Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Luận văn:Bảo hiểm nhân thọ và an sinh giáo dục pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (839.9 KB, 122 trang )




TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

***














KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP






ĐỀ TÀI :



Bảo hiểm nhân thọ và an sinh giáo dục














2


Chương I:
KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ
SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GIÁO DỤC

I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ (BHNT) VÀ SẢN PHẨM BẢO
HIỂM AN SINH GÍAO DỤC (ASGD)

1. Khái niệm
Về BHNT, có rất nhiều khái niệm khác nhau, thực tế, BHNT là sự
cam kết giữa công ty bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm về việc
công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả cho người tham gia bảo hiểm (hoặc
người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có

những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hay
sống đến một thời điểm được xác định trong hợp đồng) còn người tham
gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói
cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh
mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Tuy nhiên, đứng trên góc độ pháp lý, kỹ thuật tồn tại những khái
niệm khác về BHNT đó là:
*Về mặt pháp lý: BHNT là bản hợp đồng trong đó để nhận được
phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm (người ký kết hợp đồng) thì
người bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một người hay nhiều người thụ
hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định (đó là số tiền bảo hiểm hay một
khoản trợ cấp) trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay người
được bảo hiểm sống đến một thời điểm được xác định trong hợp đồng.
*Về mặt kỹ thuật: BHNT là nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà
sự thi hành những cam kết này phụ thuộc chủ yếu vào tuổi thọ của con
người.

3

Như vậy BHNT giải quyết nỗi lo âu về mặt an toàn trong đời sống nhưng nó
chỉ gắn với các biến cố liên quan đến bản thân con người như: tử vong, tai nạn,
sống sót v.v. Đôi khi các sự cố không phải luôn tương ứng với các thiệt hại.
2. Lịch sử ra đời
2.1. Trên thế giới
Cũng giống như các loại hình bảo hiểm khác, BHNT tuân theo quy luật
“lấy số đông bù số ít” tức là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông và một vài
người trong số họ phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được
ghi vào lịch sử là năm 1583 ở London của Vương Quốc Anh và hợp đồng
BHNT đầu tiên được ký kết với ông William Gibbons. Trong hợp đồng thoả
thuận rằng một nhóm người góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào

trong số họ bị chết trong vòng 1 năm. Lúc đó, ông William Gibbons tham gia
và phí bảo hiểm ông phải đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm
đó người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh.
Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát
triển ở một số nước do thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật, và vì nó giống như một trò
chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người,
nên BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, sau đó do sự
phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm
vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có
điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Đến năm 1759 công ty BHNT
đầu tiên mới ra đời, Công ty Bảo hiểm Philadenphia của Mỹ. Công ty đó
đến nay vẫn còn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con
chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được
thành lập và bán BHNT cho mọi người dân. Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên
ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến
năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho
đến nay.
1


4

Năm 1860 bắt đầu xuất hiện mạng lưới đại lý BHNT. Trên thế giới,
BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985 doanh thu phí BHNT
mới chỉ đạt 630,5 tỷ USD, năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ USD và năm 1993
con số này là 1647 tỷ USD chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm.


Bảng 1: Phí BHNT của một số nước trên thế giới năm 1993


Tên nước
Phí BHNT
(tr. USD)
Cơ cấu phí
BHNT
(%)
Phí BHNT trên
đầu người
(USD/nghìn
người)
Tỷ lệ phí
BHNT trên
GDP
(%)
Hàn Quốc

28717,43

79,66

651201

8,68

Nhật Bản
236458,62

73,86

1909870


5,61

Đài loan
6799,60

68,77

325311

3,14

Singapore

1039,92

62,42

358620

1,89

Philipine
736,74

59,43

11294

1,38


Thái lan
1141,21

43,64

19470

0,92

Malaisia
924,9

46,54

48125

1,43

Indonesia
373,98

30,25

1974

0,26

Mỹ
216510,74


41,44

838223

3,41

Đức
42689,00

39,38

524138

2,25

Pháp
47673,24

56,55

826320

3,80

Anh
66094,84

64,57


1141450

7,00

(Nguồn: Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam tháng 8/1996)
Qua số liệu ở bảng trên ta nhận thấy hầu hết phí bảo hiểm nhân thọ ở các
nước có nền kinh tế phát triển là tương đối cao, cao nhất là Nhật Bản với tổng
số phí là 236,458 tỷ USD. Đối với các nước ở khu vực Đông Nam Á, những
nước mà có nền kinh tế có những nét tương đồng như chúng ta, nhìn chung
phí BHNT còn thấp, so với các nước trong khu vực thì Thái Lan là nước đứng
đầu về doanh thu phí BHNT, tỷ lệ phí BHNT và phi nhân thọ của nước này là
tương đối gần bằng nhau.
Bảng 1: Phí BHNT một số nước trên thế giới năm 2000
Đơn vị: Triệu USD
Mỹ Anh Nhật Bản Hàn Singa- Malays-ia Thailan Indones-ia

