Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Skkn một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi dân tộc thiểu số ở trường mầm non điền trung, huyện bá thước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (934.31 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình xây dựng nền văn hố mới, vấn đề hình thành hệ giá trị
chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của
thời đại là một trong những vẫn đề có ý nghĩa quyết định. Giải quyết vấn đề này
trong lĩnh vực đạo đức chính là làm hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức
mới phù hợp với truyền thống và yêu cầu của thời đại. Trong các nhà trường nước
ta hiện nay luôn lấy giáo dục con người làm gốc, giáo dục đạo đức là ưu tiên, coi sự
nghiệp trồng người là cơ bản của giáo dục.
Nghị quyết của bộ chính trị về cải cách giáo dục đã ghi rõ: “Giáo dục thế hệ
trẻ yêu quê hương tổ quốc, xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản, ý thức làm
chủ tập thể, tính thật thà khiêm tốn, dũng cảm. Do đó việc giáo dục lễ giáo cho thế
hệ trẻ là một quá trình lâu dài, xuyên suốt trong q trình giáo dục”. Nó địi hỏi
phải có sự chung tay, góp sức của gia đình và tồn xã hội, muốn thế hệ trẻ có đủ trí,
đức những lớp người đó khơng ai khác chính là thế hệ trẻ hôm nay. Trong thư gửi
học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của một nước độc lập Bác viết: ‘‘Non
sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay khơng, dân tộc Vệt Nam có được vẻ vang
sánh vai với các cường quốc năm châu hay khơng chính là nhờ vào một phần lớn
công học tập của các cháu”. 1
Ta cũng nhận thấy rõ hơn việc hình thành nhân cách tình cảm lối sống cho
trẻ là nhiệm vụ rất quan trọng trong cơ sở giáo dục Mầm Non và trong các bậc cha
mẹ trẻ. Khoa học cũng đã khẳng định rằng: Nền móng đầu tiên của nhân cách, sự
phát triển về mặt đạo đức cho trẻ sau này đều mang rõ dấu ấn của thời thơ ấu. Vì
thế lứa tuổi này ta phải chăm lo phát triển toàn diện cho trẻ, trên cơ sở đó mà từng
bước hình thành nhân cách cho trẻ theo phương hướng yêu cầu mà xã hội mới đặt
ra.
Tại trường học Mầm Non việc giáo dục lễ giáo cho trẻ thông qua các chế độ
sinh hoạt hằg ngày của cơ và trẻ như : Đón trẻ, thể dục sáng, giờ hoạt động chung,
hoạt động vui chơi, đi dạo, ăn trưa, ngủ trưa, hoạt động chiều, nêu gương và chuẩn
bị ra về. Thông qua hoạt động hằng ngày cơ giáo giáo dục lễ giáo cho trẻ có ý thức,
tự tin và tôn trọng mọi người xung quanh, giáo dục tinh thần tự lực tự giác, ý thức


kỷ luật trật tự trong sinh hoạt, hành vi văn minh, giữ gìn vệ sinh, giáo dục tình
thương quan hệ đồn kết nhân ái với bạn bè. Biết yêu mến và tôn trọng người lớn
Giáo dục nề nếp cho trẻ cịn thơng qua trị chơi vì: Vui chơi là hoạt động chủ
đạo của lứa tuổi mẫu giáo. Các đặc điểm tâm lý mới, tính cách mới của trẻ được
hình thành chủ yếu trong hoạt động chủ đạo này. Vì vậy trong cơng tác giáo dục nề
nếp cho trẻ thơng qua trị chơi là một phương tiện mạnh mẽ nhất.
VD: Trong khi chơi trẻ đã thể hiện rõ các tính cách của trẻ qua các nhân vật,
cách đóng vai, cách ứng sử với trẻ trong nhóm chơi.
Trị chơi phân vai theo chủ đề có mối quan hệ giữa trẻ với nhau và quan hệ
giữa các vai chơi với nhau. Khi chơi thể hiện tính cách của từng vai chơi vì vậy
1

