Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Những Giải pháp phát triển quan hệ kinh tế - TM VN - Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.88 KB, 45 trang )

Lời mở đầu
Sau hơn 30 năm ra đời, xây dựng và phát triển, Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam á, viết tắt là ASEAN (The Association of South East Asian
Nations) đã ngày một lớn mạnh. Từ một ASEAN gồm 5 nớc, đến nay
ASEAN đã trở thành một tổ chức gồm tất cả các nớc trong khu vực. Việt
Nam chính thức tham gia vào ASEAN tháng 7 năm 1995, nhng trớc đó đã
có mối quan hệ với từng nớc thành viên ASEAN và là quan sát viên của
ASEAN từ tháng 7/1992. Với sự chủ động hội nhập khu vực, Việt Nam đã
tận dụng và phát huy các lợi thế trong quan hệ hợp tác ASEAN, góp phần
hỗ trợ quan hệ song phơng với từng nớc thành viên ASEAN. Đặc biệt,
thông qua AFTA, Việt Nam sẽ có những điều kiện thuận lợi tăng cờng
quan hệ kinh tế, đầu t, thơng mại, giao lu văn hoá và nâng cao vị thế quốc
tế của Việt Nam. Sau 5 năm tham gia ASEAN quan hệ kinh tế giữa Việt
Nam và từng nớc thành viên ASEAN đã đợc mở rộng và đem lại một số
hiệu quả nhất định. Giá trị thơng mại, đầu t, các hợp tác kinh tế khác giữa
Việt Nam và ASEAN đã củng cố cho tiến trình liên kết kinh tế khu vực và
toàn cầu, nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam với các nớc
trong khu vực. Phân tích đánh giá quan hệ kinh tế Việt Nam- ASEAN từ
đầu thập kỷ 90, đặc biệt từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của ASEAN (7/1995), thông qua các lĩnh vực hợp tác kinh tế cụ thể, từ đó
nêu lên một số triển vọng về quan hệ kinh tế giữa hai bên trong những năm
sắp tới là mục đích chủ yếu của khoá luận tốt nghiệp.
Cơ sở để thực hiện khoá luận:
Kế thừa và nghiên cứu một số công trình khoa học và bài báo,
đồng thời trớc khi làm khoá luận tác giả cũng có một chuyên đề thực tập
25 trang cùng đề tài này.
1
Phơng pháp nghiên cứu chính đợc sử dụng trong khoá luận là: ph-
ơng pháp thống kê, phân tích, tổng hợp; phơng pháp nghiên cứu so sánh, có
tính đến những nớc cụ thể và các giai đoạn phát triển cụ thể.
Đóng góp mới của khoá luận:


Hệ thống hoá và phân tích một số tài liệu liên quan đến vấn đề Việt
Nam tham gia vào ASEAN.
Phân tích thực trạng quan hệ kinh tế Việt Nam- ASEAN.
Làm rõ mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với từng nớc thành viên
ASEAN. Từ đó nêu lên một số đánh giá và những triển vọng quan hệ kinh
tế Việt Nam- ASEAN.
Kết cấu của khóa luận:
Chơng I: Quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam.
Chơng II: Thực trạng quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN từ 1990 đến
nay.
Chơng III: Đánh giá triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN.
Trong quá trình thực hiện khoá luận, tác giả đã nhận đợc sự giúp
đỡ của các thầy cô trong trờng và đặc biệt là sự hớng dẫn và giúp đỡ tận
tình của thầy giáo - Tiến Sĩ Hoa Hữu Lân. Nhng do kiến thức của tác giả
còn hạn chế nên rất mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và
các bạn sinh viên. Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Chơng I
Quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam
I. Quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam:
2
Kể từ khi tổ chức ASEAN thành lập (năm 1967), quan hệ Việt Nam -
ASEAN đã trải qua nhiều bớc thăng trầm khác nhau. Nhng đến nay, mối
quan hệ Việt Nam - ASEAN đã cải thiện và có những bớc tiến phát triển
tốt đẹp, nhất là từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
ASEAN vào tháng 7/1995. Tổ chức ASEAN luôn giữ vị trí quan trọng
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Giai đoạn trớc những năm 1975:
Giai đoạn này ASEAN coi Việt Nam là đối tác thù địch. Một số n-
ớc ASEAN tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào cuộc chiến tranh ở Việt
Nam. Lúc này, trên thế giới diễn ra cuộc chiến tranh lạnh và tình trạng đối

đầu giữa hai hệ thống xã hội. Các nớc ASEAN cũng bị tình hình trên tác
động mạnh và một số nớc, ở những mức độ khác nhau có những dính líu
vào cuộc chiến tranh Đông Dơng. Vào cuối những năm 60 đầu những năm
70 do những biến đổi của tình hình thế giới và khu vực đã buộc các nớc
ASEAN phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình.
Tháng 11/1971, tại Cuala Lămpơ (Malaixia), Bộ trởng Ngoại
Giao các nớc ASEAN đã ký tuyên bố ZOPFAN và tìm cách thoát ra khỏi
sự dính líu vào cuộc chiến tranh Đông Dơng. Sau tuyên bố ZOPFAN, một
số nớc ASEAN đã bắt đầu thăm dò khả năng quan hệ với Việt Nam trên
một số lĩnh vực. Tuy nhiên, quan hệ hai bên lúc này cha có tiến triển gì
đáng kể.
Vào cuối những năm 1960 - đầu 1970, ở khu vực diễn ra một số
chuyển biến có tính chiến lợc, trong đó quan trọng nhất là thất bại trở nên
rõ ràng của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Thắng lợi của các nớc
nớc Đông Dơng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là những nhân tố tác
động sâu sắc tới cục diện Đông Nam á buộc các nớc ASEAN phải tính
toán lại chiến lợc của mình.
3
Một trong những biểu hiện đầu tiên của quá trình điều chỉnh chiến
lợc này là tháng 2 - 1969 Thủ tớng Malaixia đa ra khái niệm trung lập hoá
Đông Nam á. Các nớc ASEAN, nhất là những nớc có quan hệ chặt chẽ với
Mỹ đa quân vào Việt Nam đã không tán thành khái niệm này. Trong quan
hệ với Việt Nam tuyên bố này cũng đánh dấu chấm dứt việc các nớc
ASEAN ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Thực ra trớc đó, do
tình thế thất bại của Mỹ- Nguỵ quyền Sài Gòn, các nớc ASEAN đã phải
dần dần giảm sự dính líu của mình nh: tháng 10- 1969, Philippin công bố
kế hoạch rút quân một phần và tháng 12- 1969 đã rút hơn 1000 công dân
vụ khỏi Việt Nam; Thái Lan cũng bắt đầu rút 12 nghìn quân khỏi Việt
Nam.
Quan hệ Việt Nam - ASEAN giai đoạn này nói chung hết sức mờ

