Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Luận văn Đổi mới tổ chức, quản lý kinh doanh ở Điện lực Quảng Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.05 KB, 104 trang )




1




Luận văn
Đổi mới tổ chức, quản lý kinh
doanh ở Điện lực Quảng Nam



2

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điện lực Quảng Nam là đơn vị đại diện cho ngành điện kinh doanh điện
năng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, là một doanh nghiệp nhà nước nhưng
hạch toán phụ thuộc vào Công ty Điện lực 3 (PC3)-Tổng Công ty Điện lực
Việt Nam (EVN).
Tính chất kinh doanh điện năng của Điện lực, mang tính độc quyền tự
nhiên do Nhà nước qui định, nên tồn tại nhiều hạn chế trong việc phục vụ
khách hàng sử dụng điện. Hơn nữa, yếu tố kinh doanh điện năng còn gắn liền
với việc phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng; lại hạch
toán phụ thuộc (vào Công ty Điện lực 3), nên hoạt động kinh doanh ở trong
ngành điện nói chung và Điện lực Quảng Nam nói riêng chưa rõ ràng và đi
vào thực chất kinh doanh vì tư tưởng còn "trông chờ, ỷ lại, mang nặng tính
bao cấp" còn khá phổ biến đã ảnh hưởng nhất định và làm cho hiệu quả kinh
doanh của Điện lực Quảng Nam chưa thật sự là tốt.


Việc " Đổi mới tổ chức, quản lý kinh doanh ở Điện lực Quảng Nam ",
là tìm các giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh ở Điện lực Quảng Nam,
là phù hợp với xu thế đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 3 (khóa VIII) và là tìm chỗ đứng hợp lý cho Điện lực
Quảng Nam.
Do đó, nghiên cứu đề tài này là cần thiết cho Điện lực Quảng Nam trong
điều kiện thực tế hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu, tài liệu về nội dung đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo
tinh thần Nghị quyết 3 Trung ương (khóa VIII) tương đối nhiều, ở các góc độ
và chuyên ngành khác nhau.



3

Tuy nhiên, về loại hình doanh nghiệp điện năng - kinh doanh mang đặc
thù - thì phạm vi nghiên cứu này tương đối ít hơn. Có thể tham khảo cho việc
nghiên cứu đề tài này ở một số tài liệu sau:
- Luận văn thạc sĩ: Cải tiến kinh doanh của Công ty Điện lực thành phố
Hà Nội, của Trần Đức Hùng, 1996.
- Luận văn thạc sĩ: Đổi mới tổ chức quản lý kinh doanh bán điện trên địa
bàn quận (ở Điện lực Đống Đa), của Quách Thị Hằng, 1996.
- Một số đề tài nghiên cứu theo từng mảng công việc của cán bộ nghiệp
vụ Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, Trường Cao đẳng Điện lực.
Việc Cải tổ công nghiệp điện lực của các nước châu á của Thạc sĩ Phạm
Lê Phú- EVN, cho biết thêm các thông tin về kết quả đổi mới ngành điện của
các nước châu á đã đăng 2 kỳ trên Tạp chí Điện và Đời sống năm 2006.
Mặt khác, xu thế hội nhập, chủ trương sắp xếp lại tổ chức ngành điện và
lộ trình cổ phần hóa các Điện lực đã làm cho tình hình nghiên cứu mang tính

thực tiễn hơn. Do đó, việc nghiên cứu đối tượng cần bám sát thực tế và có giải
pháp linh hoạt hơn.
Ngoài ra, với sự động viên khuyến khích của các đồng nghiệp trong việc
tìm cách giải quyết áp lực xã hội “đòi đáp ứng nhu cầu”, "đòi xóa độc quyền"
của ngành điện là động cơ thúc đẩy cho tôi trong việc chọn lựa đề tài này, với
trách nhiệm là một người đang làm công tác quản lý ở Điện lực Quảng Nam.
Và, việc chọn đề tài này là hoàn toàn mới, chưa được ai nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác tổ chức, quản lý kinh doanh của
Điện lực Quảng Nam (thuộc Công ty Điện lực 3, Tổng Công ty Điện lực Việt
Nam).
Đối tượng nghiên cứu là một quá trình vận động đòi hỏi phải quan sát,
phân tích việc tổ chức và quản lý kinh doanh trong một thời gian nhất định.
Để có thể đi sâu và làm rõ, theo qui mô luận văn này, học viên sẽ cố gắng tập
trung ở phạm vi tổ chức, quản lý kinh doanh của Điện lực Quảng Nam trong



4

bối cảnh kinh doanh điện năng cả nước và tại tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó,
sẽ cố gắng đưa ra các giải pháp phù hợp cho việc đổi mới tổ chức, quản lý
kinh doanh ở Điện lực Quảng Nam.
- Số liệu phân tích thực trạng được lấy trong giai đoạn (1997 - 2005), có
dự kiến cho 2006, là thời gian từ khi Điện lực Quảng Nam thành lập đến
nay.
- Số liệu cho tương lai được dự báo cho giai đoạn (2006 - 2010), có xét
đến 2015, cũng là khung thời gian sử dụng phổ biến theo quy hoạch của công
nghiệp điện năng cho giai đoạn hiện nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ

Trên cơ sở kiến thức cơ bản đã tiếp thu được ở khóa Cao học Tại chức
miền Trung - Tây Nguyên (2004 - 2007) của Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh được tổ chức tại Đà Nẵng, cũng như kinh nghiệm công tác tại cơ
sở, học viên vận dụng các lý luận vào thực tiễn của nội dung về đổi mới tổ
chức, quản lý doanh nghiệp đối với Điện lực Quảng Nam.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản của việc tổ chức, quản lý kinh
doanh đối với ngành điện nói chung và đối với Điện lực Quảng Nam nói
riêng.
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng tổ chức, quản lý kinh doanh của Điện
lực Quảng Nam từ 1997 đến 2005.
- Từ đó, đưa ra các giải pháp hợp lý để đổi mới tổ chức, quản lý kinh
doanh Điện lực Quảng Nam theo xu thế cải thiện Pareto.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận được dựa trên các yếu tố cơ bản của:



5

+ Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới kinh tế ở Việt
Nam. Đặc biệt là yêu cầu đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
theo tinh thần của Nghị quyết TW 3, Khoá IX.
+ Chiến lược phát triển kinh doanh điện năng và tổ chức, sắp xếp các đơn
vị của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam.
+ Những kiến thức thu được qua khóa học và thực tiễn công tác quản lý
của bản thân học viên.
- Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, để thực hiện các nội dung
luận văn, học viên sử dụng phương pháp khảo sát, phân tích để đánh giá cho
đúng được thực trạng của tổ chức, quản lý kinh doanh Điện lực Quảng Nam.

