Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

cơ cở lí luận quan điểm phát triển. Vận dụng quan điểm phát triển trong Thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.96 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
--------🕮•🕮--------

BÀI THẢO LUẬN
Học phần: Triết học Mác Lê-nin
Nhóm thực hiện: Nhóm 3
Mã lớp học phần: 2278MLNP02221
Hà Nội – 2022


Giáo viên Giảng dạy
Nguyễn Thùy Liên


BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC THÀNH VIÊN
MƠN: Triết học Mác Lê-nin
Nhóm: 3
STT Họ và tên

31

Lê Thị
Giang

32

Nguyễn
Thị
Hương
Giang


33

Lê Ngọc
Cẩm Hà

34

Nguyễn
Thị Nhật
Hạ

35

Võ Thị
Hải

36

Trương
Bảo Hân

37

Ngô Minh
Hằng

Nội
dung

Lớp HP: 2278MLNP02221

Chữ

nhóm
viên

Đánh
giá

Kết luận của
giáo viên

Ghi chú


38

Ngơ Thị
Thu Hằng

39

Đỗ
Phương
Hậu

40

Ngơ Thị
Hiên


41

Phạm Thị
Hiền

42

Trình
Minh Hiển

43

Đinh
Nguyễn
Thành
Hiếu

44

Tống Duy
Hùng

45

Đỗ Thị
Hương


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN


7

LỜI CAM ĐOAN

8

LỜI MỞ ĐẦU

9

NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển
1. Khái niệm

11
11
11

a) Theo quan điểm biện chứng

11

b) Theo quan điểm siêu hình

11

2. Tính chất

11


- Tính khách quan

11

- Tính phổ biến

12

- Tính đa dạng, phong phú

12

3. Ý nghĩa

13

Thứ nhất: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận
động và phát triển.
13
Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát
triển trong thực tiễn.
13
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự
vật, hiện tượng.
14
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức
thực tiễn.
14
Chương 2. Vận dụng quan điểm phát triển trong Thời kỳ quá độ lên xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
15
1. Thực Trạng

15

a) Thành tựu

17

b) Hạn chế và những vấn đề đặt ra

21

Về lĩnh vực kinh tế

21

Về lĩnh vực phát triển văn hóa

22

2. Nguyên nhân

23

3. Giải pháp

23



a) Vấn đề xác định lộ trình và bước đi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
23
b) Vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc
tế và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
24
c) Vấn đề mơ hình và phương thức quản lý phát triển xã hội

24

d) Vấn đề đổi mới đồng bộ giữa chính trị và kinh tế

24

e) Vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam

25

f) Vấn đề đảng cầm quyền

25

g) Vấn đề động lực của đổi mới và phát triển Việt Nam trong thời
kỳ mới…
25


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài thảo luận này, tập thể nhóm ba chúng em xin được gửi lời

cảm ơn chân thành đến cô giáo Nguyễn Thị Liên đã giao đề tài và cung cấp kiến
thức cũng như hướng dẫn, giải đáp thắc mắc về đề tài. Xin được cảm ơn các
dịch giả đã biên soạn lại cuốn sách V.I Lênin Toàn tập, C.Mác và Ph.Ăng-ghen
toàn tập để chúng em học tập và tham khảo. Góp phần làm nên thành công của
bài thảo luận không thể không kể đến công sức của các thành viên trong nhóm.
Trong q trình nghiên cứu và trình bày khơng tránh khỏi những sai sót, mong
cơ và các bạn góp ý để bài thảo luận của nhóm hồn thiện hơn.
Nhóm ba xin chân thành cảm ơn!
Nhóm thảo luận,
                                                                                                             Nhóm ba 


LỜI CAM ĐOAN
Trong quá trình thực hiện đề tài thảo luận, Nhóm ba đã tìm đọc và tham khảo
một số giáo trình và tài liệu có nội dung liên quan đến bộ mơn Triết học - Mác
Lênin. Tuy nhiên, Nhóm ba xin cam đoan bài trình bày cho đề tài thảo luận
“Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm phát triển. Vận dụng quan điểm này
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay” không trùng lặp,
sao chép bất cứ bài báo cáo nào trước đó.
Nhóm thảo luận,
                                                                                                             Nhóm ba


LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử là một quá trình lịch sử - tự nhiên, vì vậy phát triển khơng bao giờ là sự
phát triển theo ý muốn chủ quan kiểu duy ý chí của con người, mà phát triển
theo năng lực nhận thức, tôn trọng và hành động theo hệ thống quy luật khách
quan của con người.
C.Mác cho rằng, vấn đề cốt lõi, có ý nghĩa chi phối của sự phát triển, đó là sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Hình thái kinh tế - xã hội mới ra đời tạo ra

khả năng giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất lên một nấc thang mới so
với hình thái kinh tế - xã hội cũ, đồng thời xây dựng và ngày càng hoàn thiện
các quan hệ sản xuất mới phù hợp. Ðó cũng là q trình con người được giải
phóng khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất cơng, phát triển tồn diện. Ðó là q trình
"sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người"
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc
và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất,
cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hồn tồn thắng lợi trên phạm vi cả
nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào
đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã
có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã
phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất
mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này,
về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn
hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài.
Trong công cuộc đổi mới, Ðảng ta, nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Ðảng và dân tộc ta. Ðảng rất quan tâm tới khoa học công nghệ, tăng
trưởng kinh tế, sự giàu có, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, năng suất lao
động,.. Chính vì vậy, hiện nay Việt Nam đã vận dụng quan điểm phát triển trong
thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Đó là phương tiện và nấc thang cho chất
lượng dân sinh và hạnh phúc của con người - mục tiêu cao nhất của sự phát
triển trong đường lối chính sách của Ðảng.




NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển 
1. Khái niệm 
a) Theo quan điểm biện chứng 
Theo quan niệm biện chứng sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến
cao. Q trình đó diễn ra dần dần, nhảy vọt đưa tới sự ra đời của cái mới thay
thế cái cũ, không phải lúc nào sự phát triển cũng diễn ra theo đường thẳng, mà
rất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước lùi tạm thời. Theo quan điểm
biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xốy ốc và hết mỗi chu
kì sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn. Quan điểm
biện chứng cũng khẳng định nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự
vật.
VD: Nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây có khuynh hướng chung là đi lên
Điều đó khơng có nghĩa mọi thành phần kinh tế đều đi lên. Không phải tất cả
các doanh nghiệp đều thuận lợi trong kinh doanh, trong thời điểm dịch covit-19
bùng phát có rất nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn. Nhìn chung kinh tế Việt
Nam từ thời kì đổi mới đến nay vẫn theo khuynh hướng đi lên nhưng không
đồng nhất các yếu tố bên trong đều phát triển.
b) Theo quan điểm siêu hình
 Theo quan điểm siêu hình phát triển chỉ là sự tăng lên, giảm thuần túy về
lượng, khơng có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi
nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vịng khép kín,
chứ khơng có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Những người theo
quan điểm siêu hình xem sự phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục,
khơng có bước quanh co, phức tạp.
Hai khái niệm gắn liền với khái niệm phát triển là tiến hóa và tiến bộ. Tiến hóa
là một dạng của phát triển, diễn ra từ từ, là sự biến đổi hình thức của tồn tại xã
hội từ đơn giản đến phức tạp. Còn tiến bộ là một quá trình biến đổi hướng tới

cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hồn thiện hơn so với
thời điểm ban đầu.
2. Tính chất 
Theo quan điểm duy vật biện chứng thì chia làm 3 tính chất cơ bản: Tính khác
quan, tính phổ biến, tính đa dạng và phong phú 
- Tính khách quan của sự phát triển được biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Đó là q trình bắt nguồn từ bản thân của sự vật, hiện tượng
là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Tính chất này là
thuộc tính tất yếu khơng phụ thuộc vào ý thức con người.