nhạt và cha có gì đáng kể.
Giai đoạn từ 1975 đến 1990:
Thời kỳ này quan hệ Việt Nam - ASEAN có nhiều cải thiện nhng
một số nớc ASEAN vẫn hoài nghi về Việt Nam. Bởi sau chiến tranh một số
nớc ASEAN e ngại Việt Nam sẽ trở thành tiểu bá khu vực. Tuy nhiên, các
nớc ASEAN cũng có nhiều cử chỉ thân thiện hơn, tạo cơ sở cho việc đặt
quan hệ với Việt Nam. Về phía Việt Nam cũng bắt đầu tích cực triển khai
chính sách khu vực, đẩy nhanh quan hệ song phơng với các nớc thuộc tổ
chức ASEAN. Nhng đến năm 1979, sau khi xuất hiện vấn đề Campuchia,
quan hệ giữa Việt Nam với các nớc ASEAN chuyển sang đối đầu, quan hệ
song phơng của Việt Nam với từng nớc ASEAN giảm xuống mức rất thấp.
Tại Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 12/1986) một
đờng lối đổi mới toàn diện đợc đa ra, trong đó Việt Nam chủ trơng chính
sách đa dạng hoá, đa phơng hoá quan hệ. Thực hiện đờng lối này Việt Nam
đã rút hết quân khỏi Campuchia, vấn đề Campuchia đi dần vào giải pháp
4
hoà bình. Trong tình hình đó các nớc ASEAN đã bắt đầu phát triển quan hệ
song phơng với Việt Nam và hoan nghênh việc Việt Nam tham gia vào hợp
tác khu vực . Tuy nhiên, có những chính khách ASEAN hoài nghi về vai
trò của Việt Nam ở khu vực bao gồm trên nhiều mặt nh: đổi mới kinh tế, về
chính trị, đối nội và đối ngoại, cộng với những điều kiện khác biệt về văn
hoá, lịch sử, xã hội, đặc biệt là sự khác nhau về t tởng, cho nên ASEAN cha
kết nạp một hội viên mới nào có bản chất chính trị - xã hội khác ASEAN.
Bên cạnh đó quan điểm của các nớc ASEAN rất khác nhau về việc Việt
Nam gia nhập ASEAN. Malaixia và Inđônêxia ủng hộ việc Việt Nam gia
nhập ASEAN còn Xingapo và Thái Lan thì không nhất trí.
Những thiện chí, mong muốn tham gia ASEAN của Việt Nam ngày
càng thể hiện rõ nét. Tháng 1/ 1989, tại Hội Nghị các nhà báo Châu á -
Thái Bình Dơng ở Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Cơ Thạch
tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các Đông Nam á (

1
)
Giai đoạn từ 1990 - 1995:
Là thời kỳ tiếp cận và bình thờng hoá quan hệ hai bên. Tại Đại hội
Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VII (1991) đã khẳng định chủ chơng
thực hiện đờng lối đối ngoại rộng mở, đa phơng hoá, đa dạng hoá, trong đó
nhấn mạnh việc phát triển quan hệ hữu nghị với các nớc Đông Nam á và
Châu á- Thái Bình Dơng, phấn đấu vì một Đông Nam á hoà bình, hữu
nghị và hợp tác. Đờng lối đó đã đợc cụ thể hoá trong Nghị quyết Hội Nghị
Trung Ương lần thứ III, khoá VII (tháng 6/1992) trong đó nói rõ: Việt
Nam tham gia Hiệp ớc Bali, tham gia các diễn đàn đối thoại với ASEAN,
tích cực nghiên cứu mở rộng quan hệ với ASEAN trong tơnglai . Sau khi
Việt Nam tuyên bố muốn tham gia Hiệp ớc Bali (tháng 2/1989), các nớc
ASEAN đều lên tiếng ủng hộ và ngày 28/1/1992, Hội Nghị cấp cao
1
. Phạm Đức Thành. Việt Nam ASEAN. NXB KHXH, 1996, tr 37.
5
ASEAN lần thứ IV tại Xingapo (1992) đã tuyên bố rõ điều đó. Vì vậy, tới
ngày 22/7/1992 tại Hôi Nghị lần thứ 25 Bộ trởng Ngoại Giao các nớc
ASEAN, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp ớc Bali và trở thành quan sát
viên của ASEAN. Việc Việt Nam trở thành quan sát viên của ASEAN đã
thể hiện sự cố gắng không mệt mỏi, với tinh thần khép lại quá khứ, hớng
tới tơng lai của các bên, nhằm xây dựng một Đông Nam á hoà bình, hữu
nghị, hợp tác để phát triển. Vào thời điểm này, nhận thức của các nớc
ASEAN về việc Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN cũng
biểu hiện ở những khía cạnh khác nhau, tuỳ theo lợi ích của mỗi quốc gia.
Inđônêxia, Malaixia cho rằng Việt Nam nói riêng và các nớc Đông Dơng
nói chung, tham gia ASEAN sẽ có tác dụng chủ yếu trong lĩnh vực hoà
bình, an ninh khu vực. Theo các nớc này, Việt Nam là một nớc lớn thứ hai
ở khu vực, là nớc láng giềng của Trung Quốc, có tiềm lực quốc phòng