Để chọn được giải pháp phù hợp cho việc đổi mới tổ chức, quản lý kinh
doanh của Điện lực Quảng Nam, học viên dùng phương pháp tổng hợp và dự
báo trên cơ sở thực chứng ở Điện lực Quảng Nam và bối cảnh chung của
ngành điện cả nước.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Phạm vi nghiên cứu và áp dụng đối với đề tài là công tác tổ chức, quản lý
kinh doanh của Điện lực Quảng Nam. Tuy nhiên, do tính thống nhất của
ngành điện về chức năng, nhiệm vụ kinh doanh, thì nội dung công tác tổ chức,
quản lý kinh doanh của một Điện lực gần như nhau ở 61 tỉnh thành trong toàn
quốc, nên có thể nghiên cứu áp dụng cho các Điện lực khác.
Về lý luận, học viên cố gắng tập hợp đầy đủ các chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới doanh nghiệp ngành điện.
Ngoài ra, còn xem xét kinh nghiệm về tổ chức, quản lý kinh doanh của các
Điện lực trong và ngoài nước ở khu vực châu á. Cho nên, cơ sở và lý luận lý
giải cho tổ chức, quản lý kinh doanh và yêu cầu đổi mới ở Điện lực có thể
phục vụ cho yêu cầu của công tác nghiên cứu khoa học không những ở cấp
Điện lực mà cả cho ngành điện.



6

Về thực tiễn, qua kinh nghiệm công tác 25 năm trong ngành điện và cơ sở
lý luận đầy đủ; đánh giá thực trạng xác thực, dự báo chặt chẽ thì các giải pháp
sẽ có tính khả thi cao.
Nói chung, việc áp dụng các nội dung của luận văn vào thực tế đổi mới
ngành điện, về mặt khoa học, có thể nên được ưu tiên xem xét.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về tổ chức, quản lý kinh doanh điện ở
Việt Nam
Chương 2: Thực trạng tổ chức, quản lý kinh doanh ở Điện lực Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức, quản lý kinh
doanh ở Điện lực Quảng Nam.
Chương 1
Một số vấn đề cơ bản về tổ chức, quản lý kinh doanh điện ở Việt Nam
1.1. Quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm, vai trò của ngành điện đối với
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Sự hình thành và phát triển ngành điện Việt Nam gắn liền với sự văn minh
hoá đô thị ở Việt Nam, đồng thời là tiền đề cho việc công nghiệp hoá và tạo
điều kiện cho các ngành khác phát triển. Đặc điểm của điện năng, do tính chất
sản phẩm qui định; từ sản xuất đến tiêu dùng gần như đồng thời, không có dự
trữ. Và vai trò của ngành điện thể hiện rõ ở việc cung cấp nguyên liệu đầu vào
của sản xuất và ở tính độc quyền tự nhiên Nhà nước.
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành điện ở Việt Nam
Công nghiệp điện ra đời ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, bắt đầu từ một số
xưởng phát điện hoạt động độc lập và cung cấp dòng một chiều. Thời bấy giờ,
điện chiếu sáng được ưu tiên trước điện động lực. Cho đến năm 1954, tổng



7

công suất nguồn điện toàn quốc mới đạt khoảng 100MW và một lưới hệ manh
mún với lưới truyền tải cao nhất là 30,5kV.
Từ năm 1954, sau ngày tiếp quản, điện mới được sử dụng rộng rãi hơn và trở
thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Thời kỳ 1961-
1965, ở miền Bắc công suất tăng bình quân 20% hằng năm. Cùng với một số nhà
máy điện được xây dựng dưới sự giúp đỡ của các nước XHCN; mạng lưới điện

35kV đến 110kV đã được xây dựng, nối liền các nhà máy điện và các trung tâm
phụ tải, hình thành nên hệ thống điện non trẻ của Việt Nam; với mức tăng công
suất đặt trung bình là 15%. Trong giai đoạn 1966 - 1975 do chiến tranh phá hoại
ác liệt nên mức tăng công suất đặt bình quân chỉ đạt 2,6%/ năm.
Giai đoạn 1975 - 1994, hệ thống điện được phát triển mạnh với việc đưa
vào vận hành một số nhà máy lớn với công nghệ tiên tiến như nhiệt điện Phả
Lại 440MW, thuỷ điện Trị An 420MW và đặc biệt là thuỷ điện Hoà Bình
1920MW Đồng bộ với các nguồn phát điện, hệ thống phát điện được phát
triển rộng khắp cả nước trên cơ sở đường trục là lưới điện 220kV.
Năm 1994, việc đưa vào vận hành hệ thống truyền tải 500kV đã đánh dấu
một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử phát triển của hệ thống điện Việt Nam.
Từ đây, Việt Nam đã có một hệ thống điện thống nhất trong toàn quốc, làm
tiền đề cho việc hỗ trợ năng lượng các miền sau này.
Năm 1995, thực hiện chủ trương cải cách cơ chế quản lý doanh nghiệp
nhà nước trong thời kỳ đổi mới, trên cơ sở quyết định 91/TTg ngày
07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng công ty Điện lực Việt Nam đã ra
đời, với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh điện trong phạm vi toàn
quốc. Đây là một sự kiện quan trọng đánh dấu bước chuyển đổi sâu sắc về tổ
chức quản lý, nâng cao tính chủ động trong sản xuất, kinh doanh, tạo tiền đề
cho sự phát triển ngành điện Việt Nam mạnh mẽ, năng động. ở mỗi tỉnh,
thành các Sở Điện lực, sau được đổi thành Điện lực thực hiện chức năng (sản



8

xuất) - kinh doanh điện năng; còn việc quản lý nhà nước về điện được chuyển
cho Sở Công nghiệp của tỉnh, thành đó.
Đến cuối năm 2005 tổng công suất đặt của toàn quốc là 13.000MW, tăng
trên 115 lần so với năm 1954. Về sản lượng điện tăng gấp hơn 1.000 lần so

