………… o0o…………
Nghiên cứu triết học
Đề tài:" DẠY VÀ HỌC TRIẾT HỌC MÁC -
LÊNIN Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HOÁ "
DẠY VÀ HỌC TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Ở VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH TOÀN CẦU HOÁ
TRẦN ĐĂNG SINH (*)
Bài viết đề cập đến vấn đề đổi mới hoạt động dạy – học triết học Mác - Lênin
ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá. Theo tác giả, triết học Mác - Lênin
có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, để phát huy ngày càng tốt hơn vai trò đó
của triết học Mác - Lênin, cần đổi mới nội dung và phương pháp dạy – học
triết học Mác - Lênin. Đây là một đòi hỏi khách quan được đặt ra cho cả
người dạy lẫn người học, cho cả xã hội lẫn những người trực tiếp làm công
tác quản lý giáo dục.
Từ khi triết học ra đời đến nay, thế giới đã có nhiều đổi thay, song nhu cầu
hiểu biết và sự say mê tìm tòi, khám phá những quy luật chung nhất của thế
giới (giới tự nhiên, xã hội và con người) vẫn luôn thường trực đối với mỗi
con người, mỗi quốc gia, dân tộc. Tuy không phải là “khoa học của mọi khoa
học” và hình thức phản ánh thế giới của triết học cũng đã khác, song vai trò
của nó không hề giảm đi mà ngược lại, càng thể hiện như một công cụ sắc
bén để nhận thức và cải tạo thế giới của con người.
Trong xã hội hiện đại, các khoa học chuyên ngành giúp con người hiểu sâu
một lĩnh vực cụ thể nào đó của thế giới, còn triết học khái quát những hiểu
biết cụ thể ấy để chỉ ra những nét đặc trưng nhất của thế giới, xem xét nó dưới
dạng một chỉnh thể thống nhất trong tính đa dạng, chỉ ra các mối quan hệ bản
chất, bên trong và tìm ra những quy luật vận động, biến đổi, phát triển của nó
để trên cơ sở đó, định hướng hoạt động của con người theo hướng có lợi nhất.
Thế giới ngày nay đang diễn ra những biến đổi hết sức sâu sắc, đã và đang bị
chi phối bởi xu thế toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá có tính hai mặt, vừa tạo ra thời cơ phát triển, vừa đặt ra những
thách thức to lớn đối với các quốc gia, dân tộc. Một dân tộc muốn tồn tại và
phát triển không thể không tính đến những vận hội và thách thức do toàn cầu
hoá mang lại. Toàn cầu hoá làm gia tăng sự gắn kết, sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia, dân tộc; giữa các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
toàn thế giới trong quá trình phát triển của nó. Để hội nhập, phát triển mà
không bị “hoà tan” trước xu hướng toàn cầu hoá, cần phải phát triển khoa học
- công nghệ hiện đại, giáo dục tiên tiến. Ph.Ăngghen đã từng nói: “Một dân
tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư
duy lý luận”, “nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng
năng lực của người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải phát triển hoàn thiện, và
muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là
nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”(1).
Việt Nam đang từng bước hội nhập với thế giới. Để hội nhập và phát triển,
Đảng ta chủ trương tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, Đảng đặc biệt chú trọng tới
nhân tố con người, coi phát huy nhân tố con người, khơi dậy tiềm năng vô tận
của con người là nhân tố quyết định thắng lợi trên con đường xây dựng xã hội
theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nguồn lực con người là vô tận trong quá trình khai thác và sử dụng để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nó còn là nhân tố quyết định
hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên khác, như tài nguyên thiên nhiên,
nguồn vốn, thành tựu khoa học và công nghệ… Để có nguồn nhân lực có chất
lượng cao, đủ sức đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, cần phải phát triển con người toàn diện cả về thể lực, đạo đức
lẫn tài năng; cần xây dựng con người có kỹ năng lao động giỏi, có ý chí và bản
lĩnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Triết học Mác - Lênin là khoa học góp phần tích cực vào việc hoạch định
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo đó, công tác dạy và học triết học Mác -
Lênin ở Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá, hơn lúc nào hết, phải được đổi
mới cả về nội dung lẫn phương pháp. Giảng viên ở các trường đại học và cao
đẳng khi dạy triết học Mác – Lênin không thể chỉ dừng lại ở việc giảng các
nguyên lý, quy luật, các cặp phạm trù mà quan trọng hơn, phải chỉ ra được
các quy luật cơ bản, những định hướng lớn để phát triển đất nước trong xu thế
hội nhập. Đường lối của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,… thể hiện sự vận
dụng một cách sáng tạo triết học Mác – Lênin ở Việt Nam trong thời gian
qua. Tuy nhiên, trong bước đường đi tới, công tác giảng dạy triết học Mác –
Lênin cần chỉ ra những bước đi thích hợp cho mỗi giai đoạn phát triển của đất
nước. Phát triển đất nước phải là phát triển bền vững, chứ không phải là phát
triển bằng mọi giá.