skkn


việc nêu gương quan trọng ngay cả đối với trẻ đóng vai.
Giáo dục nề nếp lễ giáo thơng qua hoạt động học tập nhằm trau dồi cho trẻ
những tri thức cần thiết về cuộc sống xung quanh mà giúp trẻ gắn bó với quê
hương, biết yêu quý người lao động có những hành vi văn minh, làm giàu vốn tri
thức về cuộc sống cho trẻ.
Thông qua hoạt động học cô giáo từng bước giáo dục trẻ có ý thức kỷ luật,
kỹ năng, biết chủ động tự lực vượt qua những khó khăn để hình thành được cơng
việc mà cơ giáo giao cho.
Giáo dục lễ giáo cho trẻ thông qua lao động vừa sức phù hợp với đời sống
sinh hoạt cũng là phương tiện giáo dục nề nếp cho trẻ .Thông qua lao động hình
thành cho trẻ những phẩm chất của người lao động. Trẻ tự giác khi có tinh thần
trách nhiệm,những công việc hợp với lứa tuổi sẽ giúp trẻ cảm thấy mình tốt hơn
đồng thời biết quan tâm đến người khác.
Giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số vùng cao chính là một cơ sở lý luận
giúp trẻ phát triển tồn diện về nhân cách, tình cảm trí tuệ. Là nền tảng vững chắc

cho sự nghiệp học tập suốt đời của trẻ.
Tuy nhiên một bộ phận gia đình thuộc dân tộc thiểu số vùng cao vẫn cịn giữ
những hủ tục, những quan niệm dân tộc ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc hình thành
nhân cách, tình cảm của trẻ. Vì vậy giáo dục lễ giáo chính là một giải pháp đúng
đắn cho trẻ vùng dân tộc thiểu số vùng cao hiện nay nhằm mục đích tăng cường
giáo dục truyền thống đạo đức văn minh cho thế hệ trẻ.
Đây chính là nền móng đầu tiên quan trọng để phát triển nhân cách con
người, đặc biệt những bậc làm cha làm mẹ sẽ cảm thấy yên tâm biết bao khi con
mình là những đứa trẻ thơng minh nhanh nhẹn biết nghe lời bố mẹ, ngoan ngoãn lễ
phép với mọi người xung quanh. Ở lứa tuổi này trẻ bắt đầu hình thành những quan
niệm cho chính mình. Trẻ hiểu và xác định được sự đánh giá, nhận xét của ngời lớn
với trẻ. Trẻ hiểu được cái tốt, cái xấu và biết tự điều chỉnh hành vi của mình và
tuân thủ đúng những nguyên tắc của người lớn yêu cầu. Bởi thế nếu khơng làm tốt
việc chăm sóc giáo dục trẻ trong những năm đầu đời thì việc giáo dục lễ giáo cho
trẻ lại càng khó khăn phức tạp hơn.
Bên cạnh đó cùng với sự phát triển chung của nền văn hoá xã hội trẻ chịu
sự tác động trực tiếp của nhiều tác động tâm lý bên ngồi xã hội, đó là tác động
giáo dục của người lớn. Chính vì vậy giáo dục lễ giáo cho trẻ nói chung và trẻ dân
tộc thiểu số ở Trường Mầm Non Điền Trung vùng cao nói riêng là một biện pháp
mang tính cấp bách và rất cần thiết cho việc hình thành và phát triển nhân cách
hành vi của trẻ vùng dân tộc thiểu số sau này. Chính vì vậy bản thân tơi đã mạnh
dạn chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi dân
tộc thiểu số ” để nâng cao chất lượng nề nếp cho trẻ.
1. 2. Mục đích nghiên cứu:
– Khảo sát thực trạng một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi dân tộc thiểu số ở trường mầm non Điền Trung
1. 3. Đối tượng nghiên cứu:
2