với năm 1954. Hệ thống lưới điện truyền tải và phân phối đã trải rộng khắp
mọi miền tổ quốc.
Sự phát triển của ngành điện đã đáp ứng kịp thời, phục vụ đắc lực cho
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Về chỉ tiêu điện năng tính trên đầu người, năm 1965 mới đạt 30kWh/người/
năm, năm 1975 đạt 56,2kWh/người/năm, năm 1980 đạt 67,7kWh/người/năm,
năm 1985 đạt 85kWh/người/năm, năm 1995 là 198kWh/người/năm, thì đến
năm 2005 đã đạt trên 500kWh/người/năm.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trên, CBCNV ngành điện đã được
Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (năm 2004) [30].
1.1.2. Đặc điểm và tác dụng của sản phẩm điện năng
Sản phẩm điện năng của ngành điện là hàng hoá đặc biệt, là loại hàng hoá
không có hình thái vật chất cụ thể, không thể tách rời quá trình sản xuất với
quá trình tiêu dùng. Do tính chất sản phẩm quy định, sản phẩm điện năng từ
sản xuất đến tiêu dùng gần như xảy ra đồng thời, không dự trữ. Vì vậy, không
đem điện năng lúc thừa bù với khi thiếu hụt và việc hỏng hóc xảy ra ở một
nơi nào đó trong hệ thống điện cũng có thể gây nên mất điện một phần hay
toàn bộ hệ thống, gây thiệt hại cho ngành điện và các hộ dùng điện.
Điện năng không có hình thái vật chất cụ thể, nên quá trình mua - bán
điện được xác định sản lượng điện (kWh) qua công tơ điện. Nội dung này
được quy định và quản lý theo Pháp lệnh đo lường và Luật Điện lực.
Quá trình sản xuất và tiêu dùng xảy ra đồng thời, cho phép ngành điện
không cần kho dự trữ. Tuy nhiên, việc sử dụng điện thay đổi có độ chênh lệch



9

rất lớn giữa cao điểm và thấp điểm, giữa các mùa đã gây ra khó khăn rất lớn
trong điều hành hệ thống, đặc biệt là lúc thiếu nguồn cung cấp. Do đó, trong

quản lý ngành điện đòi hỏi tính thống nhất và đồng bộ rất cao.
Ngoài ra, sản phẩm điện năng có tính xã hội hoá rất cao, có tính định
hướng cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và gắn liền với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Do sản phẩm điện là sản phẩm trung gian, là yếu tố đầu vào
và đối tượng phục vụ rất rộng của các ngành, các vùng khu vực nên có tính xã
hội hoá cao và còn phải xác định kinh doanh gắn với phục vụ nữa. Do sản
phẩm điện là yếu tố đầu vào, cần phải có đủ, kịp thời cho sản xuất tiêu dùng
nên nó cần phải đi trước; và ngược lại sự tăng trưởng kinh tế - xã hội sẽ thúc
đẩy sự tăng trưởng điện năng.
Sản phẩm điện năng tuy kinh doanh trong cơ chế thị trường nhưng hiện
nay vẫn còn độc quyền về mặt Nhà nước và cung vẫn chưa đáp ứng cầu. Do
đó, biện pháp để chống những biểu hiện độc quyền và thường xuyên phải
tuyên truyền sử dụng điện tiết kiệm, hợp lý là những nhiệm vụ quan trọng của
Nhà nước và ngành điện.
Sản phẩm ngành điện không thực hiện cơ chế “kích cầu” tiêu dùng sản
phẩm, thiếu quảng bá, thiếu cạnh tranh làm cho hoạt động kinh doanh điện
năng kém linh hoạt và trong một thời gian dài nữa vẫn sẽ còn áp dụng phương
thức kinh doanh đi đôi với dịch vụ công cộng và phúc lợi xã hội. Không có
đối thủ cạnh tranh, không có đầu cơ, tích trữ nên giá cả ổn định và theo quy
định thống nhất của Nhà nước (trong từng giai đoạn).
Sản phẩm điện là sản phẩm vô hình, vận chuyển trên hệ thống lưới và
thiết bị phân phối định sẵn, không thể cải tiến mẫu mã sản phẩm mà chỉ cải
tiến phong cách phục vụ khách hàng và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Vì điện năng là một dạng năng lượng quan trọng, tạo ra động lực cho
tất cả các thành phần kinh tế nên cần phải đảm bảo an toàn nghiêm ngặt



10
trong tất cả các khâu công việc, từ sản xuất - truyền tải - đến phân phối. Và

khi có vi phạm an toàn về điện, thì sẽ không còn có cơ hội để sửa chữa
hoặc rút kinh nghiệm.
Như vậy, sản phẩm điện năng là một loại hàng hoá đặc thù, là động lực
thúc đẩy phát triển sản xuất và đời sống xã hội, nhất là trong điều kiện hiện
nay Nhà nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Điện không thể tích trữ được trong kho như các loại hàng hoá khác, đặc
thù này dẫn đến những đặc điểm riêng của hoạt động sản xuất kinh doanh
điện. Sản xuất và tiêu thụ điện năng xảy ra đồng thời, có sự ràng buộc chặt
chẽ với nhau. Quá trình giao dịch mua bán điện trên thị trường điện lực rất
phức tạp, nó không chỉ có mối quan hệ với lĩnh vực thương mại, tài chính mà
còn có mối quan hệ trực tiếp với quá trình sản xuất, tiêu thụ, công nghệ, thông
tin liên lạc, xã hội và an ninh quốc phòng nữa.
1.1.3. Vai trò của ngành điện đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước
Ngành điện là một ngành kinh tế - kỹ thuật có vị trí, vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước; là
một yếu tố của kết cấu hạ tầng cơ bản (điện- đường- trường- trạm) để thúc
đẩy phát triển kinh tế, cải thiện đời sống xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Vai trò của ngành điện thể hiện rõ ở việc cung cấp nguyên liêu đầu vào
của sản xuất và ở tính độc quyền tự nhiên Nhà nước. Sản phẩm được sản xuất
tại các nhà máy điện trên ba miền, nhưng được tiêu dùng cho nhiều nơi, nhiều
mục đích, nhiều loại khách hàng và được vận chuyển trên một loại phương
tiện đặc biệt, liên kết trong một hệ thống quy trình khép kín là hệ thống lưới
điện quốc gia. Do đó sự thống nhất và phụ thuộc vào nhau rất nhiều; hỗ trợ



11
nguồn điện giữa các khu vực với nhau, nhưng một sự cố trên lưới quốc gia thì
có thể ảnh hưởng đến toàn quốc.