mạnh đã từng chiến thắng nhiều nớc đến xâm lợc... nếu trở thành thành
viên của ASEAN sẽ có lợi về an ninh khu vực và Việt Nam sẽ là nớc đệm
giữa các nớc trong khu vực và các nớc ngoài khu vực. Trong khi đó, Thái
Lan và Xingapo xem Việt Nam là cơ hội tốt để buôn bán và kinh doanh,
đầu t... Đặc biệt ban lãnh đạo Thái Lan đã thay đổi đờng lối đối ngoại với
Việt Nam, chuyển từ đối đầu sang đối thoại. ở Đông Nam á từ sau chiến
tranh thế giới thứ II đến nay đã làm xuất hiện và tồn tại trên lãnh thổ Đông
Nam á hai quan điểm khác nhau về t tởng - chính trị, kinh tế - xã hội. Việc
buôn bán giữa các quốc gia trong khu vực sẽ giúp khắc phục tình trạng
trên. Nghĩa là qua buôn bán, hai nhóm nớc ASEAN và Đông Dơng sẽ hội
nhập vào nhau để chỉ còn một Đông Nam á thống nhất. Quan hệ song ph-
ơng giữa từng nớc ASEAN với Việt Nam không giống nhau, dẫn đến cách
nhìn Việt Nam cũng khác nhau. Trong khi đó, ASEAN cha phải là tổ chức
siêu quốc gia chỉ đạo các hội viên, mà chỉ là cơ quan phối hợp các hoạt
6
động của hội viên dung hoà quyền lợi dân tộc giữa các nớc hội viên với
nhau và quyền lợi dân tộc của từng nớc với quyền lợi tập thể của 6 nớc, bàn
bạc và quyết định công việc theo phơng pháp nhất trí.
Hiện nay, do tình hình an ninh, kinh tế khu vực Đông Nam á và thế
giới đã biến đổi, ASEAN đang phải đối phó với các vấn đề khác ở tầm vĩ
mô quan trọng hơn. Đó là tham gia xây dựng cơ cấu an ninh toàn khu vực
Châu á- Thái Bình Dơng thông qua phát triển, với mục đích đề cao vai trò
và uy tín của ASEAN. Ngoài ra, các nớc ASEAN mong muốn củng cố chỗ
đứng của mình ở APEC, tìm biện pháp để chống bảo hộ mậu dịch, chuẩn
bị xây dựng vành đai kinh tế và an ninh.
Thời gian qua, các nớc ASEAN cũng quan tâm ở đờng lối đối ngoại
của Việt Nam với các nớc lớn. Theo họ nếu Việt Nam cha có cách xử lý
thích hợp liên quan với các nớc lớn trong chính sách đối ngoại, tức là Việt
nam và ASEAN cha có cách nhìn nhận, cũng nh các biện pháp cụ thể
giống nhau đối với các nớc lớn, do vậy sự gia nhập ASEAN của Việt Nam

cha đợc chín muồi. Đối với các nớc lớn, các nớc ASEAN đặc biệt quan tâm
đến thái độ của Trung Quốc về việc Việt Nam gia nhập ASEAN.
Việc Việt Nam tham gia vào Hiệp ớc Bali thể hiện cam kết của Việt
Nam với những nguyên tắc đợc Việt Nam nêu ra trớc đó trong chính sách 4
điểm của mình năm 1976. Điều đó cũng làm tăng sự tin cậy của các nớc
ASEAN và các nớc ngoài khu vực đối với Việt Nam. Trong giai đoạn này,
quan hệ Việt Nam - ASEAN phát triển mạnh mẽ cả trong lĩnh vực song ph-
ơng và đa phơng. Thơng mạiViệt Nam- ASEAN tăng từ 989 triệu USD năm
1990 lên 2.441 triệu USD năm 1994.
Ngày 11/7.1993, ông Gô- Chốc- Tông, Thủ tớng nớc Cộng Hoà
Xingapo đã trả lời phỏng vấn ASEAN không và sẽ không trở thành một
khối quân sự. Thế nhng, những tham khảo giữa các quan chức quốc phòng
7
và quân sự sẽ tạo ra một môi trờng tin cậy lẫn nhau. Một điều tế nhị là
ASEAN không muốn trở thành một số nớc chống Trung Quốc. Do vậy,
ASEAN buộc phải thận trọng khi Việt Nam muốn gia nhập ASEAN.
Những ý kiến trên đây cho đến trớc Hội Nghị Ngoại trởng thờng kỳ
lần thứ 27 của ASEAN đợc xem là những quan điểm của các nớc ASEAN
cha nhất trí để Việt Nam gia nhập ASEAN.
Từ năm 1993, ASEAN lập cơ chế họp hiệp thơng giữa ASEAN và
Việt Nam nhân dịp Hội Nghị Ngoại trởng ASEAN. Tại Hội Nghị Ngoại tr-
ởng ASEAN lần thứ 26 tại Xingapo năm 1993, Việt Nam đã đợc mời tham
dự diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF: ASEAN Regional Forum) để
bàn về các vấn đè trính trị và an ninh khu vực châu á - Thái Bình Dơng.
Việt Nam đợc coi là trong những nớc sáng lập diễn đàn này. Ngoài ra,
ASEAN cũng còn mời Việt Nam tham gia các chơng trình và dự án hợp tác
ASEAN trên 5 lĩnh vực khoa học- công nghệ, môi trờng, y tế, văn hoá,
thông tin và du lịch.
Để tạo môi trờng thuận lợi hơn nữa cho sự tham gia của Việt Nam
vào quá trình hợp tác khu vực, nhất là vào ASEAN, từ tháng 2/1993, các vị

lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nớc Việt Nam đã tuyên bố Việt Nam
sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp . Tuyên bố này đã đ-
ợc ASEAN, d luận khu vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại các nớc
ASEAN tuyên bố muốn thấy Việt Nam sớm gia nhập ASEAN
Với những bớc phát triển ngày càng tích cực và thuận lợi trong quan
hệ song phơng và đa phơng giữa Việt Nam và ASEAN, tháng 4/1994 Chủ
Tịch nớc Lê Đức Anh trong chuyến thăm chính thức Inđônêxia đã tuyên
bố: cùng với sự hỗ trợ tích cực của ASEAN, Việt Nam đang xúc tiến các
công việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên đầy đủ của
8
ASEAN (
1
). Điều này cho thấy thái độ tích cực và chân thành của Việt
Nam trong việc gia nhập ASEAN.
Trong thời gian này, các nớc thành viên ASEAN đều tuyên bố ủng
hộ hoàn toàn việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Các nớc ASEAN đều khẳng
định sự khác nhau về chế độ chính trị không phải là trở ngại đối với Việt
Nam gia nhập ASEAN mà ngợc lại còn góp phần phát triển hơn nữa sự hợp
tác bên trong ASEAN.
Tại Hội nghị Bộ trởng Ngoại Giao ASEAN lần thứ 27 tại Băng Cốc
(từ ngày 22-23/7/1994), các nớc ASEAN nhất trí tuyên bố sẵn sàng công
nhận Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN.
Trải qua bao nhiêu giai đoạn phát triển trong quan hệ Việt Nam-
ASEAN, đến tháng 7/1994 việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã đạt đợc sự
nhất trí từ hai phía. Sau khi Hội Nghị AMM lần thứ 27, Việt Nam đã đợc
mời tham dự cuộc họp đầu tiên của diễn đàn ARF (ASEAN Regional
Forum: Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN) diễn ra ngay sau đó tại Băng
Cốc.
Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN chỉ còn
là thời gian và thủ tục, chứ không phải là vấn đề nguyên tắc và chính sách.

