Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

đề tài nâng cao tính tư tưởng, tính chân thực của nhà báo một định hướng đào tạo cán bộ báo chí trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.08 KB, 14 trang )

z















Nghiên cứu triết học
Đề tài:" NÂNG CAO TÍNH TƯ TƯỞNG,
TÍNH CHÂN THỰC CỦA NHÀ BÁO
MỘT ĐỊNH HƯỚNG ĐÀO TẠO CÁN
BỘ BÁO CHÍ TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP HIỆN
NAY Ở NƯỚC TA "



























































NÂNG CAO TÍNH TƯ TƯỞNG, TÍNH CHÂN THỰC CỦA NHÀ BÁO
MỘT ĐỊNH HƯỚNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ BÁO CHÍ TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP HIỆN NAY Ở NƯỚC TA


PHẠM NGỌC QUANG
(*)
Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương khoá X Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu
mới, bài viết phân tích và làm sáng tỏ tính tư tưởng và tính chân
thực của sản phẩm báo chí nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá và

hội nhập quốc tế. Qua đó, bài viết chỉ ra vai trò của tính tư tưởng và
tính chân thực của sản phẩm báo chí nước ta đối với sự phát triển
của đất nước. Cuối cùng, bài viết đưa ra một số đề xuất nhằm góp
phần nâng cao tính tư tưởng và tính chân thực cho học viên báo chí.

Khi xác định tính chất của báo chí ở Việt Nam hiện nay, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X Về
công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới, đã nhấn mạnh
5 điểm sau đây: tính tư tưởng, tính chân thực, tính nhân dân, tính
chiến đấu và tính đa dạng(1). Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề
cập tới tính tư tưởng và tính chân thực. Hơn nữa, “hoạt động báo
chí” là một khái niệm rất rộng, bao quát từ khâu tuyển chọn, đào tạo,
bố trí, sử dụng phóng viên báo chí; thiết kế và vận hành bộ máy làm
công tác báo chí, quản lý báo chí thích hợp với nhiệm vụ chính trị
của từng thời kỳ,… đến khâu thâm nhập thực tế để thu thập thông
Đ
tin, xử lý thông tin nhằm hình thành sản phẩm báo chí; biên tập; xã
hội hóa sản phẩm báo chí; theo dõi sự thâm nhập của sản phẩm đó
vào xã hội, tác động tích cực hoặc tiêu cực của sản phẩm đó tới tư
tưởng và hành động của con người; những biến đổi thực tế xã hội
dưới tác động của sản phẩm đó; sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để
có sản phẩm báo chí với tác động hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn tới
cuộc sống… Do khuôn khổ của một bài viết, chúng tôi không thể
làm rõ tính tư tưởng và tính chân thực của tất cả các khâu đó, chỉ xin
đề cập ở khâu: nội dung sản phẩm báo chí và cần định hướng đào tạo
như thế nào để có phóng viên báo chí có năng lực tạo ra những sản
phẩm như vậy.
1. Tính tư tưởng, tính chân thực của sản phẩm báo chí nước ta
trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
Cách mạng khoa học và công nghệ, mà cốt lõi là cách mạng thông

tin – nhân tố cơ bản nhất dẫn tới toàn cầu hoá – làm cho không gian
dường như ngày càng hẹp lại, thời gian ngày càng bị dồn nén. Tình
hình đó khiến cho các sản phẩm báo chí có tác động lan toả rất
nhanh, khiến cho mỗi người đều có cảm nhận dường như mình đang
sống ngay trong sự kiện diễn ra cách xa hàng vạn cây số; mặt khác,
nó cũng đòi hỏi các sản phẩm báo chí phải hết sức tinh lọc, thể hiện
tập trung nhất, ngắn gọn nhất tư tưởng chủ đạo cần chuyển tải. Thêm
vào đó, sự đúng sai của thông tin có phạm vi tác động khôn lường.
Bởi vậy, bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật của sản phẩm báo chí
là điều kiện cơ bản làm cho sản phẩm đó có tác động tích cực tới sự
phát triển xã hội, tới sự hiểu biết và cảm thông, chia sẻ giữa các quốc
gia trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay.
Điểm cốt lõi nhất trong tính tư tưởng của sản phẩm báo chí nước ta
là phải thể hiện được quan điểm: Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà
nước, của các tổ chức chính trị – xã hội và là diễn đàn của nhân
dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và
hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật(2) nhằm góp phần phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước và nhân
dân trong quá trình đổi mới vì chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Khi đánh giá sức mạnh của báo chí đối với sự thay đổi xã hội, lâu
nay, nhiều người vẫn cho rằng, báo chí là cơ quan quyền lực thứ tư.
Nói như vậy là đúng, song cần nhấn mạnh khía cạnh là cơ quan
quyền lực chính trị thứ tư. Nhấn khía cạnh này cốt để lưu ý tính tư
tưởng chính trị của báo chí. Không ít lần giới truyền thông tư bản
chủ nghĩa rêu rao về tính vô tư, tính trung lập, tính phi chính trị của
báo chí; song, trong thực tế, họ lại rất chặt chẽ trong định hướng tư
tưởng, định hướng chính trị của báo chí. Việc đưa tin của các phóng
viên phương Tây về cuộc chiến ở Irắc, về các cuộc bầu cử ở một số
nước nằm trong mưu đồ thực hiện chiến lược “cách mạng hoa
hồng”, “cách mạng hoa tuy líp”, “cách mạng sắc mầu”,… cho chúng