5

Quốc pore
344267

99023 305313 58337

3482 2853 1859,5 916
(Nguồn: Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, tháng 2 năm 2001)
Từ bảng 1 và bảng 1’, so sánh số liệu năm 2000 với năm 1993 ta thấy
doanh thu phí BHNT ở tất cả các nước này đều tăng, đặc biệt tại thị trường
Mỹ tăng doanh thu phí năm 2000 tăng 127,756 tỷ USD tức tăng 59% so với
doanh thu năm 1993 và tại Nhật Bản năm 2000 tăng 68,854 tỷ USD tức tăng
29% so với năm 1993. Từ đây chúng ta tin tưởng rằng BHNT ở nước ta chắc

chắn sẽ không nằm ngoài xu thế chung của thế giới.
2.2.Tại Việt Nam
Trước năm 1954, ở miền Bắc nước ta, những người làm việc cho
Pháp đã mua BHNT và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi từ các
hợp đồng bảo hiểm này. Các hợp đồng bảo hiểm trên đều do các công
ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện.
Sau năm 1954, ở miền Bắc, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây
hay Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET)
là doanh nghiệp bảo hiểm đầu tiên của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt đầu hoạt động chính thức từ
ngày 15/01/1965. Cùng trong khoảng thời gian đó (những năm 1970,
1971), ở Miền Nam công ty bảo hiểm Hưng Việt thuộc Ngụy quyền Sài
Gòn đã triển khai một số loại hình BHNT như : An sinh giáo dục, bảo
hiểm Trường sinh (BHNT cả đời), bảo hiểm có thời hạn 5 năm, 10 năm
hay 20 năm. Nhưng công ty này hoạt động trong thời gian rất ngắn chỉ
1-2 năm nên hầu hết người dân chưa biết nhiều về loại hình bảo hiểm
này. Kể từ đó cho tới trước năm 1993, ở nước ta chỉ có một doanh
nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) trực
thuộc Bộ Tài chính.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công
cuộc đổi mới về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,

6

tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới,
đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nêu rõ : “Khuyến khích phát triển, đa dạng hoá hoạt động kinh
doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế và mở cửa hợp tác với nước

ngoài ”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể
hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993
Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành Nghị định
100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành
đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm trong điều kiện kinh
tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố chấm
dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo
Nghị định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp cổ phần, hội bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh
với nước ngoài, chi nhánh hay công ty 100% vốn nước ngoài. Và có thể
nói đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự do hoá” và mở cửa thị trường
Việt Nam.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT,
trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát
triển nghiệp vụ bảo hiểm này. Ngày 22/6/1996, sự ra đời của công ty
BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam đã khẳng định rõ sự quan tâm
của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô.Tiếp đến, năm 1999 với sự tham
gia của một số công ty BHNT có vốn nước ngoài thị trường BHNT Việt
Nam đã trở lên sôi động hơn và phong phú hơn, giúp cho người dân có
thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến nay
thì đã có 5 công ty BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
đó là:

7

- Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn
trong nước, đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt
động lâu nhất: vốn kinh doanh là 55 triệu USD, phát hành hợp
đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời gian hoạt động là không kỳ

hạn.
- Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai
trương hoạt động 12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu
USD, thời gian hoạt động 50 năm.
- Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là
công ty BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt
(40 triệu USD), khai trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có
thời gian hoạt động là 50 năm.
- Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và
Công ty bảo hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt
động ngày 12/10/1999, vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời
gian hoạt động 30 năm.
- AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương
hoạt động 22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời
gian hoạt động là 50 năm.
- Ngày 27/8/2002, công ty ACE INA International holdings Ltd.,
đã chính thức nộp đơn xin cấp giấy phép kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ lên Bộ Tài Chính sau 6 năm có mặt tại Việt nam.
Kể từ 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu
lực tạo ra hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của
ngành kinh doanh bảo hiểm trong xã hội Việt Nam.
3.Sự cần thiết của BHNT
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có
nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro xảy ra do nhiều