Thủ tớng Xingapo Gô - Chốc - Tông cho rằng có đợc ASEAN với toàn thể
10 nớc thành viên khu vực Đông Nam á là hãnh diện , ASEAN phải vơn
tới đội hình lớn để giành lấy sự kính trọng của thế giới (
1
). Trong buổi
gặp gỡ giữa Ngoại trởng Việt Nam với Ngoại trởng các nớc ASEAN ngày
23/7/1994, Ngoại trởng Xingapo là G. Gêyacuma phát biểu: việc Việt
Nam gia nhập ASEAN sẽ là một đóng góp quan trọng vào việc xây dựng
Đông Nam á hoà bình, hợp tác và phồn vinh (2).
1
. Phạm Đức Thành. Việt Nam - ASEAN. NXB KHXH, 1996, trang 38.
1
(1) , (2). Quan hệ kinh tế thơng mại Việt Nam - ASEAN. NXB Thống Kê 1997, trang 36, 37.
9
Năm 1994, quan hệ Việt Nam - ASEAN phát triển toàn diện. Trung
bình mỗi tháng có 2 cuộc viếng thăm cấp cao giữa hai bên. Cho đến nay có
khoảng 40 Hiệp định hợp tác song phơng và đa phơng đã đợc ký kết. Buôn
bán hai chiều 6 tháng đầu năm 1994 đạt trên 1 tỷ USD, trong đó cân bằng
xuất và nhập. Đầu t của ASEAN vào Việt Nam đến hết quý II năm 1994 là
1,433 tỷ USD. Tháng 9/1994 Thủ tớng Võ Văn Kiệt đã ký quyết định Vụ
ASEAN thuộc Bộ Ngoại Giao để phối hợp hoạt động giữa Việt Nam và
ASEAN. Ngày 25/4/1994, lần đầu tiên Việt Nam tham dự Hội Nghị Bộ tr-
ởng kinh tế ASEAN lần thứ 26 ở Chiềng - Mai (Thái Lan). Tại Hội Nghị
này, những vấn đề chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập ASEAN đã đợc đề cập
một cách rộng rãi. Đồng chí Nguyễn Mạnh Cầm Uỷ viên Bộ Chính Trị
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Bộ Trởng Bộ Ngoại Giao cho biết: chúng ta cần
phải tiếp tục tìm hiểu sâu hơn và làm quen hơn nữa với toàn bộ cơ cấu tổ
chức, các quy định, thủ tục và cơ chế hoạt động của ASEAN. Điều khá
quan trọng là chuẩn bị một đội ngũ đông đảo cấp cao, các ngành có năng
lực và có trình độ tiếng Anh đủ để tham gia công việc của các Uỷ ban, thực

hiện các dự án và hàng trăm cuộc họp mỗi năm của ASEAN.
Ngày 17/10/1994 Bộ trởng Ngoại Giao Nguyễn Mạnh Cầm gửi th
cho Ngoại trởng Brunây, Chủ tịch đơng nhiệm Uỷ Ban thờng trực ASEAN
(ASC) chính thức đặt vấn đề Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của
ASEAN. Các nớc ASEAN rất hoan nghênh quyết định của Việt Nam và
cùng Việt Nam gấp rút chuẩn bị các thủ tục cần thiết cho việc Việt Nam
gia nhập ASEAN.
Ngày 12/1/1995, Bộ trởng Ngoại Giao Brunây gửi th chính thức
thông báo lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN sẽ đợc tổ chức nhân dịp Hội
Nghị Bộ trởng Ngoại giao ASEAN lần 28 ở Brunây vào tháng 7/1995. Tại
Hội Nghị Bộ trởng Ngoại giao lần thứ 28, Việt Nam chính thức trở thành
thành viên thứ 7 của ASEAN.
10
Nh vậy, với việc Việt Nam gia nhập ASEAN, quan hệ Việt Nam-
ASEAN giờ đây đã bớc sang một chơng mới: quan hệ giữa các nớc thành
viên của một tổ chức khu vực ASEAN. Tuy nhiên, để nhanh chóng hoà
nhập thực sự vào khu vực, Việt Nam cần phải tham gia tích cực vào các
hoạt động của ASEAN cũng nh nâng cao sự hiểu biết của mình về khu vực
để việc hợp tác đem lại hiệu quả hơn.
II. ý nghĩa của việc Việt Nam gia nhập ASEAN:
Thực hiện đờng lối đối ngoại rộng mở, đa phơng hoá, đa dạng hoá,
chủ động tích cực hội nhập khu vực và quốc tế, tháng 7/1995 Việt Nam
chính thức gia nhập ASEAN, đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử
Đông Nam á. Với sự chủ động trong công tác hội nhập khu vực, ta đã phát
huy các lợi thế trong hợp tác với ASEAN, góp phần nâng cao vị thế của ta
trên trờng quốc tế. Hơn nữa, gia nhập ASEAN, đó chính là yếu tố thúc đầy
quá trình hoà nhập của Việt Nam vào thị trờng khu vực và thế giới. Nó có ý
nghĩa kinh tế - xã hội to lớn không chỉ đối với Việt Nam mà cả khu vực.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã góp phần vào việc củng cố xu
thế hoà bình và hợp tác khu vực, tạo ra môi trờng quốc tế thuận lợi cho

công cuộc đổi mới, xây dựng kinh tế và bảo vệ đất nớc. Tham gia ASEAN
đã bổ trợ cho các mối quan hệ song phơng của ta với các nớc láng giềng
trong khu vực, tăng cờng hiểu biết và thông cảm lẫn nhau, góp phần cải
thiện cơ bản và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hữu nghị hợp tác của nớc ta với
các nớc này. Mặt khác, trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam có cơ
hội thúc đẩy và tăng cờng hơn nữa mối quan hệ tay đôi với các nớc ngoài
ASEAN, các tổ chức quan trọng và khu vực khác, trên các lĩnh vực chính
trị - an ninh, kinh tế - xã hội; tham gia các Hiệp định hợp tác của ASEAN
với các bên đối thoại nh: EU, Canađa, ôtxtrâylia, ... cũng nh hàng trăm các
dự án hợp tác cụ thể đợc các bên đối thoại tài trợ.
11
Thông qua các hình thức hợp tác kinh tế, Việt Nam có thể tiếp cận
đợc những biện pháp quản lý trong một số lĩnh vực vốn là thế mạnh của
một số nớc ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam có thể học đợc những kinh
nghiệm của từng nớc nh kinh nghiệm của Thái Lan, Philippin về nông
nghiệp và công nghiệp chế biến, nông sản; kinh nghiệm của Malaixia và
Xingapo về du lịch, dịch vụ, kinh nghiệm của Xingapo về tổ chức thị trờng
vốn, kinh nghiệm của Malaixia về chế biến và xuất khẩu khoáng sản...
Nh vậy, việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã thể hiện một sự cam kết
mạnh mẽ đối với các mục đích và mục tiêu của ASEAN. Sự cam kết này đã
góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy hoà bình và ổn định ở Đông Nam
á.
Chơng II
Thực trạng quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN
từ 1990 đến nay
I. Quan hệ thơng mại Việt Nam - ASEAN từ 1990 đến nay:
1.Ngoại thơng Việt Nam với ASEAN:
Sau khi tình hình thế giới có những biến chuyển lớn (sự sụp đổ của
Liên Xô và các nớc Đông Âu), với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà n-
ớc ta, thị trờng ngoại thơng Việt Nam đã có sự chuyển hớng cơ bản: từ thị