ta những minh chứng rõ rệt về vấn đề này.
Còn theo quan điểm của Đảng ta, “báo chí là tiếng nói của Đảng,
Nhà nước, của tổ chức chính trị – xã hội và là diễn đàn của nhân
dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật”(3), nghĩa là, báo chí
phải mang tính tư tưởng sâu sắc. Tính tư tưởng quan trọng nhất là
người làm báo phải đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong quá trình đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sớm đưa nước ta
thoát khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việc hiện thực hoá tính
tư tưởng đó là biện pháp tốt nhất để báo chí góp phần tích cực vào việc
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, củng cố, tăng
cường sự thống nhất về tư tưởng, chính trị trong Đảng, sự đồng thuận
về chính trị và tinh thần trong nhân dân(4).
Muốn hoàn thành nhiệm vụ đó, qua sản phẩm báo chí của mình,
phóng viên phải góp phần khơi dậy ý chí quật cường của dân tộc, ý
chí quyết tâm thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, vươn lên
sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Liên quan tới vấn đề này,
báo chí cần được định hướng vào việc phát huy vai trò của nhân tố
con người Việt Nam – nhân tố nội lực căn bản nhất, quan trọng nhất
cho sự phát triển đất nước. Bằng những sản phẩm báo chí của mình,
phóng viên phải thể hiện được năng lực phát hiện những nhân tố mới
cả trong cách nghĩ lẫn cách làm để có thể mang lại hiệu quả cao
trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội; chăm lo vun trồng, nuôi
dưỡng, nhân rộng những nhân tố mới,… Đó là một đòi hỏi tất yếu
đối với người làm báo ở Việt Nam lúc này.
Song, dừng lại như vậy là phiến diện, một chiều. Mọi sự vật nói
chung, con người Việt Nam nói riêng đều bao hàm mâu thuẫn trong

bản thân mình. Vai trò động lực của con người trong sự phát triển xã
hội chỉ được phát huy, khi nó biết khắc phục có hiệu quả những
“phản động lực của sự phát triển” tồn tại ngay trong bản thân mình.
Tự ý thức được mặt trái tồn tại ngay trong từng con người cũng như
trong cộng đồng xã hội là không dễ. Sản phẩm báo chí cần đóng vai
trò là gương soi để mỗi người, mỗi cộng đồng nhận ra mặt mạnh,
mặt yếu của mình để tìm cách phát huy, hoặc khắc phục. Do vậy,
tính tư tưởng không những không loại trừ, mà còn đòi hỏi phóng
viên phải phát hiện đúng và trúng những nhân tố cản trở, những mặt
trái ở từng con người cũng như trong cả cộng đồng; phân tích, mổ xẻ
sâu sắc theo hướng làm rõ những nguyên nhân căn bản của các nhân
tố tiêu cực đó, hoàn cảnh nào đã làm xuất hiện những nhân tố ấy,
con đường, giải pháp khắc phục chúng. Đó không phải là sự phê
phán mang tính phá hủy, mà là một sự phê phán mang tính xây
dựng, mang tính sáng tạo, có tác động tích cực không kém sự biểu
dương, động viên mặt tốt ở con người. Sự phê phán như vậy chỉ có
được khi người phê phán có cái tâm trong sáng, có động cơ lành
mạnh, thực sự vì nước, vì dân, không vụ lợi vì một khúc mắc cá nhân
nào đó.
Tính tư tưởng của báo chí còn thể hiện vai trò của nó trong việc góp
phần tạo lập, củng cố sự thống nhất tư tưởng đối với đường lối, quan
điểm mang tính cách mạng và khoa học của Đảng, chính sách, pháp
luật đúng đắn của Nhà nước, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong
xã hội, sự đồng thuận trong nhân dân. Nhiệm vụ này ngày càng trở
thành đòi hỏi cấp bách đối với mỗi nhà báo khi “trong Đảng đã xuất
hiện các ý kiến khác nhau về một số vấn đề cơ bản liên quan đến
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng
tới sự thống nhất tư tưởng. Trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể
cả trong những lực lượng nòng cốt, gắn bó với Đảng, với chế độ, đã
phát sinh một số vấn đề tư tưởng, tâm trạng bức xúc đáng lo ngại,