Ngành điện có tác động trực tiếp đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, tới sự
phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng đời sống cũng như sự an toàn về tính mạng của
những người sử dụng điện. Vai trò đối với sự phát triển kinh tế - xã hội thể
hiện bởi: một là, đảm bảo năng lượng điện cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ
và các hoạt động khác; hai là, tác động mạnh đến việc đẩy nhanh tốc độ, quá
trình tái sản xuất, góp phần rút ngắn chu kỳ sản xuất và giảm bớt một cách
tương ứng chi phí để sản xuất một đơn vị sản phẩm.
Như vậy, ngành điện có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của các
quốc gia; đồng thời góp phần rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động
của từng đơn vị kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển
của ngành điện là một trong những điều kiện vật chất quan trọng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội. Đồng thời kết quả sự phát triển đó của ngành điện làm
cơ sở cho việc đánh giá trình độ phát triển của một đất nước, thông qua chỉ
tiêu sản lượng điện tiêu dùng bình quân của một người dân trong một năm (số
kWh/ người/năm).
Trong thời gian đến, ngành điện Việt Nam cần nâng cao hơn nữa vai trò đi
trước của mình trong việc đáp ứng nhu cầu điện năng phục vụ cho sản xuất,
quốc phòng và đời sống của nhân dân; đặc biệt là cung cấp điện kịp thời cho
sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, phục vụ tốt hơn nữa cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.2. Nội dung, đặc điểm tổ chức, quản lý kinh doanh điện ở nước ta



12
1.2.1. Nội dung tổ chức, quản lý kinh doanh điện ở nước ta
Kinh doanh điện năng là ngành kinh doanh cung cấp năng lượng điện
nhằm phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng; là
một trong những yếu tố đầu vào của sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng của xã hội.

Kinh doanh điện năng là loại hình kinh doanh đặc thù, vì tác động rất lớn
đến nền kinh tế quốc dân cho nên bị quản lý rất chặt chẻ bởi tiêu chuẩn sản phẩm
điện năng, khung giá bán điện thống nhất và tổ chức hoạt động. Ngoài ra, tính
chất hoạt động kinh doanh còn mang nặng tính xã hội hay mang yếu tố phục vụ -
là một yếu tố khác biệt so với các ngành kinh doanh thông thường khác.
Do đó, công tác tổ chức, quản lý kinh doanh điện năng có tính hệ thống,
có sự thống nhất rất cao và cơ bản giống nhau trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Các nội dung cơ bản của kinh doanh điện năng bao gồm:
- Lập kế hoạch kinh doanh: Trên cơ sở yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước hay từng địa phương, theo phương pháp dự báo mức yêu cầu
dùng điện gia tăng theo từng thành phần kinh tế, từng khu vực mà lập nên kế
hoạch kinh doanh năm sau (hay 5 năm). Kế hoạch được lập theo các chỉ tiêu
chính là: sản lượng điện năng thương phẩm(kWh), doanh thu(VNĐ) theo một
số thành phần cơ bản (Công nghiệp, Dịch vụ, Nông nghiệp và ánh sáng sinh
hoạt); một số chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật cơ bản khác như tỉ lệ điện năng dùng
cho phân phối, tỉ lệ điện tự dùng, suất tiêu hao nhiên liệu cho phát điện; đầu
tư xây dựng; lao động và chi phí.
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho nguồn - lưới: Việc sử dụng điện tăng
lên mỗi năm, cần thiết phải tăng cường năng lực của nguồn điện và hệ thống
điện truyền tải - phân phối. Chính vì vậy, cần thiết phải tính toán để đầu tư
xây dựng thêm nguồn điện mới (hay phải mua điện từ các nguồn bên ngoài),
cần cải tạo nâng cấp lưới điện hiện có như thế nào hay phải xây dựng thêm
lưới điện cho các phụ tải điện mới.



13
Việc đầu tư xây dựng nguồn - lưới, ngoài việc phải đảm bảo theo trình tự
đầu tư xây dựng, cần phải đáp ứng kịp thời nhu cầu dùng điện của khách hàng
sử dụng điện và hiệu quả của việc đầu tư xây dựng. Đây là công việc khó

khăn, yêu cầu phải quản lý chặt chẽ và khoa học. Và đây là cơ sở vật chất kỹ
thuật then chốt để đảm bảo việc cung cấp sản phẩm điện năng có chất lượng
đến khách hàng dùng điện đi kèm với yêu cầu nghiêm ngặt của công tác quản
lý kỹ thuật của chuyên ngành.
- Phát triển khách hàng và hợp đồng mua bán điện:
Việc phát triển khách hàng và hợp đồng mua bán điện được thực hiện theo
qui trình kinh doanh điện năng của ngành. Tuy có thuận lợi trong môi trường
độc quyền 1 người bán (là cơ bản), không phải cạnh tranh, không phải quảng
bá nhiều, nhưng bị khống chế "độc quyền". Qui trình phát triển và hợp đồng
mua bán điện hiện hành được quy định khá chặt chẽ theo Luật Điện lực
nhưng có nhiều đổi mới nhằm tạo nhiều thuận lợi hơn cho khách hàng dùng
điện và tránh sự lạm quyền của bộ phận thừa hành của ngành điện.
Các quy trình kinh doanh điện năng được công khai để cho mọi khách
hàng sử dụng điện có thể giám sát việc thực hiện của ngành điện, theo quan
điểm nâng cao dịch vụ khách hàng và đảm bảo phù hợp với Luật Điện lực
quy định.
- Bán và thu tiền điện: Trình tự bán và thu tiền điện cũng được quy định
chặt chẽ bởi Luật Điện lực và quy trình kinh doanh điện năng. Đây là cung
đoạn cuối của quy trình kinh doanh. Việc tính toán sản lượng điện mua - bán
thông qua công tơ điện được quản lý giám sát chặt chẽ; hoá đơn tiền điện
hàng tháng được tính toán theo sản lượng và các loại giá điện thành phần.
Nhưng thường còn có nhiều thắc mắc của khách hàng sử dụng điện ở loại giá
bán điện và thời gian thu tiền điện.



14
- Kiểm tra, kiểm soát theo quy định kinh doanh điện năng: Chính là để
điều chỉnh kịp thời các sai sót trong quá trình kinh doanh điện năng - đặc biệt
là tuân thủ theo đúng Luật Điện lực. Việc kiểm tra kiểm soát các nội dung

thực hiện theo quy định kinh doanh điện năng của các đơn vị luôn được ngành
điện quan tâm và duy trì theo định kỳ hay đột xuất. Mọi thắc mắc của khách
hàng sử dụng điện phải được kiểm tra trả lời kịp thời, đồng thời báo cáo lên
cấp trên. Mọi sai phạm quy trình kinh doanh điện năng đều được xem xét xử
lý, tuỳ theo mức nặng hay nhẹ.
1.2.2. Đặc điểm tổ chức, quản lý kinh doanh điện ở nước ta
1.2.2.1. Về tổ chức kinh doanh điện ở nước ta
Kinh doanh điện năng ở nước ta là một hoạt động kinh doanh đặc thù.
Theo Luật Điện lực - 2005, việc tổ chức kinh doanh điện năng đòi hỏi tổ chức
đó phải có đủ năng lực trong hoạt động điện năng, có đủ phương tiện (đường
dây, công tơ) để mua - bán điện và bị ràng buộc chặt chẽ bởi giá bán điện
thống nhất trên toàn quốc. Do đặc thù lịch sử của phát triển điện, thực tế cho
thấy có rất ít loại hình và tổ chức kinh doanh điện. Hiện nay ở nước ta ngoài
ngành điện, cơ bản có các tổ chức kinh doanh điện đa số ở nông thôn đang
hoạt động theo luật công ty hay luật hợp tác xã.
Do đó, kinh doanh điện vừa mang tính thống nhất rất cao, lại vừa bị phụ
thuộc rất lớn bởi “cơ chế đặc thù” nên tính chủ động của cơ sở trong tổ chức
kinh doanh điện rất thấp. Mặt khác, đối tượng của kinh doanh điện rất rộng:
với nhiều thành phần trong xã hội, từ thành thị đến tận nông thôn - miền núi,
không kể giàu nghèo Với quan điểm “bù chéo” của Nhà nước theo giá điện
từ các đối tượng thu nhập cao cho các đối tượng có thu nhập thấp trong xã
hội, nên kinh doanh điện cũn mang tính phục vụ nên hoạt động của các tổ
chức kinh doanh điện có hình thức như sự nghiệp hay công ích.