trờng truyền thống là Liên Xô và Đông Âu chuyển sang thị trờng Châu á -
Thái Bình Dơng và một số khu vực, quốc gia khác.
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
ASEAN. Kể từ đó, các quan hệ hợp tác giữa nớc ta với các nớc thành viên
trong khu vực phát triển nhanh chóng.
Về phơng diện mậu dịch tính chung từ 1990 đến nay, buôn bán
giữa Việt Nam và các nớc ASEAN tăng với tốc độ trung bình là 26,8% và
12
hiện nay chiếm tới 32,4% (tức gần 1/3) toàn bộ kim ngạch ngoại thơng của
Việt Nam. Nếu so với năm 1994, trớc khi Việt Nam trở thành thành viên
của ASEAN, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng gấp
2,54 lần về quy mô tốc độ giá trị, đạt tốc độ tăng trởng trung bình hàng
năm rất cao, gần 7,7%. Mức tăng trởng bình quân thời kỳ 1992 - 1995 là
26%, chiếm hơn 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Đến năm 1995 tổng giá trị buôn bán giữa Việt Nam và ASEAN
là 3,490 tỷ USD, chiếm 23,9% tổng kim ngạch buôn bán của Việt Nam với
thế giới, trong đó kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam với
ASEAN với ASEAN lần lợt là 1,12 và 2,378 tỷ USD (Bảng 1).
Bảng 1: Kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và ASEAN
Năm
Xuất
khẩu
(tỷ USD)
Nhập
khẩu
(tỷ USD)
Tổng kim
ngạch
buôn bán
(tỷUSD)

Tỷ lệ % so với tổng
kim ngạch của Việt
Nam với thế giới (%)
1995 1,112 2,378 3,490 23,9
1996 1,364 2,788 4,152 33,4
1997 1,911 3,166 5,077 25,5
1998 2,372 3,749 6,122 29,7
1999 2,463 3,288 5,751
Nguồn: Hội thảo 5 năm Việt Nam tham gia ASEAN, Học Viện Quan hệ Quốc tế
Hà Nội, 20/6/2000.
Đến cuối năm 1996, chỉ hơn một năm sau khi Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của ASEAN thì tổng kim ngạch buôn bán giữa Việt
Nam và ASEAN đã tăng lên đến 4,152 tỷ USD tơng đơng với 33,4 % tổng
kim ngạch buôn bán của Việt Nam với thế giới, tăng gấp 1,2 lần về số tơng
đối và tăng xấp xỉ 0,7 tỷ USD về số tuyệt đối so với năm 1995. Riêng về
13
danh mục hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào thị trờng ASEAN hàng
năm cũng gia tăng nhanh chóng. Từ con số 0 đến nay chúng ta đã có tới
200 mặt hàng đợc đánh giá là có khả năng tạo đợc chỗ đứng trên thị trờng
quốc tế. Các mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất sang các nớc ASEAN nh
sau:
- Với Xingapo: Việt Nam thờng xuất các mặt hàng nh: thiếc, dầu thô, cao
su, hạt tiêu, tôm đông lạnh, cà phê, chè. Ngợc lại, Xingapo bán cho Việt
Nam: xăng, dầu, thép, phân bón hoá học, xăm lốp ô tô.
- Với Thái Lan: Việt Nam xuất khẩu: than, thiếc và mua của Thái Lan
các mặt hàng: phân bón hoá học, xe gắn máy, tân dợc.
- Với Malaixia: Việt Nam xuất khẩu: gạo, cao su, than và mua các mặt hàng của
Malaixia: phân bón hoá học, xăng dầu các loại.
- Với Philippin: Việt Nam có rất ít các hàng xuất khẩu, chủ yếu là gạo và
nhập khẩu: phân bón hoá học.

Nhìn chung các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam với các nớc
ASEAN chỉ có Xingapo là thị trờng tơng đối phong phú. Các thị trờng còn
lại rất đơn điệu về chủng loại mặt hàng.
1.1 Quan hệ thơng mại giữa Việt Nam với
từng nớc ASEAN.
a. Quan hệ thơng mại Việt Nam - Xingapo:
Xingapo là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam trong khối ASEAN.
Hai nớc đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào tháng 8/1973, sau
đó đã ký với nhau nhiều hiệp định thơng mại và kinh tế. Quan hệ buôn bán
giữa hai bên tăng nhanh từ năm 1990 đến nay. Giá trị xuất nhập khẩu giữa
hai nớc tăng từ 112 triệu USD năm 1989 lên tới 691 triệu USD năm 1990
và đạt cao nhất tới 3,517 triệu USD năm 1998, gấp 31,4 lần năm 1989
(Bảng 2).
14
Bảng 2: Xuất nhập khẩu Việt Nam - Singapo
Đơn vị: triệu USD và %
1990 1992 1994 1996 1998 1999
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng số
% trong ASEAN
194,5
497,0
691,5
77,8
401,7
821,6
1.223,3
80,5
593,5