ảnh hưởng tới tính đồng thuận xã hội. Các phần tử cơ hội chính trị
trong nước móc nối với thế lực thù địch, phản động ở nước ngoài
xuyên tạc, vu cáo, chống phá quyết liệt Đảng, Nhà nước ta trên lĩnh
vực chính trị, tư tưởng”(5).
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong nhân dân phải
dựa trên lý trí khoa học mới bền vững và có khả năng kiên định
trong mọi tình huống. Trong vấn đề này, tính tư tưởng của báo chí
cách mạng không chỉ có nghĩa là làm cho nhân dân quán triệt tư
tưởng, quan điểm chỉ đạo của Đảng, thấy được tính đúng đắn của
các tư tưởng, quan điểm đó để vượt qua mọi khó khăn, thách thức,
nhằm hiện thực hoá có hiệu quả cao nhất, mà còn đòi hỏi phóng viên
phải thâm nhập sâu vào thực tiễn để phát hiện ra những sự bất cập có
thể có của một vài tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cụ thể nào đó. Bằng
sản phẩm báo chí của mình, phóng viên góp phần đề xuất các ý
tưởng đã được rút ra từ thực tiễn để Đảng tiếp tục hoàn thiện hệ
thống quan điểm chỉ đạo của mình. Như vậy, tính tư tưởng của báo
chí được thực hiện không phải theo nghĩa thụ động, một chiều, mà
còn được thực hiện theo chiều hướng chủ động, tích cực tác động trở
lại chủ thể lãnh đạo, quản lý báo chí để các chủ thể đó không ngừng
hoàn thiện bản thân mình; nhờ vậy, vị trí, vai trò của các chủ thể đó
không ngừng được nâng cao.
Trong giai đoạn hiện nay, tính tư tưởng của báo chí còn thể hiện
trong cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hoà bình” mà các
thế lực đế quốc đang ra sức thực hiện đối với cách mạng nước ta. Để
thực hiện cuộc tấn công này, chủ nghĩa đế quốc đang ra sức sử dụng
con bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Do đó, báo chí phải
góp phần làm cho nhân dân hiểu rõ về mặt tư tưởng – lý luận, đâu là
đúng, đâu là sai và có sự phê phán khoa học, thuyết phục đối với các
quan điểm sai trái đó; về mặt thực tiễn, đâu là thành tựu cơ bản của
chúng ta, đâu là những khiếm khuyết khiến cho kẻ địch có thể lợi

dụng; từ đó đề xuất những kiến nghị để khắc phục. Nêu lên điều đó
để khẳng định rằng, chúng ta cần có một thái độ khách quan, khoa
học trước những sự phê phán – dù bất kỳ từ lực lượng nào.
Tính chân thật của báo chí cách mạng đòi hỏi phải thông tin trung
thực về mọi mặt tình hình đất nước và thế giới, song lại phải phù
hợp với lợi ích của đất nước, của nhân dân. Bởi lẽ, lợi ích của sự
phát triển đất nước, lợi ích chính đáng của nhân dân phù hợp với quy
luật tiến bộ xã hội là tối thượng. Mọi suy tư và hành động phải lấy
đó làm định hướng giá trị.
Sức mạnh của chúng ta chính là ở sự thật. Sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta đang tiến hành là phù hợp với quy luật
khách quan của sự phát triển xã hội. Cho nên, báo chí càng nói đúng
sự thật bao nhiêu, càng giúp chúng ta ý thức rõ được con đường phát
triển của chúng ta bấy nhiêu. Sự thật nào đi ngược lại quy luật phát
triển lịch sử thì cần khắc phục. Sự thật nào phù hợp quy luật phát
triển thì cần được phát huy, dù lúc đầu nó còn non yếu, nhỏ nhoi,
thậm chí bị cái cũ lấn át. Phê phán những sự thật đi trái quy luật, đẩy
lùi ảnh hưởng của chúng trong đời sống xã hội; ủng hộ những sự thật
đúng đắn, phù hợp yêu cầu của quy luật phát triển đất nước, làm cho
sự thật đó thâm nhập sâu rộng vào nhân dân để định hướng hoạt
động của họ là sức mạnh của báo chí cách mạng, là nghĩa vụ và
trách nhiệm của người làm báo.
Mặt khác, “tính chân thật của báo chí” cũng cần được hiểu một cách
biện chứng. Một khi đã khẳng định rằng, lợi ích của đất nước, của
nhân dân là tối thượng, thì tính chân thật cũng phải lấy đó làm định
hướng, làm chuẩn mực. Điều đó không có nghĩa là uốn cong sự thật
cho phù hợp với lợi ích của sự phát triển đất nước, với lợi ích của
nhân dân, mà chủ yếu liên quan tới thời điểm nói sự thật và sự cần
thiết hay không (chưa) cần thiết phải đưa sự thật nào đó lên các
phương tiện truyền thông đại chúng. Không thể vì tính chân thật mà