15
Ngoài ra, việc kinh doanh điện bị ràng buộc bởi vấn đề an toàn điện
(trong mua - bán điện) theo các quy định nghiêm ngặt về kỹ thuật an toàn
điện.

1.2.2.2. Về quản lý kinh doanh điện ở nước ta
Việc quản lý kinh doanh điện phụ thuộc tương đối lớn bởi nguyên tắc tổ
chức kinh doanh điện. Việc quản lý kinh doanh điện có tính nguyên tắc cao vì
bị chi phối và ràng buộc chặt chẽ bởi Luật Điện lực-2005.
Đối với EVN, việc quản lý kinh doanh điện năng được quy định cụ thể
theo Quy trình kinh doanh điện năng thống nhất trong toàn quốc.
Do tính thống nhất và phụ thuộc của tổ chức kinh doanh điện đó làm cho
việc quản lý kinh doanh điện ở nước ta còn nặng tính hành chính và kế hoạch
hoá. Việc cung cấp điện trước, ghi chữ thu tiền sau khi mức dùng điện của
khách hàng thay đổi từng tháng sẽ làm cho việc phân tích, cân đối về tài chính
ảnh hưởng nhất định.
Yếu tố phục vụ cho chính trị - xã hội trong kinh doanh điện cũng chi phối
nhất định đến việc quản lý và hiệu quả kinh doanh ở mỗi địa phương. Thường
các trường hợp này chi phí đầu tư lớn, doanh thu thấp nên thường không có
hiệu quả. Nói một cách khác, việc quản lý kinh doanh điện năng chịu sự tác
động nhất định bởi các yếu tố chính trị - xã hội và sự phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi địa phương.
Chính yếu tố kế hoạch hoá và tính ràng buộc hành chính trong kinh doanh
điện đã làm “lu mờ” sức sáng tạo của đội ngũ làm công tác kinh doanh điện
năng. Điểm yếu kém do độc quyền bán gây nên, nặng nề nhất là thiếu quan
tâm đến khách hàng sử dụng điện. Đó là những vấn đề lớn cần thiết phải đổi
mới công tác kinh doanh điện năng ở nước ta.
1.2.3. Các tổ chức kinh doanh điện ở nước ta



16
Theo luật Điện lực-2005 hiện hành, sau khi củng cố và sắp xếp lại, ngoài
các đơn vị của Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN), còn có một số đơn vị
dạng công ty hay hợp tác xã - nhưng tỷ trọng và qui mô không lớn.

1.2.3.1. Các tổ chức của EVN [29]
+ Tổ chức EVN bao gồm 3 khối chính:
Khối nhà máy điện:
Tính đến 01/01/2005, EVN sở hữu và quản lý 14 nhà máy điện với tổng
công suất 8.516 MW, chiếm 86,36% công suất đặt toàn hệ thống, sản lượng
điện sản xuất năm 2004 đạt 39,9 tỷ kWh, chiếm 86,43% lượng điện sản xuất
toàn hệ thống.
Theo lộ trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp đến cuối năm 2005 EVN đã
thực hiện CPH Nhà máy thuỷ điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh, chuyển sang mô
hình công ty TNHH NN MTV nhiệt điện Cần Thơ và chuyển sang mô hình
công ty thành viên hạch toán độc lập 7 nhà máy điện khác. Hiện nay đang
thực hiện CPH Công ty nhiệt điện Phả Lại và Công ty thuỷ điện Thác Bà.
Khối truyền tải điện:
Khối truyền tải điện bao gồm 4 Công ty truyền tải điện 1,2,3 và 4 hạch
toán phụ thuộc vào EVN; có trách nhiệm quản lý vận hành, bảo dưỡng, sửa
chữa lưới điện truyền tải cấp điện áp 500kV, 220kV và một phần lưới điện
110kV. Địa bàn quản lý của các công ty truyền tải được phân chia theo vùng.
Xu thế cùng với Điều độ là Công ty do Nhà nước chi phối 100% vốn.
Điều độ có nhiệm vụ điều hành hoạt động của hệ thống điện quốc gia, là một
đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc EVN. Trung tâm điều độ hệ thống điện
quốc gia có 3 Trung tâm điều độ miền điều độ lưới điện khu vực từng miền.
Khối Công ty điện lực:
EVN hiện có 10 Công ty điện lực có chức năng chính là phân phối và kinh
doanh điện năng; quản lý phân phối điện đến cấp điện áp 110kV; mua điện đầu



17
nguồn theo giá bán nội bộ của EVN và bán điện cho khách hàng theo giá của
Thủ tướng Chính phủ. Mô hình tổ chức của các Công ty điện lực có thể chia:

- Khối các Công ty điện lực miền bao gồm Công ty điện lực 1, 2 và 3 là
các Công ty hạch toán độc lập. Các Công ty điện lực miền có các Điện lực
tỉnh hạch toán phụ thuộc, hoạt động phân phối, kinh doanh điện năng tại
các tỉnh.
- Khối các Công ty Điện lực tỉnh, thành phố hạch toán độc lập gồm: Công
ty Điện lực TP hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đồng Nai.
- Khối các Công ty TNHH NN MTV, CP Điện lực bao gồm Ninh Bình,
Hải Dương, Khánh Hoà, Đà nẵng.
Ngoài ra, còn có các đơn vị cơ khí, xây dựng, viễn thông, tư vấn - đào tạo
và dịch vụ - hậu cần khác trực thuộc các Công ty hay EVN.
Điện lực là đơn vị trực thuộc Công ty Điện lực miền, trong khối phân phối
và kinh doanh điện năng của EVN; quản lý kinh doanh điện năng trên địa bàn
một tỉnh. Theo uỷ quyền của Giám đốc Công ty Điện lực miền, Giám đốc các
Điện lực có trách nhiệm tổ chức, quản lý và cung ứng điện năng đầy đủ để
phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Mô hình của mỗi Điện lực thường biên chế thành 3 khối nhỏ:
+ Khối văn phòng (gồm các phòng chức năng chuyên môn).
+ Khối Chi nhánh điện - là đơn vị trực tiếp giao tiếp với khách hàng dùng
điện, quản lý theo địa bàn huyện hay liên huyện.
+ Khối phụ trợ, hậu cần.
1.2.3.2. Các tổ chức kinh doanh điện năng khác
Theo Luật Điện lực (2005), thì ngoài các Điện lực của Tổng Công ty Điện
lực, còn có các tổ chức kinh doanh điện năng khác theo các hình thức:
+ Các Công ty Điện địa phương, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
+ Các hợp tác xã, hoạt động theo Luật Hợp tác xã.