8

nguyên nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán

- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa
học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất cũng như tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn
bất ngờ như tai nạn ôtô, hàng không, tai nạn lao động
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
gây ra rủi ro cho con người, bởi khi xã hội càng phát triển thì con người càng
có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con
người những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài
chính gia đình làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với
những rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát
cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp
kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp: né tránh rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử
dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Mặc dù, biện pháp
này đã giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống
nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi
ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với
mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp
nhận rủi ro thì con người phải đối phó với những khó khăn không những cho
bản thân mà còn về mặt tài chính của gia đình nữa và bảo hiểm là phương
pháp tốt để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các
chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan
điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự di chuyển rủi ro trên cơ sở
hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà

9


còn là sự giảm rủi ro về số lượng cũng như mức độ. Do việc tập trung vào tay
người bảo hiểm một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất
khi chúng xảy ra nên người bảo hiểm với kinh nghiệm và phương tiện của
mình sẽ có những biện pháp để giảm thiểu số lượng và mức độ xảy ra rủi
ro.Vì vậy, bảo hiểm là công cụ đối phó hiệu quả nhất với hậu quả tổn thất do
rủi ro gây ra. Như vậy, bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng ra đời là đòi
hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào
sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành
một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước
đang phát triển. Ở châu Á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh
mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn
đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn
nước ngoài với lãi suất cao.
BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết
một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục Hiện nay hầu
hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động
của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công
ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Ở Việt Nam BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn
hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được
một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia
bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa
nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng
thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước. Theo số
liệu của Kinh tế 2000-2001 Việt Nam & Thế giới thì tổng doanh thu phí
BHNT năm 2000 đạt 1117 tỷ đồng còn trong năm 2001 theo số liệu của công
ty Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội 1/2002 doanh thu phí BHNT trên toàn thị
trường đạt 2377,499 tỷ đồng (chiếm khoảng 0,55% GDP). Như vậy số vốn


10
nhàn rỗi trong dân cư thông qua nghiệp vụ BHNT đã được “hút” lại để đầu tư
phát triển kinh tế.
4. Vai trò và vị trí của BHNT
4.1. Vai trò của BHNT
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không
thể lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng
có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống
con người dẫn đến những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như
xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản thân hoặc
người thân, gia đình của bạn sẽ được đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần
nào những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi ro không xảy ra, thông qua
một số loại hình sản phẩm khác như bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn
hợp người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo hiểm cùng với lãi.
Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và
tăng thêm quyền lợi cho người lao động.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi
ra một lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân và các công ty gặp rủi ro
dưới hình thức trợ cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm ). Các khoản chi
này vừa làm thâm hụt ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại
không cố gắng đối với cá nhân cũng như tổ chức vì đã có người khác chịu
trách nhiệm giúp mình. Ngày nay khi BHNT ra đời, người tham gia đã có thể
tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với các rủi ro đồng thời tạo ra một
khoản tiết kiệm. Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện người lao
động còn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tự lo được cho bản thân giảm
gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội.
Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to


11
lớn khi tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến
BHNT, nhờ đó lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Việt
Nam đang trong thời kỳ đổi mới “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá” đất nước
để phục vụ cho sự phát triển kinh tế phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn.
Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của BHNT nên tuy mới ra đời được
5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có những chính sách để tạo điều kiện
cho BHNT ngày một phát triển mà bước tiến quan trọng là sự cho phép các
công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BHNT Việt Nam và sự ra
đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Với chủ trương là chủ yếu dựa vào
nguồn nội lực và tranh thủ nguồn ngoại lực, chúng ta có quyền hy vọng thông
qua BHNT có thể trong thời gian tới thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân cư nhiều hơn nữa. Ngoài ra, khi các công ty BHNT nước ngoài tham gia
vào thị trường BH Việt Nam nguồn vốn do họ đầu tư vào cũng sẽ rất lớn.
Thêm vào đó, do đặc điểm của BHNT là mang tính dài hạn, nguồn vốn huy
động được có thể đem đầu tư trong một thời gian dài và đây là nguồn vốn
tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn.
Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động.
Với dân số gần 80 triệu (theo Niên gíam thống kê 2000) lại là dân số trẻ,
việc làm luôn là vấn đề nóng bỏng khi mà lượng người không có việc làm
ngày càng nhiều trong đó ngoài những người không có trình độ thì cũng có rất
nhiều người có trình độ không được sử dụng đúng mục đích. Hoạt động
BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai thác bảo hiểm, đội ngũ nhân
viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế Vì vậy, phát triển BHNT đã
góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số lượng người thất nghiệp,
bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Cứ nói riêng ở công ty BHNT Hà
Nội, với số lượng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên dưới 50 người,
riêng nội thành đã có 18 phòng khai thác, đa số đều là các cán bộ chuyên
nghiệp chưa kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác ở từng quận huyện.

Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần

12
tạo nên một tập quán, một phong cách sống mới.
Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng
và phải coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục
ngày một tăng thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các
biện pháp hỗ trợ giáo dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan
trong và ngoài nước, cho sinh viên vay vốn tín dụng đều mang tính nhất thời,
không ổn định, tham gia BH An sinh giáo dục là một biện pháp hợp lý để đầu
tư cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm thường xuyên của gia đình.
Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội vì đầu tư
cho tương lai con em mình không chỉ là trách nhiệm của xã hội mà còn là
trách nhiệm của từng gia đình.
Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua
việc tạo cho mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của
người thân, đồng thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có
trách nhiệm đối với người khác.
Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số
vấn đề xã hội như giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn
thất, bất hạnh trong cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội
đối với người lao động, người cao tuổi
4.2 Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm
4.2.1 BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất
Bảo hiểm thương mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 500 năm.
Bảo hiểm hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” đó là sự chia sẻ rủi ro
giữa một số đông và một vài người trong số họ chẳng may gặp phải rủi ro.
Bảo hiểm ra đời là một biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro tồn tại khách
quan. Tham gia bảo hiểm đang ngày càng trở thành một tác nghiệp không thể
thiếu được đối với các chủ doanh nghiệp, một thói quen tốt trong dân chúng.

Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thức như bảo hiểm hoả
hoạn, bảo hiểm hàng hải… Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với

13
những loại hình bảo hiểm hết sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại
hình bảo hiểm ra đời khá lâu là BHNT với lịch sử phát triển 400 năm, nó
đang ngày càng chứng tỏ vị thế của mình trong thị trường bảo hiểm nói
chung.
4.2.2 BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng
không thể thiếu được trên thị trường bảo hiểm.
Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới
không ngừng tăng và chiếm tỉ lệ lớn trong tổng doanh thu của các nghiệp vụ
BH (xem bảng 1). Tuy nhiên tốc độ phát triển của BHNT rất không đồng đều.
Nếu như ở châu Mỹ Latinh phí BH từ hoạt động kinh doanh BHNT rất thấp,
chỉ chiếm khoảng 21,4% thì ở châu Âu phí BHNT đạt tỉ lệ cân đối trong
khoảng từ 41,8% - 49,3% còn tỉ lệ phí BHNT ở châu Đại đương chiếm 52,3%
trong toàn bộ doanh thu phí nghiệp vụ BH.
Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta cũng
phải thừa nhận rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị trí quan
trọng của mình trong thị trường BH nói riêng và trong nền kinh tế của các
quốc gia, nền kinh tế thế giới nói chung.

5. Những đặc điểm cơ bản của BHNT
5.1. BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH
phi nhân thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp một khoản tiền
nhất định (gọi là phí BH) cho người BH theo định kỳ đồng thời người bảo
hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền (gọi là số tiền bảo hiểm, STBH) cho
người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện bảo
hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này được trả khi người được bảo hiểm sống

đến một độ tuổi nhất định, hoặc trả cho người thừa hưởng khi người được bảo
hiểm tử vong trong thời hạn được bảo hiểm Số tiền này không thể bù đắp về
mặt tình cảm nhưng bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài chính.

14
Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia
đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách
mua bảo hiểm khác với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ người bảo hiểm
đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm hoặc người thụ hưởng quyền lợi
bảo hiểm ngay cả khi người tham gia bảo hiểm mới tiết kiệm được một khoản
tiền rất nhỏ qua việc đóng phí. Có nghĩa là khi người được bảo hiểm không
may gặp rủi ro, trong thời hạn bảo hiểm đã định trước, người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay số tiền bảo hiểm từ
công ty bảo hiểm theo như thoả thuận từ trước. Điều này giải thích tại sao nói
bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ.
5.2. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người
tham gia bảo hiểm.
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục
đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro,
BHNT do vừa mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được
nhiều mục đích khác nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ
trong từng sản phẩm bảo hiểm. Chẳng hạn như Bảo hiểm An hưỏng hưu trí sẽ
đáp ứng yêu cầu của người được bảo hiểm là có một khoản tiền góp phần ổn
định cuộc sống khi họ về hưu, bảo hiểm An gia thịnh vượng đáp ứng yêu cầu
của người tham gia là có được một khoản tiền lớn sau một thời gian ấn định
trước Ngoài ra, hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp
để vay vốn khi người tham gia bảo hiểm gặp những khó khăn về mặt tài
chính, thủ tục cho vay được công ty bảo hiểm giải quyết rất nhanh gọn không
như đi vay vốn ngân hàng hơn nữa số tiền cho vay này có thể trả hay không
trả lại cho công ty BH (tất nhiên số tiền cho vay được giới hạn theo quy định

trong hợp đồng bảo hiểm). Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau
mà BHNT đang có thị trường ngày càng rộng rãi và được nhiều người quan
tâm.
5.3. Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng

15
Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của người
tham gia và từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm
của công ty thiết kế ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau,
cho nên bất cứ ai cũng có thể tham gia bảo hiểm và có được sản phẩm phù
hợp với mục đích của bản thân khi tham gia bảo hiểm.
5.4. Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá
trình định phí khá phức tạp.
Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã phải
bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi phí
quản lý hợp đồng Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu
tạo nên phí BHNT, còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào:
+ Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
+ Tuổi thọ bình quân của con người
+ Số tiền bảo hiểm
+ Thời hạn tham gia bảo hiểm
+ Phương thức thanh toán
+ Lãi suất đầu tư
+ Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền

Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng
vùng địa lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội và tình hình kinh tế chính trị
của mỗi nước. Hơn nữa, còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của từng loại
sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của
mỗi loại sản phẩm trên thị trường

5.5 BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội
nhất định
Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những
quốc gia chưa triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi
ích của nó. Nguyên nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải thích

16
rằng cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là phải có những điều kiện
kinh tế xã hội nhất định:
- Những điều kiện về kinh tế:
+ Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến một
mức độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
+ Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức trung
bình trở lên.
+ Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để
không những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được
những nhu cầu cao hơn.
+ Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định
+ Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng
mà đầu tư vào BHNT

- Những điều kiện xã hội bao gồm:
Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một
xã hội phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế
hoạch trung và dài hạn.
Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và
phát triển của BHNT. Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình hình đất
nước ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho phù hợp và
tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là những ngành mới
như bảo hiểm.

II. CÁC LOẠI HÌNH BHNT
Như trên đã nêu, BHNT là loại hình bảo hiểm mang ý nghĩa kinh tế -
xã hội sâu sắc. Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những
khoản phí trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty
bảo hiểm quản lí và công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền như
đã thoả thuận trong hợp đồng khi kết thúc thời hạn bảo hiểm hoặc khi có sự

17
kiện rủi ro được bảo hiểm xảy ra cho người được bảo hiểm. Do đó BHNT
được hiểu như một sự đảm bảo, một hình thức tiết kiệm và mang tính chất
tương hỗ. BHNT trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung
cho bảo hiểm xã hội (BHXH) khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà
chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) chưa đáp ứng hết được.
BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của con người tuỳ
theo mục đích của người tham gia là gì. Trong thực tế để phân loại bảo hiểm
người ta chia ra các hình thức cơ bản sau:
1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm
Có 3 loại hình BHNT cơ bản, sản phẩm của các công ty bảo hiểm đều
xuất phát từ 3 loại này.
1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia làm 2 nhóm:
a.Bảo hiểm tử kỳ
Còn gọi là BH tạm thời hay BH sinh mạng có thời hạn. Đây là loại hình
BH được kí kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của
hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được BH
không nhận được bất kỳ một khoản tiền nào. Điều đó cũng có nghĩa là người
BH không phải thanh toán số tiền BH cho người được BH. Ngược lại, nếu có
cái chết xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, người BH có trách
nhiệm thanh toán số tiền BH cho người thụ hưởng quyền lợi BH được chỉ
định. Loại hình BH này được đa dạng hoá thành các loại hình sau:

+Bảo hiểm tử kỳ cố định
+ Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục
+ Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi
+ Bảo hiểm tử kỳ giảm dần
+ Bảo hiểm tử kỳ tăng dần
+ Bảo hiểm thu nhập gia đình
+ Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên

18
+ Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện
Đặc điểm
- Thời hạn BH xác định
- Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời
- Mức phí BH thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được BH.
Mục đích
- Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất
- Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn
- Thanh toán các khoản nợ nần (như khoản vay hoặc thế chấp) của
người được BH
b. Bảo hiểm trọn đời (hay còn gọi là bảo hiểm trường sinh)
Bảo hiểm trọn đời là loại hình BHNT mà thời gian bảo hiểm không xác
định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo
hiểm chết. Ngoài ra trong một số trường hợp, loại hình bảo hiểm này còn đảm
bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay khi họ sống đến một độ tuổi nhất
định(chẳng hạn 99 tuổi theo quy định của Prudential). Loại hình này thường
có các loại hợp đồng sau:
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận
+ BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhận
+ BHNT trọn đời đóng phí liên tục
+ BHNT trọn đời đóng phí một lần

+ BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí

Đặc điểm:
- STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết
- Thời hạn BH không xác định
- Phí BH có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong
suốt quá trình bảo hiểm