skkn



– Thực trạng giáo dục lễ giáo của trẻ lớp mẫu giáo bé C2 3 - 4 tuổi trường
mầm non Điền Trung
1. 4. Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu lí luận: đọc nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có
liên quan đến đề tài nghiên cứu.
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp dùng lời.
- Phương pháp dùng trò chơi.
- Phương pháp trực quan, trải nghiệm.
- Phương pháp thống kê và xử lý và xử lý sơ liệu.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận
Đất nước việt nam dân tộc việt nam có truyền thống văn hố tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc với 54 dân tộc anh em trên cả nước, mỗi một dân tộc có một bản
sắc tập tục quan niệm riêng. Và ngày hôm nay cùng tiến lên trên con đường hội
nhập nền kinh tế của nước ngoài tác động khơng nhỏ đến nền văn hố Việt Nam, vì
vậy để thế hệ trẻ thơ mãi giữ được bản sắc truyền thống văn hố của dân tộc mà
khơng bị lai căng pha trộn thì giáo dục khơng chưa đủ mà phải đi sâu có mục đích
chính là hình thành phát triển lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số một cách tồn diện.
Lễ giáo là nét đẹp văn hố truyền thống được đặt lên hàng đầu của lứa tuổi
mẫu giáo là bước ngoặt đầu tiên hình thành ở trẻ những cơ sở ban đầu của nhân
cách như: Giáo dục nhân cách nói với người lớn, phong cách ứng sử có phép tắc có
văn hố, có đạo lý phù hợp với nhu cầu của xã hội. 2
Thực tế từ xưa đến nay người ta đã khẳng định vai trò to lớn của giáo dục tác
động đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người đặc biệt với trẻ mẫu
giáo dân tộc thiểu số vùng cao hiện nay.
Cùng với sự phát triển của văn hoá kinh tế xã hội đạo đức trẻ đang bị xuống
cấp nghiêm trọng những lễ giáo lễ nghi hành vi ứng sử lối sống tốt đẹp đang bị bào

mòn, hành vi đạo đức sống lệch lạc ngày càng gia tăng. Còn với trẻ dân tộc thiểu số
vùng cao thì sao?
Trẻ cịn mang nhiều hủ tục của người dân tộc mường: Như trẻ nói tiếng
mường. Khi trẻ đến lớp khi chào cô trẻ cũng chào bằng tiếng dân tộc.
VD: Coan cháo cô giào! Hay khi muốn gọi cô trẻ cũng gọi: Cô giào ới! Đặc
biệt trẻ nói tiếng dân tộc với nhau trong khi học khi chơi, trẻ giao tiếp với nhau chỉ
xưng hô bằng mày tao với nhau như thói quen hằng ngày của trẻ ở nhà.
VD: Khi trẻ muốn gọi bạn sang cùng chơi trẻ gọi ngay:
Lái ní mân ho! Có nghĩa sang đây với tao.
VD: Khi trẻ hỏi cô giáo về cái gì trẻ cũng nói bằng tiếng dân tộc: Cài chi ní!

3

skkn


Có nghĩa là: Cái gì đây? Nhưng trẻ chỉ hỏi ngang, bng trơi khơng ý thức được
câu hỏi của mình là hỏi ai? Hay ngay trong hoạt động góc khi chơi với nhau trẻ dân
tộc chỉ dùng tiếng dân tộc với nhau.
VD: Trẻ chơi trong góc xây dựng khi trẻ phân cơng việc cho nhau hay bảo
nhau lấy gì thì trẻ đều phát âm bằng tiếng dân tộc như:
Dâu mấn sợ hãy? Mày làm thợ nhé?
Dâu ti lế gạch cho ho háy? Mày đi lấy gạch cho tao nhé?
Ho xây xoong rối dâu trông cân ti. Tao xây song rồi mày trồng cây đi.
Đó chính là điều mà nhiều giáo viên như tôi phải quan tâm lo ngại. Bởi trẻ
chỉ giao tiếp bằng tiếng dân tộc, tôi nghĩ phải làm thế nào cho trẻ có lễ phép với cơ
giáo, làm thế nào để trẻ nói với nhau bằng tiếng việt. Đặc biệt là làm sao để trẻ
sưng hô với nhau một cách lịch sự với các bạn cùng chơi.
Bước đầu của trẻ đến trường Mầm Non chào cô, chào bạn bằng tiếng dân
tộc, chưa có thói quen giữ gìn vệ sinh, giao tiếp với các bạn và cơ giáo cịn là một