18
Tuy nhiên, tỷ lệ thị phần của các loại hình này không lớn và đa số hoạt

động dưới dạng bán lẻ ở khu vực nông thôn.
1.2.3.3. Các tổ chức kinh doanh điện năng trên địa bàn Quảng Nam
Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, sau khi thực hiện Luật Điện lực và chuyển
đổi mô hình quản lý điện nông thôn, có các tổ chức kinh doanh điện năng là:
+ Ngành điện (EVN): Đại diện là Điện lực Quảng Nam.
+ Công ty Đầu tư và Phát triển cơ sở hạ tầng Quảng Nam, hoạt động theo
luật doanh nghiệp. Dưới công ty có các xí nghiệp tại các huyện (một số lớn
các huyện các xí nghiệp này trước đây là các Ban quản lý điện của huyện).
+ Các hợp tác xã, có 64 đơn vị, hoạt động theo luật hợp tác xã.
+ Nhóm đại diện cho tổ chức hay nhân dân
Hiện nay Điện lực Quảng Nam vừa bán buôn, vừa bán lẻ đến người sử
dụng điện - là tổ chức cơ bản chi phối kinh doanh điện năng trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam theo sự uỷ thác của EVN, thông qua Công ty Điện lực 3 (PC3).
Phần bán buôn, Điện lực Quảng Nam bán cho các tổ chức khác (theo lịch sử
để lại) để bán lẻ cho các hộ sử dụng điện ánh sáng sinh hoạt ở nông thôn là
chính. Quản lý kinh doanh của Điện lực Quảng Nam còn mang nhiều yếu tố
kinh doanh gắn liền với phục vụ với các phụ tải cơ bản là nông nghiệp - nông
thôn; còn phụ tải tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề quy
mô còn nhỏ so với tiềm năng; phụ tải ánh sáng đô thị và dịch vụ còn thấp.
Công ty Đầu tư và Phát triển cơ sở hạ tầng Quảng Nam, được thành lập để
quản lý và kinh doanh điện trên phần lưới điện hạ thế ở nông thôn do tỉnh đầu
tư (vay của OPEC), sau đó có tiếp nhận một số Ban quản lý điện tại các huyện
trung du và miền núi.
Các hợp tác xã nông nghiệp hay dịch vụ, do lịch sử để lại, tiếp tục quản lý và
kinh doanh điện trên phần lưới điện hạ thế do nhân dân hay hợp tác xã đầu tư.



19
Một số tổ chức hay đại diện nhân dân không nhiều và qui mô nhỏ lẻ,

đứng ra mua điện của ngành điện bán lẻ lại cho nhóm hộ thường dưới 50 hộ.
Giá điện được quy định theo biểu giá thống nhất toàn quốc. Giá bán lẻ
ngành điện cho ánh sáng sinh hoạt theo giá bậc thang. Các tổ chức khác mua
điện theo giá bán buôn và bán lẻ theo giá trần do Chính phủ quy định, hiện
nay là 700đ/ kWh.
Cơ cấu phần bán lẻ ánh sáng sinh hoạt năm 2005 theo sản lượng (kWh) là
57,22% trên tổng sản lượng thương phẩm. Trong đó, Điện lực Quảng Nam
bán lẻ trực tiếp theo giá bậc thang là 35%, còn lại là các tổ chức khác là 65%
theo giá trần. Xu thế, Điện lực đang mở rộng thị phần bán lẻ trực tiếp đến hộ
theo giá bậc thang.
1.2.4. Các vấn đề bức xúc về tổ chức, quản lý kinh doanh điện ở nước
ta hiện nay
Quá trình đổi mới đất nước thời gian qua, đã có tốc độ tăng trưởng GDP
gần 8%/năm - là khá cao so với thế giới. Chính việc tăng trưởng cao đó, đòi
hỏi ngành điện với vai trò là ngành đi trước phải đáp ứng được mức tăng
trưởng gấp đôi là khoảng 16% về sản lượng điện cung ứng, trong khi dự báo
trong chiến lược phát triển giai đoạn 2000-2010 mức tối đa là 15%. Đó chính
là sự phát sinh nhu cầu điện năng vượt ngoài dự kiến, có khả năng sẽ thiếu
điện gây bức xúc đối với xã hội và khó khăn cho ngành điện.
Để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng cao đột biến đó, đòi hỏi ngành điện phải
tăng cường và thúc đẩy tiến độ các dự án nguồn và lưới điện. Tuy nhiên, thực
tế vẫn không đáp ứng đủ các nhu cầu dùng điện cho đất nước. Năm 2005,
thiếu nguồn cho miền Bắc vào mùa nắng nóng, có lúc vào cao điểm phải sa
thải phụ tải lên đến 400MW, chiếm 15% tổng phụ tải. Năm 2006, phải mua
thêm các nguồn điện từ Trung quốc về và của một số nguồn điện khác với giá