Trước tác động của toàn cầu hoá, xã hội đang vận động và biến đổi từng ngày.
Việc dạy và học triết học Mác - Lênin ở nước ta chưa bao giờ lại phải đối mặt
với những thách thức lớn như hiện nay. Xu hướng toàn cầu hoá, trong đó có toàn
cầu hoá về văn hoá và giáo dục, buộc chúng ta phải xem lại nội dung và phương
pháp dạy, học triết học Mác - Lênin theo kiểu truyền thống. Đổi mới nội dung và
phương pháp giảng dạy là tất yếu, song đổi mới cái gì, đổi mới như thế nào là
những vấn đề cần được bàn bạc và cân nhắc hết sức cẩn trọng trước khi đưa ra
một quyết định có tính chất bước ngoặt giữa cái truyền thống và cái hiện đại.
Một mặt, phải chỉ ra được những hạn chế của phương pháp dạy, học truyền
thống; mặt khác, phải học hỏi, tiếp thu những tinh hoa trong hoạt động dạy, học
triết học của các nước có nền triết học phát triển cả về nội dung lẫn phương
pháp. Chúng ta nên chú trọng nâng cao chất lượng dạy và học bằng việc chuyển
tải những giá trị của triết học Mác – Lênin, như thế giới quan duy vật biện
chứng, phép biện chứng duy vật… đã được thực tiễn kiểm nghiệm hơn là cắt xén
hoặc lồng ghép không dựa trên cơ sở khoa học các bộ phận cấu thành chủ nghĩa
Mác – Lênin, coi đó là “đổi mới ” dạy và học các môn khoa học Mác – Lênin.
Bằng cách đó, chúng ta chẳng những không phai làm mờ, mà còn làm sâu sắc
hơn vai trò của triết học Mác – Lênin – vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong
sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.
Nhiệm vụ dạy và học triết học Mác - Lênin ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở
lý luận khoa học và thực tiễn cách mạng, phải góp phần luận chứng và khẳng
định quan điểm của Đảng xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng, coi phép biện chứng là
công cụ nhận thức vĩ đại giúp chúng ta hiểu đựợc xu hướng vận động tất yếu,
khách quan của xã hội hiện đại, đồng thời củng cố niềm tin của quần chúng
nhân dân vào sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Việc dạy và học triết học Mác - Lênin ở Việt Nam ngày nay không nên tiến
hành theo kiểu “đóng kín”, “một chiều”, mà nên theo hướng “mở”. Những
nguyên lý, quy luật, phạm trù của triết học Mác - Lênin phải được lý giải,
minh hoạ bằng thực tiễn sinh động, phải được thẩm thấu qua việc nghiên cứu
lịch sử triết học một cách có hệ thống. Trước khi dạy các nội dung của triết học
Mác – Lênin, cần cho sinh viên hiểu được lịch sử triết học, bởi triết học Mác -
Lênin là sự tiếp nối lịch sử triết học nhân loại ở một trình độ cao. Căn cứ vào
thực tiễn xã hội hiện đại, bổ sung và phát triển những luận điểm còn nguyên giá
trị, phù hợp với điều kiện mới của thời đại mới, đồng thời cũng chỉ ra những
luận điểm không còn phù hợp với điều kiện mới hiện nay.
Các giá trị văn hoá truyền thống, như tính nhân văn, tính khoan dung, hoà
đồng, chủ nghĩa yêu nước,… phải được gìn giữ, bảo lưu và phát triển. Mặt
khác, chúng ta cũng hết sức chú trọng tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hoá
nhân loại, trong đó có văn hoá triết học. Cần đẩy mạnh việc giao lưu, học hỏi
kinh nghiệm của các nước đã vận dụng sáng tạo và thành công triết học Mác-
Lênin vào công cuộc phát triển đất nước, như Trung Quốc; nghiên cứu một
cách có hệ thống với thái độ khách quan và khoa học đối với các hệ thống
triết học ngoài mácxít, tiếp thu những nhân tố hợp lý, chỉ rõ và phê phán trên
cơ sở khoa học những yếu tố bất hợp lý của các hệ thống đó.