hạn chế vì vậy hình thành giáo dục nhân cách ăn nói, lễ phép trong giao tiếp cho trẻ
dân tộc vùng cao là một việc rất quan trọng phù hợp với văn hoá Việt Nam. Chúng
ta phải giúp trẻ dân tộc thiểu số làm quen với một số chuẩn mực đạo đức và những
hành vi có văn hố trong cuộc sống hằng ngày, để hình thành thói quen hành vi văn
minh.
Vì những lý do đã nêu ở trên với mục tiêu giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc
thiểu số được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác giáo dục trẻ dân tộc hiện
nay. Bản thân là một giáo giáo viên Mầm Non lại xuất phát từ một thành viên sinh
ra và lớn lên ở vùng cao nơi dân tộc thiểu số chiếm phần lớn, nên tôi phần nào hiểu
được tâm lý nhân cách và truyền thống cũng như phong tục của người dân tộc thiểu
số vùng cao nơi tôi sinh sống và công tác.
Tôi bắt đầu nghiên cứu chọn đề tài này nhằm mục đích tự tìm ra những giải
pháp hữu hiệu nhất để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức lễ giáo cho trẻ
nói chung và trẻ dân tộc thiểu số trường Mầm Non Điền Trung vùng cao huyện Bá
Thước nói riêng. Tôi nhận thấy giáo dục lễ giáo đạo đức cho trẻ dân tộc thiểu số là
hết sức quan trọng đối với lớp trẻ vùng dân tộc hiện nay. Nhưng làm được điều này
không phải việc một sớm một chiều, nhất là trong lúc này tâm hồn trẻ đang ngây
ngô trong sáng như một tờ giấy trắng. Vì vậy cha mẹ phải là những người thầy đầu
tiên uốn nắn trẻ và gia đình cũng là trường học đầu tiên của trẻ. Nhưng một gia
đình của trẻ dân tộc thiểu số thì sao?
Bước đầu trẻ đã có một số kỹ năng tích luỹ được một số tri thức, thói quen lễ
giáo của vùng dân tộc thiểu số để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày bằng cách
học lõm, bắt trước người lớn. Trẻ được trải nghiệm, được nhìn thấy, được nghe
thấy. Vì vậy giáo viên và gia đình là người quan sát trực tiếp đến trẻ phải gương
mẫu, dạy và tập cho trẻ những hành vi văn minh ở mọi lúc, mọi nơi nhằm hình
thành những kỹ năng sống ban đầu của trẻ.
Đó là lí do đã thúc đẩy tơi bắt đầu triển khai áp dụng “Một số biện pháp giáo
dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi vùng dân tộc thiểu số”. Nhằm hình thành và
4


skkn


phát triển nhân cách lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số vùng cao.
2. 2. Thực trạng
2.2.1. Thuận lợi :
Trẻ trong lớp đều có chung một độ tuổi, có sự thống nhất giáo dục của hai cô
giáo về phương pháp.
Số trẻ được đi học từ nhà trẻ nên đã có một số thói quen lễ giáo.
Đa số trẻ hiểu tiếng việt khi giao tiếp.
Một số phụ huynh quan tâm đến việc giáo dục lễ giáo cho trẻ như tập nói đủ
câu, gọi dạ bảo vâng, biết cảm ơn khi được giúp đỡ, biết xin lỗi khi làm sai, biết
được khi được ai cho một vật gì thì biết xin bằng hai tay.
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tân giúp đỡ tạo điều kiện về mọi mặt.
2.2.2. Khó khăn:
Một số phụ huynh chưa quan tâm rèn luyện cho trẻ nói đủ câu, còn để cho
trẻ tự làm theo ý của trẻ chưa cương quyết.
Trẻ có thói quen nói trống khơng, ra vào lớp một cách tự do chưa có nề nếp
thói quen, chưa biết xin phép đi vệ sinh khi có nhu cầu, có trẻ tự ra ngồi nhưng có
trẻ tè ra quần.
Nhiều trẻ chưa biết xin và cảm ơn khi được người khác giúp đỡ, chưa biết
xin lỗi khi bị mắc lỗi, chưa biết xin bằng hai tay khi người lớn đưa, chưa biết chơi
cùng các bạn một cách đồn kết, đang cịn tranh dành đồ chơi của các bạn.
Phần đơng trẻ chưa có thói quen, chưa có nề nếp. Trẻ đến trường cịn khóc
khơng muốn ở trường, khơng muốn tham gia các hoạt động cùng cô giáo và các
bạn.
Nhận thức của phần lớn phụ huynh còn xem nhẹ việc giáo dục lễ giáo cho
con cái mình ngay từ lứa tuổi bập bẹ, trẻ tự học, tự phục vụ mình một cách khơng
có hệ thống, khơng khoa học.
Nhận thức trẻ khơng đồng đều, tư duy cịn chậm, trẻ cịn hỏi và trả lời cơ