19
- Phí BH cao hơn so với sinh mạng có thời hạn vì rủi ro chết chắc chắn
xảy ra nên STBH chắc chắn phải chi trả
Mục đích:
- Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình
- Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau
1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ)
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả
những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt
cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nhưng nếu người được bảo hiểm chết trước
ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào.
Đặc điểm:
- Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định
hoặc cho đến khi chết.
- Phí bảo hiểm đóng một lần
- Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định.
Mục đích:
- Đảm bảo thu nhập cố định khi về hưu hay khi tuổi cao sức yếu.
- Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi
già.
- Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
1.3 BHNT hỗn hợp

BHNT hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, số tiền bảo hiểm
sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến đáo hạn hợp đồng
và thời hạn bảo hiểm được xác định trước, trong đó bảo tức trả khi đáo hạn
hợp đồng và phụ thuộc vào hiệu quả mang lại do đầu tư phí bảo hiểm mà
người được bảo hiểm chọn.
Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản thân, mỗi
người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm BHNT sao cho phù hợp

20
với mục đích của mình. Trong BHNT hỗn hợp này yếu tố rủi ro và tiết kiệm
đan xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi hầu hết ở các nước trên thế giới.
Đặc điểm:
- STBH được trả khi: Hết hạn hợp đồng hoặc người được BH bị tử vong
trong thời hạn bảo hiểm.
- Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm )
- Phí BH thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm.
- Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể
được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia.
Mục đích:
- Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân.
- Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hóa
loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi
nhuận, có lợi nhuận và các hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế.
2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm
2.1 Bảo hiểm cá nhân
Là loại bảo hiểm con người thực hiện dưới hình thức người tham gia bảo
hiểm là cá nhân. Thông thường loại bảo hiểm tự nguyện đều do cá nhân tham
gia bảo hiểm
2.2. Bảo hiểm nhóm

Là loại bảo hiểm con người theo hình thức tập thể có kèm theo danh sách
cá nhân được bảo hiểm. Ví dụ tập thể cán bộ, công nhân viên của một doanh
nghiệp đều được mua bảo hiểm con người có kèm theo danh sách các cá nhân
được bảo hiểm rủi ro chết hoặc bảo hiểm tai nạn bất ngờ nhằm đảm bảo an
toàn sản xuất, lao động.
3. Phân loại theo thời hạn hợp đồng.
Trong bảo hiểm con người thì BHNT được sử dụng để chỉ loại hình bảo
hiểm con người có tính chất dài hạn (trên 1 năm), trong BHNT có 3 loại hình

21
cơ bản như đã nêu ở phần 1. Bên cạnh đó còn có những sản phẩm đi kèm cho
sản phẩm chính đó là sản phẩm bổ sung, có những sản phẩm có thời hạn chỉ 1
năm, hết 1 năm lại tái tục hợp đồng ví dụ như: Trợ cấp nằm viện, chi phí phẫu
thuật, bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn
III.SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GÍAO DỤC TRONG HỆ THỐNG BHNT
1.Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới
Trên thế giới bảo hiểm cho trẻ em xuất phát từ những nhu cầu thực tế là
cha mẹ muốn đảm bảo cho con cái về mặt tài chính khi có rủi ro về thu nhập
xảy ra với bản thân họ. Việc thanh toán học phí có thể thực hiện trong khi bố
mẹ đang có thu nhập đủ để trả cho các chi phí này. Khó khăn phát sinh nếu
khoản thu nhập chính bị đánh mất hoặc bị giảm do cha hoặc mẹ bị thương tật
toàn bộ vĩnh viễn hoặc chết. Có nhiều cách để cha mẹ có thể đảm bảo thanh
toán học phí cho con em trong các trường hợp khó khăn đó, chẳng hạn mua
bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Và nếu mua bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp thì hợp
đồng bảo hiểm này có thể có hai dạng:
+1) Hợp đồng bảo hiểm được kí dựa trên sinh mạng của đứa trẻ tức
người được bảo hiểm là đứa trẻ
+2) Hợp đồng được kí dựa trên sinh mạng của đứa trẻ và cha mẹ chúng
tức người được bảo hiểm là đứa trẻ và cha hoặc mẹ chúng nhưng tất nhiên cha
mẹ chúng vẫn là người chủ hợp đồng.