Ví dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù khơng
có con người nhưng nó vẫn phát triển.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra
trong một lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật và hiện
tượng trong quá trình, mọi giai đoạn của sự vật hiện tượng đó. Trong mỗi q
trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời phù hợp với quy
luật khách quan.
● Trong tự nhiên: Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi
của mơi trường
Ví dụ: Người ở Miền Nam ra cơng tác làm việc ở Bắc thời gian đầu với khí hậu
thay đổi họ sẽ khó chịu nhưng dần họ quen và thích nghi.
● Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến
tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Ví dụ: Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội
trước.
● Trong tư duy: Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn
hơn với tự nhiên và xã hội.
Ví dụ: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là

khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng song mỗi sự vật hiện tượng lại
có q trình phát triển không giống nhau, tồn tại ở những thời gian, không gian
khác nhau, chịu những ảnh hưởng khác nhau và sự tác động đó có thể làm thay
đổi chiều hướng quá trình phát triển của sự vật, đơi khi có thể làm sự vật, hiện
tượng thụt lùi tạm thời.
Đồng thời trong q trình phát triển của mình, sự vật cịn chịu sự tác động của
các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện. Sự tác động đó có
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đơi khi có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn
trí tuệ so với trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành
quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại. Trong thời đại hiện nay, thời
gian cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước của các quốc gia chậm phát triển
và kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đã thực hiện chúng do
đã thừa hưởng kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các quốc gia đi trước. Song vấn đề
còn ở chỗ, sự vận dụng kinh nghiệm và tận dụng sự hỗ trợ đó như thế nào lại


phụ thuộc rất lớn vào những nhà lãnh đạo và nhân dân của các nước chậm phát
triển và kém phát triển.
Để khái qt nên tính chất biến hóa của sự vật, hiện tượng, Ăng-ghen đã viết
rằng: “Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối khơng thể
dung nhau được, họ nói có là có, khơng là không. Đối với họ, một sự vật hoặc
tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại là vừa
cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ nhau…. Ngược lại tư
duy biện chứng là một tư duy mềm dẻo linh hoạt, khơng cịn biết đến những
đường ranh giới tuyệt đối nghiêm ngặt, đến những cái “hoặc là”…. “hoặc là”…
“vô điều kiện” nữa (kiểu như: “hoặc là có, hoặc là không”, hoặc tồn tại, hoặc
không tồn tại”). Tư duy biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết
bên cạnh cái “hoặc là”… hoặc là” cịn có cả cái “vừa là…. vừa là” nữa. Chẳng

hạn, theo quan điểm biện chứng, một vật hữu hình trong mỗi lúc vừa là nó, vừa
khơng phải là nó, một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A lại vừa
khơng ở vị trí A, cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau vừa khơng thể
lìa nhau được.
Theo Lênin: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó” và
ơng cũng cho rằng: “Phép biện chứng địi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các
mặt của mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó”.
3. Ý nghĩa 
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng
ta rút ra quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan
điển này đòi hỏi:
Thứ nhất: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận
động và phát triển.
Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu
trước mắt, mà cịn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng
chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng
chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
Quan điểm phát triển hồn tồn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định
kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hồn
cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng về tồn bộ sự vật
trong q trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm
trọng.


Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển
trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một q trình
biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải cơng nhận tính quanh co, phức tạp của
q trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.

Quan điểm phát triển địi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với
mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương
đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật,
hiện tượng.
Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự
vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để
thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hồn cảnh
cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ
thấp đến cao, từ kém hồn thiện đến hồn thiện hơn.
Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới
phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trị chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… cịn hợp lý của cái
cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự
phát triển.
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực
tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự
thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải ln nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm
cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.