20
cao, nhưng vào một vài thời điểm vẫn còn phải khống chế phụ tải. Năm 2007

và vài năm tới, khả năng thiếu điện có thể xảy ra.
Hiện nay, sau hơn 4 năm giá điện vẫn chưa được điều chỉnh tăng giá trong
khi giá cả đầu vào (đa số nhập khẩu: thiết bị, kim loại màu, dầu, khí, than ),
giá ngoại tệ (nguồn vốn vay) tăng mạnh là khó khăn lớn cho ngành điện về
mặt tài chính. Mặt khác, chính việc không tăng giá điện nên không thể thu hút
được nhiều nhà đầu tư vào nguồn điện để chia sẻ việc thiếu nguồn hiện nay,
sẽ càng làm tăng thêm áp lực đầu tư và vốn đầu tư hiện nay cho ngành điện.
Đầu năm 2007, giá điện tăng bình quân là 7,6%; tuy nhiên vẫn chưa giải
quyết được vấn đề tài chính của ngành điện. Việc cổ phần hoá mảng phân
phối, do tỉ lệ bán điện ánh sáng ở nông thôn còn khá cao với giá thấp cũng
không thu hút được người mua cổ phần , nên đã không thực hiện được theo
đúng lộ trình.
Về mặt kinh doanh, với việc kinh doanh và phục vụ không rõ ràng, Luật
Điện lực - 2005 chưa sát với điều kiện kinh doanh hiện nay của ngành điện,
hướng dẫn và quản lý nhà nước chưa cụ thể cũng tạo áp lực, khó khăn nhất
định cho ngành điện. Bên cạnh đó xu thế chống độc quyền, yêu cầu tăng
cường chất lượng điện và đòi hỏi được phục vụ cao hơn trong điều kiện khó
khăn hiện nay luôn là sức ép buộc ngành điện phải tự vươn lên và đổi mới.
1.3. Xu thế đổi mới tổ chức, kinh doanh ngành điện ở nước ta
1.3.1 Tính tất yếu phải đổi mới tổ chức, kinh doanh ngành điện ở nước ta
Xu thế hội nhập, tự do cạnh tranh trong kinh doanh và đổi mới nâng cao
năng lực hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước - theo tinh thần Nghị
quyết TW3, khoá IX … là những yếu tố cơ bản đòi hỏi phải đổi mới tổ chức,
kinh doanh của ngành điện ở nước ta, là tính tất yếu.



21
Nội dung chính để đổi mới tổ chức, quản lý kinh doanh điện năng ngành
điện gồm:

- Kinh doanh điện năng do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ là cơ bản, cần
phải đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.
- Kinh doanh điện năng là ngành độc quyền tự nhiên, cần phải đổi mới để
chống độc quyền. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước độc quyền tự nhiên bằng
việc tách ngành độc quyền tự nhiên thành nhiều mảng, nhiều công đoạn và áp
dụng cơ chế cạnh tranh ở các công đoạn không còn tính chất độc quyền tự
nhiên. Đó là việc cổ phần hóa các đơn vị ngành điện lực.
- Luật hóa quan hệ kinh doanh điện năng; làm rõ trách nhiệm trong mua -
bán điện.
- Để ngành điện đủ mạnh, xây dựng thành tổ chức Tập đoàn; cần nâng cao
năng lực và đủ sức cạnh tranh đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
- Thực tế để giải quyết “mảng công ích” của phần kinh doanh điện mang
tính phục vụ như Bưu chính, cần xây dựng Quỹ Công ích Điện lực.
1.3.2. Một số kinh nghiệm để đổi mới tổ chức, quản lý kinh doanh
điện năng
1.3.2.1. Kinh nghiệm trong nước
Kinh nghiệm tổ chức kinh doanh điện năng ở các Điện lực khác ở Công ty
Điện lực Hà nội và Công ty Điện lực 3, là sự cần thiết để xem xét áp dụng cho
việc đổi mới tổ chức, quản lý kinh doanh điện ở Điện lực Quảng Nam.
Các Điện lực ở Công ty Điện lực Hà nội nêu ra kinh nghiệm là: cần tăng
cường việc quản lý, vận hành an toàn lưới điện, xử lý nhanh sự cố; cần hoàn
thiện tổ chức kinh doanh bán điện, tăng cường kiểm tra khách hàng mua điện;
thực hiện tốt tỉ lệ điện năng dùng để chuyên tải và phân phối; gắn quy hoạch



22
phát triển điện gắn với phát triển Thủ đô và coi trọng việc củng cố đội ngũ
CNVC [21].

Các kinh nghiệm trên được giải thích và đưa ra một số nội dung mang tính
định hướng. Việc tăng cường quản lý vận hành lưới điện gắn chặt với việc
thực hiện tốt chế độ kiểm tra, duy tu bảo dưỡng, thí nghiệm định kỳ được quy
định ở các quy trình kỹ thuật nhằm đảm bảo cho việc cung cấp điện được an
toàn, liên tục và chất lượng hơn. Tổ chức kinh doanh hiện nay còn nhiều tồn
tại, chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh; còn nhiều khâu chưa đồng bộ,
chưa hiệu quả cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện. Giá điện ở Việt Nam còn
thấp so với khu vực, có nhiều loại giá mang tính điều hoà trong nền kinh tế
nên việc thực hiện mua bán điện cần phải được chặt chẽ và đúng đối tượng.
Chỉ tiêu tỉ lệ điện dùng để chuyên tải và phân phối gắn liền với chi phí và còn
được coi là yếu tố để đánh giá năng lực quản lý, do đó cần phải tập trung làm
tốt. Việc đầu tư cải tạo nâng cấp lưới điện để phục vụ cho yêu cầu phát triển
cần phải gắn với sự phát triển của Thủ đô Hà nội. Và để làm tốt các nội dung
trên cần phải có con người, cần bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ tương xứng.
Tương tự, các Điện lực ở Công ty Điện lực 3 nêu ra kinh nghiệm là: thực
hiện tốt công tác quản lý vận hành chi nhánh mẫu; thực hiện tốt quy trình kinh
doanh và quy trình giao tiếp với khách hàng; phát động thi đua thực hiện tốt
các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật và từng bước nâng cao dịch vụ khách hàng.
Những kinh nghiệm ở Công ty Điện lực 3 mang tính khái quát và nguyên
tắc cao, bao hàm từ chủ trương đến biện pháp. Đây cũng là kinh nghiệm có sự
đóng góp của Điện lực Quảng Nam, dưới sự lãnh đạo điều hành của Công ty
Điện lực 3 trong thời gian qua.
Ngoài ra, các Điện lực trong toàn EVN đều chú trọng đến việc đưa công
nghệ mới, đặt biệt là tin học, vào công tác kinh doanh nhằm tăng năng suất
lao động và phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý.