Ta cấn lưu ý rằng trong hợp đồng bảo hiểm trẻ em người cha, người mẹ
là chủ hợp đồng (người kí hợp đồng) nhưng cha mẹ không có quyền lợi bảo
hiểm đối với sinh mạng con cái họ. Bất cứ bảo hiểm nhân thọ nào vì lợi ích
trẻ em đều hoàn phí trong trường hợp chết sớm xảy ra. Điều này là phù hợp
bởi khả năng tự bảo vệ của trẻ em hầu như không có và nếu vẫn thanh toán số
tiền bảo hiểm khi trẻ còn nhỏ sẽ có hiện tượng tránh trục lợi từ bảo hiểm.
Nếu cha mẹ chết trước khi con cái đến tuổi trưởng thành, hợp đồng bảo
hiểm vẫn tiếp tục mà không phải đóng thêm phí cho đến ngày hợp đồng đáo
hạn. Vào ngày kỷ niệm hợp đồng trước ngày sinh nhật lần thứ 18 sẽ có nhiều

22
sự lựa chọn khác nhau cho đứa trẻ. Những sự lựa chọn này bao gồm việc
thanh toán ngay toàn bộ số tiền hoặc đơn bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực trên cơ
sở các loại bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp và không cần bằng chứng về sức khoẻ.
Nếu đứa trẻ là nữ thì có quyền lựa chọn việc chuyển hợp đồng cho người
chồng trước khi kết hôn.
2. Bảo hiểm cho trẻ em tại Việt Nam (sản phẩm bảo hiểm ASGD
hay Phú tích luỹ, Phú tương lai)
Theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài
chính, khi bước vào triển khai loại hình BHNT Bảo Việt đã tiến hành triển
khai 2 loại hình BH đó là BHNT có thời hạn 5, 10 năm và chương trình đảm
bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành. Sản phẩm “Chương trình bảo đảm cho
trẻ em đến tuổi trưởng thành” là tên ban đầu, sau đó, theo quyết định số
362/1998/QĐ-BTC ngày 27/3/1998 sản phẩm bảo hiểm dành cho trẻ em của
Bảo Việt được đổi thành sản phẩm An Sinh Giáo Dục. Ngoài ra, ngay sau khi
thành lập, các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng đưa ra loại sản phẩm này
nhưng có thể dưới tên khác (chẳng hạn sản phẩm Phú- Tích luỹ gíao dục hoặc
Phú tương lai của công ty Prudential, An sinh gíao dục và An sinh gíao dục
đặc biệt của công ty AIA). Về bản chất sản phẩm này thuộc nhóm bảo hiểm
hỗn hợp, nghĩa là loại hình được bảo hiểm cả trong trường hợp người được

bảo hiểm bị tử vong hay còn sống, yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau.
Vì thế nó rất phù hợp với đối tượng trẻ em, bởi lẽ khi mua sản phẩm bảo hiểm
này các bậc phụ huynh hoàn toàn không mong muốn rủi ro xảy ra đối với con
em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản tiết kiệm dành cho những kế
hoạch trung hay dài hạn cho con cái sau này. Đối tượng được bảo hiểm ở đây
là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính rủi ro. Trong sản phẩm
bảo hiểm này có một số đặc tính sau:
- Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành năm 18 tuổi tức khi hợp
đồng đáo hạn công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng.

23
- Nếu trẻ em không may bị chết thì thông thường công ty BHNT sẽ
hoàn phí. Đây là nguyên tắc quan trọng để tránh trục lợi từ tham gia
bảo hiểm.
- Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh
viễn do tai nạn, thì hợp đồng bảo hiểm vẫn có thể có hiệu lực.
- Ngoài số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo
hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả
kinh doanh phí của nghiệp vụ này gọi là bảo tức.
-Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên người
tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là
giá trị giải ước.
3. Nội dung cơ bản của sản phẩm An sinh giáo dục
3.1.Một số khái niệm
*Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm (giấy yêu cầu bảo hiểm): là mẫu đăng
ký bảo hiểm do công ty bảo hiểm phát hành, người yêu cầu bảo hiểm
phải điền đầy đủ và chính xác những thông tin liệt kê sẵn trên mẫu. Hồ
sơ yêu cầu bảo hiểm được xem là một phần của hợp đồng bảo hiểm. Hồ
sơ yêu cầu bảo hiểm, điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ
bản của hợp đồng bảo hiểm.

* Người tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm): là cá nhân cư trú
tại Việt Nam trong độ tuổi từ 18 trở lên, là người kê khai hồ sơ yêu cầu
bảo hiểm, đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm.
*Người được bảo hiểm: Trẻ em cư trú tại Việt Nam thường trong
độ tuổi từ 1 đến 13 có thể rộng hơn tuỳ công ty, là người mà công ty chấp
nhận bảo hiểm sinh mạng theo hợp đồng bảo hiểm. Tên người được bảo
hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm
*Người thụ hưởng: Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được
chủ hợp đồng (bên mua bảo hiểm) chỉ định để nhận quyền lợi bảo hiểm
theo quy định của hợp đồng bảo hiểm.