Dạy và học là một quá trình có điểm bắt đầu và dường như không có điểm
kết thúc. Có chăng chỉ là sự kết thúc một giai đoạn trong cả quá trình dạy và
học suốt đời của cả người dạy lẫn người học. Trong thời đại kinh tế tri thức,
học suốt đời là phương châm hành động có ý nghĩa đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển không chỉ đối với một con người, mà còn có ý nghĩa đối với một
quốc gia, dân tộc.
Quá trình dạy và học môn triết học Mác - Lênin cũng giống các môn học
khác, thường xuất hiện một số mâu thuẫn, như:
- Mâu thuẫn giữa mục đích, yêu cầu của môn học với khả năng nhận thức của
người học.
- Mâu thuẫn giữa nội dung chương trình với thời gian dạy và học.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy với hiện trạng của
đội ngũ giáo viên (bao gồm trình độ, năng lực, điều kiện sống, sức khoẻ…),
với cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học.
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn triết học Mác - Lênin, chúng ta cần
phải giải quyết tốt các mâu thuẫn nội tại đó của quá trình này.
Chất lượng dạy và học chỉ có thể đạt được trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu,
chương trình, nội dung được xác định một cách khoa học.
Ở nước ta, quá trình dạy và học môn triết học Mác - Lênin chỉ thực sự bắt đầu
ở bậc đại học và cao đẳng. Để nâng cao chất lượng của môn học này ở các
trường đại học và cao đẳng, cần nhận thức lại một cách đúng đắn vị trí, vai trò
của môn học trong hệ thống nội dung chương trình đào tạo của nhà trường.
Vai trò của môn triết học Mác - Lênin được thể hiện ở chỗ:
- Một là, triết học Mác - Lênin góp phần hình thành thế giới quan khoa học
cho sinh viên, giúp họ có cái nhìn khách quan, khoa học về thế giới, xã hội,
con người vốn rất phức tạp, đa dạng và luôn vận động, biến đổi; trên cơ sở
đó, có nhân sinh quan đúng đắn để định hướng hoạt động trong cuộc sống,
tránh được sự sa ngã trước những thử thách, cám dỗ của văn hoá ngoại lai.
- Hai là, triết học Mác - Lênin góp phần vào sự hình thành và phát triển trí
tuệ, nâng cao năng lực, trình độ tư duy khái quát, lôgíc và hệ thống của sinh
viên.
- Ba là, triết học Mác - Lênin còn giúp cho sinh viên bồi dưỡng và nâng cao
bản lĩnh chính trị, đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hoà bình“ của các
thế lực thù địch trong và ngoài nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng, phòng chống các tệ nạn xã hội một cách có hiệu quả.
- Bốn là, triết học Mác - Lênin góp phần hình thành những giá trị văn hoá, lý
tưởng đạo đức, lối sống, niềm tin của sinh viên trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước do Đảng lãnh đạo. Góp phần động viên họ đóng
góp công sức của mình vào công cuộc xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, biết gắn nhu cầu,
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của cá nhân với lợi ích của giai cấp, quốc
gia, dân tộc.
Với những vai trò quan trọng đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chọn
triết học Mác- Lênin là một trong những môn thi tốt nghiệp trong các trường
đại học và cao đẳng. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu đúng vai trò của
môn học này.
Có một số sinh viên cho rằng, đây là môn học thuần tuý chính trị, nặng về
đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, không liên quan gì tới
chuyên môn sau này của mình; vì thế, học chỉ để thi cho qua, học có tính đối
phó.
Cũng có phụ huynh không muốn cho con em mình đầu tư nhiều thời gian và
công sức cho môn học và theo họ, chỉ nên tập trung vào những môn chuyên
ngành…
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn triết học Mác - Lênin, ngoài những
cố gắng của sinh viên, còn cần phải nâng cao trình độ, năng lực giảng dạy và
nghiên cứu khoa học của đội ngũ giáo viên. Thực tế cho thấy, chúng ta cần
quan tâm đúng mức tới việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, tạo điều kiện thuận
lợi cho họ được đi học để nâng cao trình độ tại các cơ sở đào tạo có uy tín ở
trong và ngoài nước, đi tập huấn, tìm hiểu thực tế chuyên môn. Mặt khác, cần
trang bị cơ sở vật chất, phương tiện giảng dạy hiện đại… Cụ thể là, tăng
cường đầu tư phòng học hiện đại; trang bị cho giáo viên phương tiện dạy học
tiên tiến, như máy tính xách tay, máy chiếu đa năng, sách báo, tạp chí chuyên
ngành, tăng cường các hoạt động khoa học với các trung tâm đào tạo lớn
trong nước và quốc tế… Động viên giáo viên dạy giỏi, thực hiện có hiệu quả
việc đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy bằng lợi ích vật chất, tôn
vinh về danh dự, tinh thần. Bên cạnh đó, cũng phải nghiêm khắc nhắc nhở,
thậm chí có hình thức kỷ luật thoả đáng đối với những giáo viên chây lười, ỷ
lại, vi phạm nội quy, quy chế đào tạo.
