trình thực hiện, đặc biệt là những giải pháp tích cực từ
cuối 1988 đã đưa tới những thành tựu bước đầu rất quan trọng: hình thành nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần; xoá bỏ về cơ bản cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; bước đầu chuyển
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước; giảm tốc độ lạm phát; đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu lương thực, thực phẩmvà hàng tiêu dùng; tăng nhanh xuất khẩu và có bước
phát triển mới về kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên trong những năm đầu đổi mới, việc chuyển sang
cơ chế thị trường còn thiếu nhất quán, chưa đồng bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính tiền
tệ; quảnlý vĩ mô chưa thoát hẳn cơ chế cũ, lại buông lỏng nhiều mặt, bộ máy và đội ngũ cán
bộ chưa theo kịp yêu cầu mới.
Trong thời gian gần đây, do sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế
giới, nước ta cũng có những bước phát triển đáng kể, đời sống nhân dân được nâng cao; tình
hình kinh tế chính trị được ổn định Mặc dù thế nhưng nước ta vẫn đang đứng trước những
thử thách và khó khăn rất gay gắt.


2. Quan điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có
hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thiết lập trật tự, kỷ cương theo cơ chế
mới vừa là nội dung vừa là điều kiện để ra khỏi khủng hoảng, ổn định phát triển kinh tế xã hội.
Về thị trường: trực tiếp hướng dẫn các doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vức hoạt động, mặt
hàng, quy mô, công nghệ và hình thức tổ chức sản xuất khinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao
nhất trong môi trường hợp tác và cậnh tranh. Hình thành thị trường hoàn chỉnh, bao gồm cả
sức lao động, vốn và tiền tệ thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới.
Giá cả, tỉ giá hối đoái, lãi suất tín dụng hình thành theo cơ chế thị trường. Nhà nước dùng
các biện pháp kinh tế là chủ yếu để tác động đến cung câu trên thị trường, ổn định giá cả, có
chính sách bảo hiểm giá cho một số nông sản và hàng xuất khẩu

Tạo môi trường và điều kiện cho sự cạnh tranh hợp pháp và sự hợp tác liên doanh tự
nguyện, bình đẳng giữa các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong nước và ngoài nước.
Xoá bỏ độc quyền và đặc quyền ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế. Đối với những
trường hợp không thể tránh được độc quyền nhà nước có cơ chế kiểm soát để tránh lũng đoạn,
cửa quyền. Chấp nhận sự phá sản của những đơn vị làm ăn thua lỗ, ban hành luật phá sản.
chấp hành luật kinh doanh thông nhất, áp dụng các đơn vị đo lường và tiêu chuẩn chất lượng
thông nhất.
Nâng cao khả năng tiếp thị của các doanh nghiệp. Xây dựng các hiệp hội kinh doanh, tăng
cường phòng thương mại và công nghiệp làm đầu mối hỗ trợ quan hệ giao dịch giữa các nhà
kinh doanh trong và ngoài nước. Các cơ sở thương nghiệp, đặc biệt là thương nghiệp quốc
doanh làm tốt chức năng đại diện cho người tiêu dùng để đặt hàng cho người sản xuất, mở
rộng quan hệ hợp đồng. Tăng cường các bảo đảm pháp lý, kinh tế và tác động của dư luận xã
hội nhằm đề cao chữ tín trong kinh doanh chống hàng giả, đầu cơ buôn lậu.
3. Các chính sách của nhà nước:
a. Chính sách về vốn:
Quán triệt tinh thần vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng. Tiếp tục
đổi mớicác chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tài chính tiền tệ để thực hiện tốt việc tạo
vốn, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Xây dựng môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi, các


chính sách, luật lệ, quy chế rõ ràng và nhất quán, thực hiện nghiêm minh để mọi người yên
tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đơn giản hoá các thủ tục hnàh chính trong việc xin
phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuê đất quy hoach xây dựng sẵn nhữngcơ sở hạ tàng cần
thiết và những quy chế quản lý hành chính – kinh tế thích hợp ở những địa bàn chọn lọc để thu
hút nhanh đầu tư trong và ngoài nước, hinh thành những khu, cụm công nghiệp ở từng vùng,
từng địa phương.
Cải cách hệ thông thuế, tiếp tục xoá bao cấp, bù lỗ cho những hàng hoá dịch vụ như: điện,
nước, xăng dầu , tưng thu giảm chi tiến tới cân bằng thu chi.
Tích cực xây dựng thị trường vốn. Phát triển các hình thức huy động vốn bằng góp cổ
phần, bán cổ phiếu trái phiếu cho người đầu tư trong nước, thí điểm bán một phần ra thị