Chương 2. Vận dụng quan điểm phát triển trong Thời kỳ quá độ
lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
1. Thực Trạng
Có hai hình thức cơ bản của TKQĐ lên CNXH:
▪ Quá độ trực tiếp - từ những nước tư bản phát triển lên CNXH
▪ Quá độ gián tiếp - từ những nước chưa qua giai đoạn phát triển TBCN lên

CNXH.
Và Việt Nam thuộc vào hình thức thứ 2, đi trực tiếp từ xã hội phong kiến lên
tới CNCS và CNXH.
Trên thực tế từ hồi đầu thế kỷ XX, CNXH đã tồn tại ở Việt Nam, song các sĩ
phu yêu nước thời bấy giờ cũng không thể vượt khỏi giới hạn của lịch sử, nghĩa
là các ông đang vươn tới ý thức hệ tư sản và chưa vượt khỏi ranh giới của ý
thức hệ. Vì thế các ơng khơng thể giải thích được chủ nghĩa tư bản đế quốc một
cách khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và khơng thể có được
một quan điểm cách mạng triệt để của giai cấp vô sản. Cũng do những giới hạn
đó của lịch sử mà nhà yêu nước Phan Bội Châu, đại biểu cho khuynh hướng
cách mạng bạo lực là một khuynh hướng thể hiện được ý chí chống ngoại xâm
của dân tộc cũng khơng thấy được bản chất của chủ nghĩa tư bản đế quốc và lực
lượng đông đảo của quần chúng. Phan Bội Châu đã nhìn nhận mâu thuẫn giữa
dân tộc ta và thực dân Pháp là mâu thuẫn giữa hai chủng tộc da trắng và da
vàng. Và ông cũng đã hy vọng nhờ vào sự giúp đỡ của nước Nhật tư bản chủ
nghĩa để chống Pháp. Với sự nhận thức khơng chính xác như vậy về đối tượng
và động lực cách mạng nên Phan Bội Châu đã không tránh khỏi những thất bại
liên tiếp. Chính vì thế mà khi viết Tự phê phán, Phan Bội Châu đã phải thốt lên:
"Than ôi! Lịch sử của tôi là lịch sử một trăm thất bại mà không một thành
cơng". Và cuối cùng một người kiên trì cách mạng bạo lực trong mấy thập kỷ
rốt cuộc lại rơi vào thuyết "Pháp - Việt đề huề".
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng thì khác, tiếp cận với học thuyết Mác - Lênin,
Người đã tìm ra phương hướng đúng đắn để phát triển đất nước và giải phóng
dân tộc, cùng với đó là sáng tạo bổ sung, phát triển lý luận để phù hợp hơn với
đặc điểm bối cảnh, tình hình cách mạng ở nước ta, xác định con đường tất yếu
đi lên CNXH và CNCS của cách mạng Việt Nam là theo con đường chung: “Tất
cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội” như chủ nghĩa Mác - Lênin đề ra.
Đó là con đường đã được Cương lĩnh đầu tiên của Đảng xác định: “làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.  Thừa
nhận tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng làm rõ đặc điểm TKQĐ lên

CNXH ở Việt Nam: “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”; “một thời kỳ
cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ


xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng”; “là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
có tính chất quá độ”. Đây chính là con đường phát triển "rút ngắn" lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Về chính trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị
của giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, nhưng phải biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó chính là
sự rút ngắn thời gian thực hiện q trình xã hội hố sản xuất tư bản chủ nghĩa
bằng con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là rút ngắn
một cách đáng kể quá trình phát triển lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chủ nghĩa
tư bản đã có vai trị lịch sử là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xã hội hoá
lao động dựa trên nền tảng chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Quá trình này đã
diễn ra một cách tự phát, tuần tự, kéo dài hàng thế kỷ cùng với những đau khổ
đối với con người. Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể
đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
tránh cho nhân dân ta những đau khổ của con đường tư bản chủ nghĩa. Sự rút
ngắn này được thực hiện thông qua việc sử dụng biện pháp kế hoạch đồng thời
với việc sử dụng biện pháp thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế nhà nước vững
mạnh đóng vai trị chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự rút ngắn
này chỉ có thể thực hiện thành cơng với điều kiện chính quyền thuộc về nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức

đầy đủ rằng sự rút ngắn ở đây không phải là cơng việc có thể làm nhanh chóng
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "tiến lên chủ nghĩa xã hội, khơng thể một
sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục" Về cơ bản phương
hướng của Người và Đảng không chỉ giải quyết được các vấn đề xã hội đời sống
của nhân dân, giải phóng được dân tộc cũng khiến cho nền kinh tế Việt Nam
phát triển.
Thừa nhận định tính phổ quát về kinh tế chính trị xã hội của TKQĐ lên
CNXH như chủ nghĩa Mác - Lênin xác định, nhưng Đảng ta lại tiến xa hơn, cụ
thể hoá, xác lập nên các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể ở những chặng
đường khác nhau của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam. Ta cũng thừa nhận những
mơ hình cơ bản về xây dựng CNXH, nhưng bổ sung, tiến tới xác lập ngày càng
đầy đủ, hoàn thiện về thể chế kinh tế, mơ hình nhà nước trong TKQĐ lên
CNXH. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra những mơ hình khái lược về xây
dựng CNXH ở những nước có trình độ phát triển và xuất phát điểm khác nhau
trong TKQĐ lên CNXH. Đảng ta đã tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo, bổ sung,
phát triển phù hợp đặc điểm chung và tình hình cụ thể ở mỗi chặng đường quá
độ đi lên CNXH ở Việt Nam.


a) Thành tựu
* Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam:
Trong quá trình đổi mới, nhờ nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình thực tiễn thế giới
và trong nước, từng bước tổng kết thực tiễn khái quát lý luận, khắc phục những
quan điểm ấu trĩ, giáo điều, cực đoan, duy ý chí và bảo thủ, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nâng cao nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua gần 30 năm đổi mới với 6 nhiệm kỳ đại hội
Đảng, mỗi kỳ đại hội đánh dấu một bước tiến rõ rệt trong nhận thức lý luận của
Đảng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại…

trên con đường đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu lý
luận về chủ nghĩa xã hội, về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể
hiện tập trung trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đội lên
chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định tám
đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; cón nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước
trên thế giới”. Cương lĩnh cũng xác định tám phương hướng cơ bản và tám mối
quan hệ lớn cần phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt. Có thể coi
đó là đường lối chung để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
* Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
Nhờ có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và giải pháp phù hợp, trong gần
30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn
tượng, được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên
nhiều. Sau 10 năm đổi mới (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tếxã hội; sau 25 năm đổi mới (năm 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Trong giai
đoạn 2001- 2010, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD


gấp 3,26 lần so với năm 2000, năm 2011 khoảng 170 tỷ USD. GDP bình quân
đầu người năm 2010 đạt 1168 USD, năm 2014 ước tính khoảng 1900 USD/
người. Trong 5 năm 2011-2015, do sự tác động của khủng hoảng tài chính thê
giới, suy thối kinh tế tồn cầu nên nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn,

tốc độ tăng GDP bị giảm sút. Tuy vậy, tốc độ tăng GDP bình quân vẫn ở mức
khá, ước đạt 5,8%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 năm
2006-2010 đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn
ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấn hớn 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải
ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 17,5%. Cơ cấu kinh tế được chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng khu vực cơng nghiệp và
dịch vụ tăng lên, khu vực nông nghiệp giảm xuống. Năm 2010, trong cơ cấu
GDP, khu vực công nghiệp chiếm 41,1%, khu vực dịch vụ chiếm 38,3%, khu
vực nông nghiệp chiếm 20,6%. Kết cấu hạ tầng ngày càng được xây dựng hiện
đại, đồng bộ; nguồn nhân lực qua đào tạo ngày càng tăng lên (năm 2013 là
49%), đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
* Phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội:
Đảng ta đã đề ra chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội ngay trong từng chính sách
và từng bước phát triển. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài
hịa với phát triển kinh tế; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát
triển, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa thế
giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm phong phú hơn đời
sống văn hóa, con người Việt Nam.
Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi
phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng
đầu. Tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực hiện đồng
bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp
học và ngành học. Mở rộng giáo dục mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo
dục tiểu học và trung học cơ sở. Phát triển mạnh dạy nghề và giáo dục chuyên
nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Phát triển khoa học công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát
triển nhanh và bền vững, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế; nâng tỷ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng

hợp (TFT) vào tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ 3 nhiệm vụ chủ yếu: Nâng cao
năng lực khoa học và công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu


ứng dụng. Trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ từng
bước phát triển kinh tế tri thức theo một số lộ trình hợp lý.
Trong những năm đổi mới, Việt Nam đã rất quan tâm thực hiện các chính sác
xã hội vì hạnh phúc của con người, coi đây là thể hiện tính ưu việt, bản chất của
chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là khắc phục mặt trái của cơ chế kinh tế thị
trường. Chính sách xã hội bảo đảm và khơng ngững nâng cao đời sống vật chất
của mọi thành viên xã hội về ăn, ở, đi lại, lao động, học tập, nghỉ ngơi, chữa
bệnh và nâng cao thể chất. Mỗi năm tạo bình quân 1,5 đến 1,6 triệu việc làm
mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Xây dựng và triển khai Luật Việc làm; nghiên cứu
xây dựng chương trình việc làm cơng.
Trong gần 30 năm đổi mới, chính sách nhất quán cuả Đảng và Nhà nước là
giảm nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp, chính đáng;
chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người
nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước gỉam bình quân
1,5-2%/ năm. Năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 60% trước đổi mới
xuống còn 9,5%, năm 2013 còn 7,5%, phấn đấu đến năm 2015 còn dưới 5%.
Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và
đánh giá cao.
Cơng tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế
được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một
vạn dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng.
Chính sách ưu đãi người có cơng với cách mạng được đặc biệt quan tâm, đảm
bảo mức sống người có cơng bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân
cư trên địa bàn cư trú. Đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa
dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như:
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao

động và bệnh nghề nghiệp; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao
động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm; mở rộng các hình thức cứu
trợ xã hội; bảo đảm cung ứng một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, nhất
là cho người nghèo, người có hồn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số.
* Tăng cường mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và
phát triển; đã phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng


quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì
hịa binh, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
    Nhờ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế bằng những chính sách phù hợp
nên Việt Nam dã phát huy được nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu những
thành tựu về khoa học- công nghệ, về kinh tế trí thức, kinh nghiệm quốc tế, văn
minh của nhân loại… để phát triển, hiện đại hóa lực lượng sản xuất, xây dựng
đất nước.
Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ
trương, chính sách, biện pháp để tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia
các quan hệ song phương và tổ chức đa phương như ASEAN, APEC, ASEM,
WTO…, thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA), xúc tiến mạnh
thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác hiệu quả
các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-cơng nghệ, trình độ
và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với 170 nước (trong đó xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước),
quan hệ thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, ký trên 90 hiệp định thương
mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Hội nhập
quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt nam
ngày càng được nâng lên.

* Tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân:
Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Nội dung xây dựng Đảng bao gồm xây dựng
Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, phương thức lãnh đạo và
phong cách cơng tác. Mục đích nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng lấy chủ nghĩa
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động; đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới;
phòng và chống những nguy cơ lớn đối với một Đảng cầm quyền: sai lầm về
đường lối, bệnh quan liêu, mất dân chủ và sự thối hóa, biến chất của cán bộ,
đảng viên. Đảng khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên định đường lối đổi
mới, chống giáo điều, bảo thủ hoặc chủ quan, nóng vội, cực đoan.
Đảng tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số
vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đổi mới; tăng cường công tác



×