1.145,8
1.739,3
67,3
1.250,0
2.032,6
3.322,6
69,7
1,080
2,437
3.517
57,4
822
1,883
2.705
47,0
Nguồn: Tổng cục Thống Kê, Hà Nội, 1999.
Trong giai đoạn 1990 - 1998 kim ngạch buôn bán giữa hai nớc liên
tục tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN. Năm 1990 là 77,8%; năm 1992
là 80,5%; năm 1996 là 69,7%; năm 1998 là 54,4% và năm 1999 là 47%.
Có thể thấy kim ngạch hai chiều tăng hơn 1,5 lần từ năm 1993 đến năm
1998 (2,1 tỷ USD Singapore năm 1993 lên 3,2 tỷ USD năm 1998). Nhng từ
năm 1997 - 1998 do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực,
buôn bán hai chiều giảm đi: năm 1997 là 17% thì năm 1998 giảm xuống
còn 16,1% và năm 1999 là 11,7%. Mặc dù vậy, hiện nay Xingapo vẫn là
bạn hàng lớn nhất của Việt Nam với tổng kim ngạch mậu dịch hai chiều
năm 2000 đạt 3,31 tỷ USD. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh,
năm 1996 đạt mức cao nhất là 1.290 triệu USD. Việt Nam tăng cờng xuất
khẩu sang Xingapo vì Xingapo là thị trờng thơng mại tự do, có tỷ lệ thuế
quan u đãi. Chính phủ Xingapo chỉ đánh thuế thấp đối với một số mặt hàng

nh: rợu, bia, thuốc lá, ô tô... còn đại đa số các mặt hàng khác không phải
chịu thuế. (Bảng 3)
Trong những năm trở lại đây dầu thô luôn chiếm vị trí cao nhất
(chiếm khoảng 1/3 kim ngạch xuất khẩu) của Việt Nam sang Xingapo.
Năm 1999 Xingapo là nớc đứng thứ 2 sau Nhật Bản về nhập khẩu hàng hoá
15
cña ViÖt Nam. Kim ng¹ch xuÊt khÈu cña ViÖt Nam sang Xingapo chiÕm
7,1% trong tæng kim ng¹ch xuÊt khÈu n¨m 1999.
16
Bảng 3: Một số mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Singapo
năm 1999
Mặt hàng Đơn vị tính Khối lợng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
Hạt tiêu
Gạo
Cà phê
Cao su

Chè
Hải sản
Rau quả
Hạt điều
Linh kiện điện tử
TCMN
Linh kiện vi tính
Dầu thô
Giày dép
Dệt may
USD
Tấn
Tấn
Tấn
Tấn
Nghìn USD
Nghìn USD
Nghìn USD
NghìnUSD
Nghìn USD
Nghìn USD
Nghìn tấn
Nghìn USD
55.416
684.744
49.151
55.681
1.705
28.051
2.073

145
5.327
3.749
3.867
2.013
9.334
48.526
Nguồn: Bộ Kế Hoạch và Đầu T, Hà Nội, 1999

Việt Nam cũng nhập khẩu từ Xingapo nhiều loại hàng hoá phục vụ
cho nhu cầu phát triển của mình. Tốc độ nhập khẩu tăng nhanh chóng
trong thời gian qua, năm 1998 là năm cao nhất với giá trị xuất khẩu là
2,437 triệu USD, bằng 490,3% so với năm 1990. Hàng chủ yếu Việt Nam
nhập khẩu từ Xingapo là máy móc, ô tô, nguyên liệu và bán thành phẩm...
(Bảng 4)
17
Bảng 4: Một số hàng hoá chủ yếu nhập từ Singapo năm 1999
Hàng hoá Đơn vị Số lợng
Xăng dầu các loại
Phân bón các loại
Sắt thép các loại
Linh kiện xe máy
Máy móc thiết bị
Linh kiện điện tử
Chất dẻo nguyên liệu
Nguyên phụ liệu dệt da
Tân dợc
Ô tô nguyên chiếc
Tấn
Tấn

Tấn
Bộ
Nghìn USD
Nghìn USD
Nghìn USD
Nghìn USD
Nghìn USD
Chiếc
5.792.795
706.549
53.178
2.566
108.000
157.000
50.000
9.700
28.000
97
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu t, Hà Nội, 1999,
Năm 1999 Xingapo là nớc có giá trị hàng hoá nhập khẩu vào Việt
Nam lớn nhất, chiếm 16,2% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Từ năm 1990
đến nay, trong quan hệ buôn bán giữa hai nớc, Việt Nam luôn ở tình trạng
nhập siêu và mức độ nhập siêu tăng trong những năm 1990 - 1997, năm
1990 là 302,5 triệu USD, năm 1995 là 735,4 triệu USD, năm 1997 là 902,1
triệu USD, năm 1998 là 1,357 triệu USD, năm 1999 là 1,061 triệu USD. Do
ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực nên năm 1999 so với năm
1998 mức nhập siêu có giảm xuống. Tuy vậy, tỷ trọng hàng Việt Nam chỉ
chiếm 0,92% kim ngạch buôn bán của Xingapo với thế giới. Hàng hoá đa
vào Xingapo luôn phải đơng đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh có tầm cỡ
quốc tế nh: Nhật Bản, Mỹ, Hồng Kông,... Nếu nh hàng hoá không đạt tiêu

chuẩn chất lợng cao thì không thể đứng đợc tại thị trờng này. Trong hoạt
động thơng mại của Xingapo, tái xuất chiếm tỷ trọng rất lớn. Những sản
phẩm tái xuất chủ yếu là: dầu lửa, cao su, gỗ, cà phê,... Hiện nay, tại thị tr-
18
ờng Xingapo, gạo nàng Hơng của Việt Nam đang rất đợc a chuộng. Đó là
cơ hội tốt để Việt Nam mở rộng làm ăn tại thị trờng này. Vì vậy, Việt Nam
phải cải tiến chất lợng hàng hoá hơn nữa để đáp ứng tốt và giữ vị trí trên th-
ơng trờng Xingapo.
b. Quan hệ thơng mại Việt Nam - Thái Lan:
Thái Lan là bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam, sau Xingapo
trong khối ASEAN. Giá trị nhập khẩu Việt Nam - Thái Lan tăng liên tục
trong 10 năm qua. Giá trị ngoại thơng Việt Nam - Thái Lan tăng từ 69,3
triệu USD năm 1990 lên 869 triệu USD năm 1999. Năm cao nhất là
năm1998 đạt 943,3 triệu USD. (Bảng 5)
Bảng 5: Xuất nhập khẩu Việt Nam - Thái Lan
Đơn vị: triệu USD và %
1990 1992 1994 1996 1998 1999
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng số
% trong ASEAN
52,3
17,0
69,3
7,8
71,5
41,2
112,7
7,4
97,6