bằng tiếng dân tộc, có trẻ lại trả lời cô bằng những câu trống không. Trẻ ra vào lớp
một cách tự nhiên trong khi học cũng như trong khi chơi.
Bên cạnh đó lại có những gia đình nng chiều con q mức chỉ mải mê
kiếm tiền sao nhãng việc học hành ít quan tâm đến những hành vi của trẻ.
Cũng do đời sống kinh tế khó khăn, đại bộ phận các gia đình vùng đồng bào
dân tộc thiểu số ở các vùng sâu vùng xa còn thiếu các phương tiện thơng tin đại
chúng cịn thiếu, trình độ văn hoá của các bậc cha mẹ thấp.
Một bộ phận không biết đọc biết viết nên thiếu kinh nghiệm trong ni dạy
con cái.
Đứng trước tình hình như vậy tơi lo lắng phải dạy trẻ như thế nào và bằng
những biện pháp gì? để tất cả trẻ lớp tơi có những thói quen và hành vi đạo đức
chuẩn mực của xã hội. Tơi đã nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả các biện pháp mà
tôi đưa ra ngay trong lớp tôi phụ trách.
2.2.3. Thực trạng ban đầu:
5

skkn


Qua một thời gian trải qua quá trình tiến hành thực nghiệm, khảo sát ban đầu
trên trẻ cho thấy kết quả đầu năm của trẻ trên lớp được như sau:
Nội dung khảo sát

SCKS

Kết quả khảo sát
Đạt
Chưa đạt
Số
%

Số
%
cháu
cháu
9
30
21
70
13
43
17
57
12
40
18
60
11
37
19
63
12
40
18
60
13
43
17
57
12
40

18
60

Trẻ biết chào hỏi xưng hô lễ phép
30
Biết cảm ơn, xin lỗi nhận đồ vật bằng hai tay. 30
Ho, ngáp, hắt hơi biết lấy tay che miệng
30
Mạnh dạn giới thiệu tên, tuổi
30
Trẻ biết tự xúc để ăn
30
Thói quen chờ đợi đến lượt
30
Thực hiện các yêu cầu của cô giáo và người 30
lớn.
Phân biệt được các hành vi tốt, xấu
30
13
43
17
57
2.3 Giải pháp và tổ chức thực hiện.
Biện pháp 1: Giáo viên và phụ huynh là tấm gương cho trẻ noi theo
trong mọi hoạt động
Các bậc phụ huynh và cơ giáo có sự ảnh hưởng nhiều nhất tới sự phát triển
nhân cách của trẻ. Vì vậy để giáo dục được lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số trước
tiên phụ huynh và giáo viên phải là tấm gương cho trẻ noi theo.
Đúng vậy cô giáo phải có phẩm chất của một nhà giáo và là tấm gương sáng
để trẻ noi theo. Khi xưng hô với trẻ tôi luôn ân cần nhẹ nhàng, khi giao tiếp với phụ

huynh trong giờ đón trẻ, trả trẻ tơi ân cần khiêm tốn lịch sự trong giao tiếp với phụ
huynh, cháu hỏi gì tơi trả lời rõ ràng tơn trọng ý kiến của trẻ.
Là người lớn luôn phải giữ đúng lời hứa để gương mẫu cho trẻ. Cha mẹ phải
làm gương cho trẻ phải biết giữ những mối quan hệ hành vi quan hệ họ hàng một
cách có hiệu quả để ni dạy con cách sống, cách thể hiện tình cảm nhân cách sống
với mọi người. Hãy làm gương tốt cho trẻ vì lứa tuổi này trẻ bắt trước rất nhanh kể
cả những thói xấu của người lớn, chính vì thế ta phải dạy cho trẻ những đức tính tốt
như: Sự cảm thơng, kiên trì, an ủi, lịng bao dung để trẻ duy trì ni dưỡng những
phẩm chất tốt đẹp.
Bất kỳ ở đứa trẻ nào cũng thích được thương yêu gần gũi vì thế mọi biểu
hiện của cơ giáo từ lịng nhân hậu vị tha công bằng sẽ để lại dấu ấn trong trẻ. Vì
vậy khi giao tiếp với bạn bè đồng nghiêp hay với phụ huynh trước mặt trẻ tôi ln
có chuẩn mực trong giao tiếp. Đặc biệt tơi phải luôn chú ý đến trang phục gọn
gàng, lịch sự, không đi ngang qua mặt trẻ để trẻ có thể học được cái hay cái đẹp từ
cô. VD: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc quần áo đầu tóc gọn gàng,
sạch đẹp, đi học biết chào cơ khi đến lớp khơng khóc nhè…trước tập thể lớp. Ngay
6