24
*Tuổi bảo hiểm (tuổi bắt đầu bảo hiểm): tuổi dùng để tính phí
bảo hiểm là tuổi của kỳ sinh nhật vừa qua.
*Ngày kỷ niệm hợp đồng (ngày đáo niên): Là ngày kỷ niệm hàng năm của
ngày hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực trong thời hạn bảo hiểm.
*Năm hợp đồng: là một năm tính từ ngày hợp đồng bảo hiểm có hiệu
lực hoặc các năm tiếp theo tính từ ngày đáo niên của hợp đồng.
*Tai nạn: trong BHNT quy ước “Tai nạn là bất cứ thiệt hại thân
thể nào do hậu quả duy nhất và trực tiếp của một lực mạnh, bất ngờ từ
bên ngoài tác động lên thân thể người được bảo hiểm hoặc người tham
gia bảo hiểm, loại trừ ốm đau hoặc bệnh tật hoặc bất kì trạng thái nào
xảy ra tự nhiên hoặc quá trình thoái hoá”. Như vậy những thương tật
xảy ra do ngộ độc thức ăn, cảm, trúng gió bất ngờ đối với người bảo
hiểm nhưng không được coi là tai nạn bảo hiểm.
*Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: là khi người được bảo hiểm hoặc
người tham gia bảo hiểm bị mất hoàn toàn hoặc không thể phục hồi
được chức năng của:
- Hai tay hoặc hai chân hoặc . . .
- Một tay, một chân hoặc hai mắt hoặc . . .

- Một tay, một mắt hoặc . . .
- Một chân, một mắt.
Hay có một cách định nghĩa khác:TTTBVV xảy ra vì lý do bệnh
tật hay tổn thương cơ thể, người thanh toán phí bảo hiểm không thể tham
gia vào bất cứ nghề nào hoặc bất cứ việc gì để có thu nhập. Từ đây cho
* Giá trị giải ước (hay giá trị hoàn lại): Là số tiền mà người tham
gia bảo hiểm có thể nhận lại khi yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trong thời
hạn hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực.
Hợp đồng bảo hiểm có giá trị giải ước khi có hiệu lực từ 2 năm
trở lên. Giá trị giải ước ứng với mỗi năm hợp đồng vào ngày kỷ niệm
của hợp đồng bảo hiểm (ngày sinh nhật, ngày hợp đồng có hiệu

25
lực).Giá trị giải ước luôn nhỏ hơn tổng số phí mà người tham gia bảo
hiểm đã đóng góp với công ty bảo hiểm, nó thường chiếm khoảng 70
đến 80 % số phí bảo hiểm đã đóng, vì người tham gia bảo hiểm phải
thanh toán cho công ty những khoản chi phí đã thực hiện hợp đồng như
chi phí phát hành và quản lí hợp đồng, chi phí khai thác Tỷ lệ giải
ước trên số phí đã đóng càng cao thì càng thu hút, hấp dẫn đối với
khách hàng và do đó cũng là nhân tố tác động đến quyết định tham gia
BHNT hay không.
*Số tiền bảo hiểm giảm (duy trì hợp đồng với số tiền bảo hiểm
giảm): Khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên, người
tham gia bảo hiểm có thể ngừng đóng phí và tiếp tục duy trì hợp đồng
bảo hiểm này với số tiền bảo hiểm mới gọi là số tiền bảo hiểm giảm.
Điều này giúp người tham gia bảo hiểm vẫn tiếp tục tham gia
BHNT trong những lúc gặp khó khăn, đây là sự linh động của BHNT
ứng với mỗi điều kiện khác nhau.
*Bảo tức: Là lợi tức (khoản lãi chia) được thông báo hàng năm và
khách hàng sẽ được nhận vào ngày kỷ niệm hợp đồng hoặc khi xảy ra

sự kiện bảo hiểm hoặc khi đáo hạn hợp đồng.
*Ngày cấp giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ: Là ngày công ty
bảo hiểm nhân thọ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ, được ghi
trên giấy chứng nhận bảo hiểm nhân thọ và sau khi đã nộp phí bảo hiểm
đầu tiện.
*Phạm vi bảo hiểm:
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một quy tắc chung thống nhất áp
dụng cho sản phẩm ASGD mà từng công ty soạn thảo ra quy tắc của
riêng của công ty đó rồi trình lên Bộ tài chính duyệt và nếu được Bộ tài
chính duyệt công ty đó mới được phép sử dụng. Chẳng hạn, quy tắc và
điều khoản bảo hiểm an sinh gíao dục của Bảo Việt được sử dụng theo
bản “quy tắc và điều khoản” được Bộ Tài Chính phê duyệt kèm quyết

×