225,7
323,3
12,5
107,4
494,5
601,9
12,6
295,3
648,0
943,3
15,4
313
556
869
15,1
Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu t, 1999.
Hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam sang Thái Lan tơng tự nh Xingapo
chỉ trừ hai loại hàng là chè và hạt tiêu. Nhng khác với Xingapo là một nớc
công nghiệp mới, Thái Lan là một nớc đang phát triển, có tiềm năng lớn về
phát triển công nghiệp, xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới và còn xuất khẩu
cao su tự nhiên đứng nhất nhì thế giới. Ngoài ra, Thái Lan còn xuất khẩu
hàng nông sản, hải sản. Hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Thái Lan
hiện nay là dệt và quần áo, máy tính và cấu kiện máy vi tính, đồ điện, đồ
trang sức, xe gắn máy, xe hơi,... Trong danh mục đó có rất nhiều loại hàng
có khả năng cạnh trang cao hơn hàng xuất khẩu cùng loại của Việt Nam,
19
do hàng Thái có trình độ công nghệ và chất lợng cao hơn. Do đó, có nhiều
hàng Việt Nam xuất sang Thái Lan đợc họ tái chế để nâng cao chất lợng
hoặc bổ xung vào khối lợng hàng xuất khẩu của họ. Năm 1999 hàng xuất
khẩu của Việt Nam vào Thái Lan đạt giá trị cao nhất là linh kiện vi tính,

đạt tới 146.957 nghìn USD, tiếp theo là cà phê với 27.249 tấn (đạt khoảng
hơn 30.050 nghìn USD).
Hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Thái Lan chủ yếu là xe gắn máy,
hàng công nghiệp, hạt nhựa. Những mặt hàng nhập khẩu có khối lợng lớn
từ Thái Lan năm 1999 là linh kiện xe máy: 131.952 bộ, xăng dầu các loại:
245.868 tấn, sắt thép các loại: 46.296 tấn, chất dẻo: 71,6 triệu USD, phân
bón các loại: 198 tấn.
Thái Lan tuy là bạn hàng lớn thứ hai trong các nớc ASEAN, nhng
ngợc lại kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Thái Lan chỉ chiếm
0,7% tổng kim ngạch ngoại thơng của Thái Lan năm1997. Từ năm 1993
đến nay, Việt Nam luôn là nớc nhập siêu trong quan hệ thơng mại với Thái
Lan. Mức độ nhập siêu lên tới 352,7 triệu USD năm 1998, gấp 13 lần so
với năm 1993. Tình hình nhập siêu của Việt Nam có thể gia tăng nếu Việt
Nam không nâng cao chất lợng, giảm giá thành sản phẩm và chuyển dịch
cơ cấu sản xuất để tăng khả năng cạnh tranh khi chơng trình CEPT đợc
thực hiện.
c. Quan hệ thơng mại Việt Nam - Malaixia:
Quan hệ thơng mại Việt Nam - Malaixia mới đợc đẩy mạnh từ
năm1992 nhng mức độ đạt đợc còn thấp. Năm 1990, kim ngạch buôn bán
hai chiều mới đạt 0,6 triệu USD đến năm 1999 tăng lên 9,8 triệu USD.
(Bảng 6)
20
Bảng 6: Xuất nhập khẩu Việt Nam - Malaixia.
Đơn vị: triệu USD và %
1990 1992 1994 1996 1998 1999 6/2000
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng số
% trong
ASEAN

5,0
0,8
5,8
0,6
68,4
35,9
104,3
6,9
64,8
66,1
103,9
5,1
77,7
200,3
278,0
5,8
115
239
354
5,7
257
309
566
9,8
164
164
328
Nguồn: Tổng cục Thống Kê, Bộ Kế hoạch và Đầu t, 1999
Giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với Malaixia tăng nhanh
trong giai đoạn 1990 - 1999, từ 5,8 triệu USD lên 565 triệu USD, tăng 97,5

lần. Năm 1999, Malaixia đứng thứ 4 trong khối ASEAN về buôn bán giá trị
với Việt Nam, chiếm 9,8% trong giá trị nhập khẩu của Việt Nam - ASEAN
và 2,4% tổng kim ngạch ngoại thơng của Việt Nam. Xuất khẩu của Việt
Nam sang Malaixia năm 1999 đạt 257 triệu USD, tăng 51,4 lần so với năm
1990. Riêng đến tháng 6/2000 xuất khẩu của Việt Nam sang Malaixia đã
đạt tới 164 triệu USD. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Malaixia chủ
yếu là các loại nông lâm sản, quần áo, hàng thủ công mỹ nghệ. Trong đó,
gạo, mỹ nghệ, quần áo là 3 mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang
Malaixia.
Giá trị hàng nhập khẩu từ Malaixia tăng nhanh hơn xuất khẩu, năm
1999 là 309 triệu USD so với 0,8 triệu USD năm 1990, tăng gấp 386 lần.
Nhng tính đến tháng 6/2000 thì giá trị hàng nhập khẩu từ Malaxia là 164
triệu USD. Nh vậy, Việt Nam - Malaxia bắt đầu có xu hớng cân bằng trong
cán cân thơng mại. Hàng nhập khẩu từ Malaxia năm 1999 chủ yếu là xăng
dầu các loại: 79.266 tấn, phân bón các loại: 20.087 tấn, hàng điện tử: 26
triệu tấn, chất dẻo, nguyên liệu: 13 triệu USD.
21
Nhìn chung kể từ năm 1994 đến nay, trong quan hệ thơng mại với
Malaxia, Việt Nam luôn là nớc nhập siêu và cha tơng xứng với tiềm năng
vốn có của hai nớc. Tỷ lệ hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam sang
Malaixia chỉ chiếm 0,3% tổng giá trị ngoại thơng của Malaixia. Vì vậy,
Việt Nam cần có những chính sách thích hợp nh: nâng cao hiệu quả hợp
tác hai bên cũng nh nâng cao giá trị sản phẩm về chất lợng và số lợng để có
khả năng đáp ứng và cạnh tranh với thị trờng Malaixia đầy tiềm năng này.
d. Quan hệ thơng mại Việt Nam - Inđônêxia:
Trong số các nớc ASEAN, quan hệ thơng mại Việt Nam -
Inđônêxia đợc thực hiện từ rất sớm, từ những năm 60. Tuy nhiên, chỉ từ
1990 đến nay quan hệ thơng mại hai bên mới đợc đẩy mạnh.
Bảng 7: Xuất nhập khẩu Việt Nam - Inđônêxia
Đơn vị: triệu USD và %

1990 1992 1994 1996 1998 1999
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng số
% trong
ASEAN
14,6
9,8
24,4
2,7
19,9
39,8
40,7
2,7
35,3
116,3
151,6
5,9
45,7
149,0
194,7
4,1
316
257
573
9,4
421
285
706
12,3