skkn


hơm sau tơi thấy có nhiều cháu đi học biết chào hỏi cơ, ăn mặc sạch sẽ. Vì cháu bắt
chước bạn để được cơ khen.
Cịn khi chê trẻ khơng chê chung chung nhưng cũng phải tìm cách chê thật
khéo léo. Không chê trước tập thể lớp mà phải gần gũi, ân cần, nhắc nhỡ, góp ý
riêng với trẻ để trẻ khơng vì xấu hổ mà có ý nghĩ khơng muốn đi học.
Ví dụ: Khi chê một cháu nghịch trong giờ học. Kết thúc giờ học tôi nêu gương
khen một số trẻ ngoan. Cịn những trẻ chưa ngoan tơi chỉ nhắc nhỡ phê bình chung
chung. Nhưng sau giờ học đó vào hoạt động mọi lúc mọi nơi tôi sẽ gần gũi nhắc
nhỡ cháu trao đổi với cháu bằng những câu hỏi: Con thấy hôm nay bạn Hùng học

ngoan không? (Ngoan ạ). Cịn con ngồi con làm gì? Như thế đã ngoan chưa?( Chưa
ngoan ạ) . Từ đó tơi dặn trẻ: Bạn Hùng hôm nay rất ngoan được cô khen rồi đấy
hôm sau con hãy học tâp bạn để được cô khen nhé.
- Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm một cách hào hứng được tham gia các tình
huống và sử lí tình huống. Ví dụ: khi cơ tặng q cho trẻ, trẻ được tặng quà phải
biết xin và cảm ơn.

Trẻ được nhận quà biết xin và cảm ơn

7

skkn


Nhìn chung, để giáo dục cho trẻ dân tộc thiểu số có một lễ giáo văn hố tốt
đẹp thì trước tiên cô giáo và phụ huynh phải là tấm gương tốt cho học cho trẻ học
tập noi theo.
Biện pháp 2: Giáo dục lễ giáo, nề nếp, thói quen cho trẻ mẫu giáo dân
tộc thiểu số.
Việc hình thành giáo dục lễ giáo thói quen, cần giáo dục cho trẻ ở mọi lúc
mọi nơi để nhằm mục đích giúp trẻ dễ nhớ và khắc sâu được, nhưng trẻ sẽ rất dễ
quên nếu ta không uốn nắn sữa chữa hàng ngày cho trẻ.
Để đưa trẻ vào nền nếp trước tiên từ việc đón trẻ đến lớp và trả trẻ về. Trẻ
dân tộc vùng cao đến trường chưa có nề nếp, trẻ chào cơ bằng tiếng dân tộc, có trẻ
chào cơ nhưng lí dí rụt dè. Đặc biệt những ngày đầu tiên trẻ còn nhút nhát tơi đã
gần gũi và trị chuyện với trẻ. Trao đổi với phụ huynh để phụ huynh nhắc trẻ chào
cô. Đặc biệt cô làm gương trước cho trẻ bằng cách chào phụ huynh của trẻ trước và
chào trẻ của mình.
VD: Cơ chào con! Và ngay sau đó trong đầu trẻ đã nảy ra suy nghĩ về lí do đó, kết
quả của ngày hôm sau khi nghe cô chào: Cô chào con! Thì ngay lập tức trẻ đã chào

cơ. Tơi phải khen ngợi và khuyến khích để trẻ thích thú sau đó là nhắc trẻ chào các
bạn của mình vào chào tạm biệt người đưa mình đến trường.