trong thời chiến báo chí có thể công bố mục tiêu, địa điểm sẽ diễn ra
trận đánh, tiềm lực quân sự thực tế, tình hình bố trí binh lực của
chúng ta… Ngay trong thời bình, cũng không thể vì tính chân thật
mà báo chí có thể đưa những tin gây bất lợi đến dư luận trong nước
và quốc tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng, Nhà nước,
gây phân ly xã hội… Chẳng hạn, thông tin những vấn đề có thể gây
tranh cãi, mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế; những vấn đề thuộc lịch
sử đất nước, lịch sử dân tộc chưa được cơ quan có thẩm quyền kết
luận; các vụ án lớn đang trong quá trình điều tra; vấn đề có thể gây
tác hại lớn đến hoạt động quản lý giá cả; về những hoạt động tâm
linh, ngoại cảm chưa được các cơ quan có thẩm quyền kết luận chính
thức…
Qua đó cho thấy, tính tư tưởng và tính chân thực có quan hệ chặt chẽ
với nhau; trong đó, tính tư tưởng đòi hỏi phải có tính chân thực và
ngược lại, tính chân thực phải được xử lý trên tinh thần bảo đảm tính
tư tưởng của sản phẩm báo chí.
2. Đổi mới công tác đào tạo góp phần nâng cao tính tư tưởng, tính
chân thực cho học viên báo chí
Khi đề cập vấn đề đổi mới công tác đào tạo phóng viên báo chí,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá X Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trong tình hình mới
viết: “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo,
bồi dưỡng phẩm chất chính trị, trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên
môn, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ những người làm báo”(6). Để
thực hiện tư tưởng chỉ đạo này, liên quan tới việc nâng cao tính tư
tưởng, tính chân thật của báo chí, việc đổi mới công tác đào tạo
phóng viên báo chí nên được triển khai theo hướng sau đây:
Một là, làm cho học viên nắm được thực chất cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
quan điểm của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà

nước và nâng cao kỹ năng thể hiện nhận thức đó trong sản phẩm của
mình như là điều kiện tiên quyết bảo đảm tính tư tưởng của sản
phẩm báo chí. Bên cạnh đó, cần phải thấy rằng, khi nói đến thực chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, điều quan trọng nhất, có sức trường tồn nhất là giá trị phương
pháp luận mang tính cách mạng và khoa học mà lý luận đó, tư tưởng
đó mang lại. Phương pháp được nói tới ở đây chính là phương pháp
biện chứng duy vật; trong đó, “tính khách quan của sự xem xét” và
sự “thống nhất giữa lý luận với thực tiễn” là hai trong số năm đòi hỏi
quan trọng của phương pháp này.
Quán triệt “tính khách quan của sự xem xét” chính là cơ sở xác lập,
củng cố tính chân thực của báo chí; nó đòi hỏi sự vật như thế nào thì
phải phản ánh đúng như thế, không thêm gì vào cho nó, cũng không
bớt gì của nó. Việc thực hiện cho đúng yêu cầu này hoàn toàn không
đơn giản, do nó bị chi phối bởi năng lực, tâm trạng, mục đích và
động cơ của chủ thể phản ánh. Chẳng hạn, cùng một sự kiện diễn ra
trong thực tế, đối với các phóng viên có tâm trạng khác nhau sẽ khai
thác khía cạnh khác nhau, đưa ra nhận định khác nhau về sự kiện đó.
Làm cho tâm trạng của người phóng viên hoà quyện với tâm trạng
của nhân dân là điều kiện then chốt để phản ánh chân thực sự kiện.
Nói cách khác, người phóng viên phải sống cuộc sống của nhân dân,
hoà quyện vào nhân dân; lấy nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân
dân, của đất nước làm lợi ích của chính mình. Khi đó, báo chí không
chỉ có tính chân thật, mà còn có cả tính tư tưởng.
Quan điểm về sự “thống nhất giữa lý luận với thực tiễn” trong hoạt
động báo chí đòi hỏi sản phẩm báo chí phải xuất phát từ thực tiễn
cuộc sống, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, mang tính định hướng cho
hoạt động thực tiễn của nhân dân vì sự phát triển, tiến bộ của đất
nước và con người. Muốn vậy, người phóng viên cần dấn thân vào
cuộc sống, thâm nhập thực tiễn không ngừng biến đổi để kịp thời