Thực tế giảng dạy môn triết học Mác - Lênin ở các trường đại học và cao
đẳng của nước ta trong những năm vừa qua cho thấy, để nâng cao chất lượng
giảng dạy, giáo viên không những cần có vốn kiến thức vừa cơ bản, vừa sâu
rộng, mà phải có phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng. Đối tượng
học môn triết học Mác - Lênin hệ chính quy chủ yếu là sinh viên năm thứ
nhất. Đối tượng này, một mặt, chưa quen với cách học ở bậc đại học; mặt
khác, quan trọng hơn là họ chưa được học triết học Mác - Lênin với tính cách
một khoa học. Vì vậy, khi tiếp cận môn học đòi hỏi một khả năng khái quát,
trừu tượng, hệ thống thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù triết học thì
họ không tránh khỏi những khó khăn nhất định. Nhiều sinh viên đã không
hiểu và không diễn đạt được các nội dung cơ bản nhất của bộ môn. Kết quả
học tập môn học của không ít sinh viên rất thấp và họ tỏ ra không yêu thích
môn học này.
Phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm là khâu then chốt,
quyết định trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. Để nắm bắt được nội
dung kiến thức, rèn luyện kỹ năng thực hành, sinh viên phải tự rút ra cho
mình một phương pháp học tập phù hợp. Đối với sinh viên năm thứ nhất, cần
phải rèn luyện kỹ năng nghe, viết và nói. Khi nghe giảng, sinh viên phải biết
chắt lọc những nội dung chính để ghi. Về nhà cần đọc lại vở ghi, bổ sung
những nội dung ghi thiếu hoặc chưa chính xác. Những vấn đề chưa hiểu cần
đánh dấu để hỏi giáo viên hoặc trao đổi với bạn. Trước khi học bài mới cần
phải xem lại bài cũ, đọc trước bài mới và những tài liệu có liên quan, coi tài
liệu tham khảo là một nguồn thông tin hoàn thiện bài giảng. Phải tích cực, tự
giác, chủ động tự học, tự nghiên cứu. Phương pháp nhận thức phải tiếp cận
tới phương pháp nhận thức khoa học.
Cần thừa nhận một thực tế khác là, không phải giáo viên nào cũng có khả
năng truyền đạt những kiến thức triết học Mác - Lênin trừu tượng thành
những điều đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức của sinh viên
năm thứ nhất. Buổi học dễ trở nên nhàm chán, kém hấp dẫn đối với người học
nếu giáo viên không có phương pháp phù hợp. Do vậy, giáo viên cần phải rút
kinh nghiệm sau mỗi buổi lên lớp, tự hoàn thiện, bổ sung nội dung tri thức và
phương pháp giảng dạy, không được thoả mãn với những cái đã có; phải xem
mỗi buổi dạy là một lần sáng tạo, thử nghiệm; phải có tinh thần cầu thị, chịu
khó học hỏi, tiếp thu và vận dụng phương pháp giảng dạy tiên tiến kết hợp
với phương pháp truyền thống.
Chất lượng dạy và học môn triết học Mác - Lênin chỉ có thể được nâng cao
trên cơ sở kết hợp nhân tố chủ quan với điều kiện khách quan. Xã hội, nhà
trường, các nhà quản lý giáo dục, đội ngũ giáo viên và đặc biệt là sinh viên
phải nhận thức đúng vị trí, vai trò của môn triết học Mác - Lênin; từ đó,
thường xuyên thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp dạy, học theo
hướng tích cực, thiết thực.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp thiết thực
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục các môn học nói chung và môn triết học
Mác - Lênin nói riêng. Tuy nhiên, do tính chất của thời đại, do đòi hỏi nguồn
nhân lực có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, cần phải có những biện pháp hữu hiệu để có thể
tạo ra sự chuyển biến về chất trong công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học
Mác – Lênin ở nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.r
(*) Tiến sĩ, Trưởng Bộ môn Triết học, Khoa Giáo dục chính trị, Đại học Sư
phạm Hà Nội.
(1) C. Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1994, tr. 487.