Nguồn: Tổng cục Thống Kê, sđd Bộ Kế Hoạch và Đầu T, 1999
Giá trị xuất nhập khẩu hai bên tăng nhanh từ 24,4 triệu USD năm
1990 tăng lên 706 triệu USD năm 1999. (Bảng 7). Trong hai năm cuối Việt
Nam đã có thặng d trong cán cân thơng mại với Inđônêxia.
Inđônêxia là nớc nông nghiệp trong khu vực, có cơ cấu cây trồng t-
ơng tự nh Việt Nam. Nhng mấy năm gần đây, Inđônêxia vẫn phải nhập l-
ơng thực. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Inđônêxia tơng tự nh Thái
Lan nhng với khối lợng ít hơn trừ dầu thô và gạo. Đặc biệt năm 1998 -
22
1999 Inđônêxia là nớc đứng đầu về nhập khẩu gạo của Việt Nam với
947.446 tấn năm 1998, và hơn 1,14 triệu tấn năm 1999. Kim ngạch xuất
nhập khẩu sang Inđônêxia năm 1999 đã chiếm 3,6% tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam - ASEAN và thị trờng lớn thứ 2 trong khu vực sau
Xingapo.
Giá trị xuất nhập khẩu từ Inđônêxia năm 1999 là 285 triệu
USD, chiếm 2,5% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam
và đứng thứ 4 trong khối ASEAN. Hàng nhập khẩu của Việt Nam
từ Inđônêxia chủ yếu là: phân bón, hoá chất, bột giấy, linh kiện
và xe gắn máy, xăng dầu các loại...
e. Quan hệ thơng mại Việt Nam - Philippin:
Philippin là đối tác không thể coi nhẹ của Việt Nam. Mặc dù nửa
đầu những năm 1990 buôn bán giữa hai nớc mới đạt ở mức rất thấp và biến
động thất thờng (Bảng 8).
Bảng 8: Xuất nhập khẩu Việt Nam - Philippin
Đơn vị: triệu USD và%

1990 1992 1994 1996 1998 1999
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng số

% trong
ASEAN
57,0
3,6
60,6
6,8
1,0
0,5
1,5
0,1
3,6
15,0
18,6
0,7
132,0
28,9
160,9
3,4
392,7
59,0
451,7
7,4
393
46
493
7,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê, sđd
Bộ Kế hoạch và Đầu t, 1999.

Buôn bán giữa Việt Nam và Philippin năm 1990 đạt 57 triệu USD

nhng năm 1992 - 1993 chỉ đạt 1,5 triệu USD. Từ năm 1996 đến năm 1999
kim ngạch buôn bán giữa hai nớc tăng nhanh, đạt 439 triệu USD năm 1999,
23
chiếm 7,6% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - ASEAN và gần
1,9% tổng kim ngạch ngoại thơng của Việt Nam. Đặc biệt, kể từ 1995 đến
nay, cán cân thơng mại Việt Nam - Philippin luôn thặng d với mức ngày
càng tăng, năm 1995 là: 16,8 triệu USD, 1996 là: 103,1 triệu USD và năm
1999 là: 350 triệu USD.
So với các nớc ASEAN khác, Philippin là thị trờng tiêu thụ lớn nhất
của Việt Nam về linh kiện máy vi tính. Năm 1999, xuất khẩu linh kiện máy
vi tính của Việt Nam sang Philippin đạt 232,982 triệu USD, tiếp theo là
gạo: 507,393 tấn và các mặt hàng cà phê, dệt may, hạt tiêu, hạt điều, than
đá, cát trắng, rau củ quả, hải sản,... Năm 1999, Philippin chiếm 3,4% tổng
giá trị xuất khẩu của Việt Nam và là bạn hàng lớn thứ 4 của Việt Nam so
với các nớc ASEAN khác.
Việt Nam nhập khẩu từ Philippin chủ yếu là phân bón, chiếm 70%
đến 80% giá trị nhập khẩu hàng năm của nớc này. Riêng năm 1999 nhập
tới 112.700 tấn phân bón các loại, ngoài ra còn nhập các mặt hàng khác
nhng với khối lợng không lớn nh: sắt thép các loại, máy móc phụ tùng, chất
dẻo,...
f. Quan hệ thơng mại Việt Nam - Lào:
Việt Nam - Lào có mối quan hệ đặc biệt thân thiết và dành cho
nhau chế độ u đãi, đặc biệt là quan hệ ngoại thơng, mức thuế xuất khẩu
bằng 0%. Tuy nhiên, do kinh tế của hai nớc còn khó khăn nên thơng mại
hai chiều còn đạt ở mức rất thấp. (Bảng 9).
24
Bảng 9: Xuất nhập khẩu Việt Nam - Lào:
Đơn vị: triệu USD.
1990 1992 1994 1996 1998 1999
Xuất khẩu 16,6 16,0 20,9 24,9 73,3 164

Nhập khẩu 3,9 7,7 102,9 68,1 104,0 195
Tổng số 20,5 23,7 123,8 93,0 177,3 359
Nguồn: Tổng cục Thống kê, sđd
Bộ Kế hoạch và Đầu t, 1999
Từ năm 1997 trở về trớc, kim ngạch buôn bán giữa hai nớc tăng
giảm thất thờng. Năm 1994 đạt mức cao nhất là 123,8 triệu USD, năm
1995 - 1997 lại giảm xuống còn 104,6 triệu USD năm 1995, 93 triệu USD
năm 1997. Hai năm gần đây, kim ngạch hai chiều tăng lên, đạt 177,3 triệu
USD năm 1998 và 359 triệu USD năm 1999.
Việt Nam xuất khẩu sang Lào hàng công nghệ phẩm nh: đồ nhựa,
hàng dân dụng, may mặc, chất tẩy rửa, hàng điện tử, hải sản, gạo,...
Việt Nam cũng nhập khẩu từ Lào: phụ liệu dệt da, nguyên liệu chất
dẻo, thạch cao,...
g. Quan hệ thơng mại Việt Nam - Campuchia:
Bảng 10: Xuất nhập khẩu Việt Nam - Campuchia
Đơn vị: triệu USD và %
1990 1992 1994 1996 1998 1999
Xuất khẩu 9,1 6,4 77,3 99,0 75 91
Nhập khẩu 7,7 6,7 17,7 17,7 36 13
Tổng số 16,8 13,1 95,0 116,9 111 104
Nguồn: Tổng cục Thống kê, sđd
Bộ Kế hoạch và Đầu t, 1999
Quan hệ thơng mại Việt Nam - Campuchia cũng mới đợc đẩy
mạnh trong những năm gần đây. Giá trị xuất nhập khẩu giữa hai nớc tăng
từ 16,8 triệu USD năm 1990 lên 104 triệu USD năm 1999, tăng gấp 6,2 lần.
25

×