nắm bắt những yêu cầu nêu trên của sản phẩm báo chí.
Qua đó cho thấy, việc đổi mới giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước phải tập trung làm rõ nội dung và cơ sở
phương pháp luận của các vấn đề có liên quan.
Hai là, phải coi trọng giáo dục phẩm chất đạo đức của người làm
báo; trong đó, cần đặc biệt quan tâm giáo dục chính trị – tư tưởng,
tính trung thực trong cuộc sống nói chung, trong tác nghiệp nói
riêng.
Trong giai đoạn hiện nay, trọng tâm giáo dục tư tưởng đạo đức là
làm tốt hơn nữa Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, nâng cao tính thực chất, không chạy theo bệnh
hình thức, mang tính phong trào hời hợt, đánh trống bỏ dùi.
Việc giáo dục tính trung thực phải được thể hiện ngay ở mỗi buổi lên
lớp, trong nội dung mỗi bài giảng. Nói cách khác, đó là phải bắt đầu
từ tính trung thực của người thầy. Việc giáo dục tính trung thực phải
được thể hiện ngay ở mỗi buổi xêmina, toạ đàm, trao đổi trên lớp.
Học viên phải có đủ bản lĩnh nói ra suy nghĩ thật của mình về vấn đề
được nêu; đồng thời, qua tranh luận, thảo luận và trên cơ sở thực tiễn
mà kết luận đúng, sai. Bởi vì, trong tư tưởng, lý luận, mặc dù chân lý
được phát hiện ra từ thực tiễn và qua thực tiễn, nhưng sự tranh luận
khoa học trên cơ sở thực tiễn là một hướng rất quan trọng để tìm ra
chân lý. Tiền đề để có tranh luận, thảo luận là có ý kiến khác nhau.
Đường lối đổi mới của Đảng ta từng bước được hoàn thiện một phần
quan trọng là nhờ điều đó. Trong khuôn khổ lớp học lại càng phải
xem trọng vấn đề này. Tuyệt đối không định hướng, kết luận trước,
không áp đặt kết luận cho người học. Trái lại, cần tạo cho họ sự chủ
động tối đa trong việc đóng góp trí tuệ của mình vào việc đưa ra kết
luận đúng đắn.
Ba là, làm cho người học hiểu rõ sự thống nhất hữu cơ giữa tính tư

tưởng, tính chân thực với nghĩa vụ công dân, trách nhiệm xã hội của
người làm báo.
Một sự kiện có thực được đưa tin chi tiết tới mức nào, chiều sâu và
tính phức tạp ra sao, công bố ở thời điểm nào để có lợi nhất cho
nhân dân, cho đất nước là một sự thể hiện rõ nét tinh thần trách
nhiệm xã hội của người làm báo. Sự tính toán, cân nhắc thấu đáo vấn
đề này đòi hỏi người phóng viên phải có sự nhạy cảm chính trị, có
khả năng dự báo tác động tích cực, tiêu cực trong ngắn hạn, trung và
dài hạn khi thông tin đó được đưa ra… Do đó, bằng những cách làm
với nội dung thích hợp, việc nâng cao tính nhạy cảm chính trị cho
học viên báo chí là một trách nhiệm không thể xem nhẹ trong công
tác đào tạo ở lĩnh vực này.
Nói tóm lại, việc đổi mới công tác đào tạo phóng viên báo chí nhằm
nâng cao tính tư tưởng, tính chân thực của sản phẩm báo chí do họ
tạo ra đòi hỏi phải có một hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ.
Trong đó, theo chúng tôi, ba điểm nêu trên là quan trọng nhất, trực
tiếp nhất. Việc hiện thực hoá ba điểm đó trong mối liên hệ hữu cơ
với các phương hướng khác chắc chắn sẽ góp phần đào tạo nên
những phóng viên đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất
nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập hiện nay.r

(*) Giáo sư, Tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh.
(1) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2006, tr.42 - 43.
(2) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.42.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.42 - 43.
(4) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.40.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.34.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.51.



×