23
1.3.2.2. Kinh nghiệm đổi mới của các tổ chức, quản lý kinh doanh

ngành điện ở nước ngoài
Dưới góc độ vĩ mô, trào lưu đổi mới ngành điện thập niên 80-90 là rất
mạnh và diễn ra ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tiến trình đổi mới có
những chiến lược và mức độ đồng đều không giống nhau do đặc điểm riêng
của mỗi nước.
Xét về chiến lược, hướng đổi mới là tư nhân hoá ngành điện là cơ bản
thống nhất thì điều kiện và môi trường cho việc triển khai là khác nhau giữa
châu á với châu Âu và Mỹ. Về nguyên nhân, châu Âu và Mỹ lấy mục tiêu
chính là tăng hiệu quả bởi việc giảm điều tiết và tạo cạnh tranh, trong khi
châu á là giảm gánh nặng đầu tư của Chính phủ; nên các nước châu á sẽ đẩy
mạnh đầu tư tư nhân hơn là cạnh tranh.
Mặt khác, các nước đang phát triển ở châu á tích cực cải tổ ngành điện là
do áp lực lớn từ các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB)
và Ngân hàng Phát triển châu á (ADB), như là một điều kiện vay vốn. Các nội
dung yêu cầu cơ bản của cải tổ là: xây dựng và phát triển thị trường điện, tăng
cường hiệu quả hoạt động và tăng tính minh bạch để tạo điều kiện cung cấp
điện chất lượng cao với giá rẻ, áp lực này với nội dung ràng buộc khá chặt chẽ
là cần thiết về lâu dài; nhưng dường như không thích hợp với các nước châu
á, vì điều kiện riêng biệt của mỗi nước về nền kinh tế, tài chính, môi trường
kinh doanh, tình hình chính trị và đặc điểm văn hoá của mỗi nước. Do đó,
việc cải tổ trong điều kiện sức ép lớn như vậy đối với các nước châu á thì khả
năng thành công thấp.
Theo số liệu nghiên cứu quá trình cải tổ 18 quốc gia châu á của Thạc sĩ
Phạm Lê Phú [26] theo 3 nội dung: điều tiết, cạnh tranh hoá và tư nhân hoá,
và phân tích theo các phần tử chính của số liệu 2004 thì Việt Nam nằm trong
nhóm 2 trong 4 nhóm, gồm: Thái lan, Indonesia, Pakistan, ấn Độ, Việt Nam



24

và Đài loan. Đây là những nước đã bắt đầu triển khai việc cải tổ ngành điện,
đã hoàn thành quá trình công ty hoá, kế hoạch cải tổ đã được xác định và tiếp
tục đẩy mạnh các năm tới.
Bốn nhóm nước phản ảnh sự khác biệt về tình trạng cải tổ hiện tại, đồng
thời phản ảnh sự khác biệt về mô hình lựa chọn của mỗi nước:
- Nhóm 1 (gồm Nepan, Sri Lanka, Lào, Campuchia và Bangladesh) có
mức độ cạnh tranh, tư nhân hoá và điều tiết đều thấp.
- Nhóm 2 bắt đầu có kinh nghiệm về cải tổ, hầu hết đã xây dựng các
khung pháp lý và có kế hoạch cụ thể cho quá trình cải tổ tiếp theo.
- Nhóm 3 (gồm Nhật bản, Hồng công) có mức độ tư nhân hoá rất cao
trong khi mức độ cạnh tranh và giảm điều tiết thấp.
- Nhóm 4 (gồm Singapore, Malaysia, Hàn quốc, Philippines và Trung
quốc) có mức cải tổ tương đối cao, đặc biệt là phát triển môi trường cạnh
tranh và xây dựng cơ quan điều tiết đầy đủ quyền lực.
Như vậy, tính chất cải tổ của mỗi nhóm quốc gia có khác nhau nên việc
học tập kinh nghiệm rất khó khăn và cần phải chọn lọc; nên chú ý đến các
quốc gia cùng nhóm và xu thế của phát triển ở nhóm 3 và nhóm 4. Cần tăng
cường việc thu hút đầu tư tư nhân lớn, kể cả từ các công ty đa quốc gia để giải
quyết nạn thiếu điện. Cần tập trung giải quyết hai vấn đề mấu chốt đã bóp
méo cấu trúc biểu giá điện là trợ giá và bù chéo.
Dưới góc độ vi mô của một Điện lực cũng chịu ảnh hưởng nhiều bởi cơ
chế ngành điện theo lộ trình cải tổ ở mỗi nước. Ngoài việc tác động bởi đầu tư
tư nhân và biểu giá, thì đa số các Điện lực địa phương phải chịu sự điều tiết
theo Luật Điện lực và phải đối mặt với tình trạng điện khí hoá nông thôn còn
kém và không hiệu quả (mức độ điện khí hoá các nước theo số liệu so sánh
cuối 2004: Indonesia- 55%; Philippines-79%; Bangladesh- 32%; Sri Lanka-
56%; ấn độ- 79%; trong Việt Nam là 81%). Vì chi phí cho cung cấp điện và




25
phát triển điện ở nông thôn thường rất cao, các công ty phân phối không
muốn và cũng không có khả năng tài chính để mở rộng lưới điện nông thôn.
Do đó, Chính phủ các nước châu á cần có những chính sách trợ giúp đặc biệt
để phát triển điện nông thôn.
Nói chung, cải tổ ngành điện của các nước không phải dễ dàng, nhiều lúc
có nước bị bế tắc. Thành công, theo kinh nghiệm chung, đòi hỏi chương trình
kế hoạch cải tổ phải được xem xét kỹ lưỡng các điều kiện về kinh tế, chính trị
và xã hội của mỗi nước. Đồng thời, không phải chỉ một mình ngành điện có
thể làm được mà cần có sự đồng lòng từ Chính phủ đến người dân và phải
đảm bảo kết hợp được sự hài hoà lợi ích của các thành phần trong xã hội.
Cụ thể hơn, có thể chọn Thái lan trong cùng nhóm 2 để tham khảo. Ngành
Điện lực Thái lan được hình thành từ năm 1884, đến nay ngành Điện lực Thái
lan do 3 tổ chức Nhà nước quản lý và chịu trách nhiệm:
+ Công ty Phát điện Thái lan EGAT (Electricity Generating of Thailan)
chịu trách nhiệm về phát và truyền tải cho toàn bộ đất nước.
+ Công ty Điện Thủ đô MEA (Metropolitan Electricity Authority) chịu
trách nhiệm cung cấp cho Thủ đô Bangkok và 3 tỉnh lân cận.
+ Công ty Điện các tỉnh PEA (Provincal Electricity Authority) chịu trách
nhiệm cung cấp điện cho 70 tỉnh còn lại ngoài khu vực của MEA.
Về mặt kinh doanh, PEA khó khăn nhiều hơn MEA. Do đó, giá bán điện
cho PEA từ EGAT là 30% mang tính hỗ trợ giá đầu vào. Giá bán điện theo
chính sách giá từng đối tượng. Trong kinh doanh PEA (giống các Công ty
Điện lực miền) ngoài việc phải nỗ lực phấn đấu tạo ra lợi nhuận trên cơ sở tổ
chức quản lý kinh doanh ngày càng có hiệu quả hơn. Ngoài ra, PEA còn được
Chính phủ Thái lan giao phụ trách chương trình điện khí hoá nông thôn với
việc hỗ trợ tài chính từ Chính phủ và sự đóng góp của nhân dân theo phương
pháp phát triển mở rộng từng vùng khu vực.

×