trường vôn quốc tế, từng bước hình thành thị trường chứng khoán.
ưu tiên cho đầu tư trực tiếp, nhất là từnhững công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có tầm cỡ
trên thế giới để tranh thủ chuyển giao công nghệ hiện đại, kyc năng quản lý điều hành tiên
tiến, mở lối thâm nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.
Quy định chặt chẽ về vay vốn và trả nợ, kể cả vay trong nước và ngoài nước. Đối với các
doanh nghiệp, áp dụng cơ chế tự ay , tự trả. Nhà nước có thể dành một phần vốn vay làm
nguồn tín dụng đầu tư trong nước, nhưng cần làm có trọng điểm và đều phải bảo đảm trả được
nợ.
b. Chính sách các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước trước hết là doanh nghiệp nhà nước phải củng cố đổi mới và phát triển,
nâng cao hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Ban hành luật doanh nghiệp nhà nước, luật hợp tác xã. thực hiện từng bước việc cổ phần
hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn, với mức tích
tụ, tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thé giới. Nhà nước thông qua luật
pháp và các chính sách tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho tư nhân yên tâm bỏ vốn đầu tư
vào sản xuất.





c. Chính sách thị trường
Nghiên cứu, thăm dò, dự báo, thông tin kịp thời về thị trường ngoài nước và các đối tác.
Đổi mới cơ cấu xuất khẩu, tạo ra những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn theo hướng khai
thác các lợi thế so sánh nhất là lợi thế về nguồn nhân lực.
Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu, nhất là về cấp cô-ta, giấy phép. Tổ chức tôt việc thu thập
và cung cấp thông tinh kinh tế, thị trường cho các cơ quan và doanh nghiệp trong nước.
Mở rộng thị trường, hình thành các trung tâm thương mại phù hợp để phục vụ đắc lực
công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá. Lập lại trật tự trên thị trường, hướng dẫn các thành
phần thương nghiệp phát triển đúng hướng, đúng pháp luật và cạnh tranh lành mạnh.

Thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước chủ yếu bằng cách tạo điều kiện và thúc đẩy
các cơ sở cản xuất vươn lên cạnh tranh được với hàng ngoại nhập trên thị trường.

II. Thực trạng các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay:
1. Thực trạng hoạt động doanh nghiệp
a- Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động
kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nhà nước.
Sự hình thành và phát triển các DNNN ở Việt Nam đã có lịch sử hơn 40 năm. trong nền kinh
tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, sự ra đời hàng loạt các DNNN, việc thực hiện
chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân với cơ chế quản lý tập trung quan liêu
bao cấp đã làm cho nền kinh tế dần dần trở thành moọt "công trường thống nhất" nhưng thiếu
sức sống, kém năng động, linh hoạt, hiệu quả kinh tế rất thấp.
Đầu những năm 80 là thời kỳ tìm tòi, lý giải những vấn đề kinh tế. Hiện thực đời sốngcho
thấy, nền kinh tế đã suy thoái các mâu thuẫn xuất hiện ở mọi nơi mọi chỗ trong khu vực kinh
tế quốc doanh và tập thể. Những quan điểm giáo điều về cải tạo XHCN đã cản trở những tìm
tòi đổi mới kinh tế mói chung đổi mới DNNN nói riêng. Các cuộc cải cách giá tiền lương(85 –
86) đã làm bộc lộ rõ tính bất hợp lý và sự yếu kém của cơ cấu và cơ chế kinh tế ở nước ta.
Nhận thức được sai lầm, trong đổi mới kinh tế cùng với chủ trương phát triển nhiều thành
phần kinh tế Đảng đã đặt vấn đề phải nhanh chóng tổ chức, sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc

×