Trẻ chào cơ giáo khi đến lớp
8

skkn


Đặc biệt khi đón trẻ tơi ân cần trị chuyện với trẻ và phải nghiêm túc trong việc
xưng hô với trẻ và bố mẹ trẻ, tập cho trẻ đến lớp chào cơ sau đó là chào tạm biệt
người thân, chào các bạn, trẻ cất đồ dùng rồi vào lớp theo đúng nội quy. Đó là việc
rèn nề nếp khi trẻ đến lớp
Từ đó tập cho trẻ thói quen văn minh ở trường lớp, Giáo dục trẻ tinh thần tự
lực tự giác ý thức kỷ luật trật tự trong sinh hoạt hành vi văn minh, giữ gìn vệ sinh
chung.
Giáo dục trẻ quan hệ đoàn kết nhân ái với bạn bè biết u mến và tơn trọng
người lớn. Có ý thức giữ gìn tài sản chung và tài sản riêng. Để giáo dục nề nếp thói
quen cho trẻ tơi thường xun nhắc nhở, kiểm tra, để giúp trẻ có ý thức bảo vệ mơi
trường, giữ gìn vệ sinh chung. Khơng vứt rác bừa bãi, bỏ rác vào đúng nơi quy
định.
Kiểm tra việc giao tiếp ứng xử bằng ngôn ngữ của trẻ, tránh trường hợp nói
tục chửi bậy ở trẻ. Vì thế tơi luôn kiểm tra chỉnh sửa để trẻ ứng sử một cách có văn
hố.
Tơi thường xun giáo dục trẻ biết nói có chừng mực, từ tốn và cần giữ gìn
vệ sinh chung. Khi cho trẻ ăn bất cứ thứ gì tơi cũng giáo dục trẻ bỏ rác đúng nơi
quy định.
VD: Ăn xong con phải bỏ vỏ vào đâu?
Giáo dục trẻ biết xin lỗi, cảm ơn: khi trẻ chơi tự do hay trong bất kỳ các hoạt
động nếu trẻ làm gì sai đối với bạn. Với bản thân tôi việc phải làm ngay là phải

giúp trẻ nhận ra lỗi của mình và sửa sai, sau đó việc tiếp theo nên làm là phải xin
lỗi cơ xin lỗi bạn. Nếu ai cho gì thì phải biết xin và nói lời cảm ơn, nếu người lớn
cho gì thì phải nhận bằng 2 tay và biết nói cảm ơn người đó.
Từ những việc làm đó diễn ra hàng ngày và thường xuyên sẽ giúp trẻ hình
thành một nề nếp thói quen tốt đẹp hơn khi ở trường. Từ sự tác động của cô giáo
hằng ngày đã giúp trẻ tích lũy được những đức tính tốt trong sinh hoạt.
Để trẻ có ý thức chăm sóc cây xanh và bảo vệ môi trường tôi giúp trẻ hiểu
được:
Cây xanh trong trường để làm gì?
Cách chăm sóc cây xanh như nào?
Cơ giúp trẻ biết cách chăm sóc, biết u thiên nhiên cảnh đẹp. Giáo dục trẻ
không ngắt lá bẻ cành.
Giáo dục trẻ có lễ giáo cho trẻ trong việc đoàn kết với các bạn, thương yêu
mọi người xung quanh. Qua tất cả các hoạt động trong ngày của trẻ.
Trước khi ăn tôi nhắc trẻ phải biết mời cô, mời bạn trước khi ăn, có khách
đến phải biết chào mời. Tơi nhắc trẻ giữ gìn vệ sinh trước khi ăn và sau khi ăn, biết
giữ gìn thân thể sạch sẽ.
Tất cả mọi hoạt động tơi đều có sự định hướng cụ thể để rèn cho trẻ nề nếp
thói quen tốt.
Hiểu được tâm lý, tiếng dân tộc và những phong tục của người dân tộc địa
9

skkn


phương tôi đã giúp trẻ làm quen với từng hoạt động, từng thói quen văn minh có
quy tắc. Từ đó trẻ dần dần hình thành những thói quen tốt.
Nhờ đó tôi đã làm thay đổi tất cả những hành vi thói quen của trẻ dân tộc
thiểu số lớp tơi, từ việc uốn nắn kịp thời ở đúng độ tuổi. Trẻ sẽ có một thói quen tốt
khi hằng ngày được cơ sát sao chỉ bảo ân cần tận tình cho trẻ.

Biện pháp 3: Lồng ghép hoạt động lễ giáo qua hoạt động học có chủ
đích.
Ở mọi hoạt động trong ngày, tơi thường tập cho trẻ có thói quen giữ vệ sinh
mơi trường như: không vứt rác bừa bãi, không ngắt lá bẻ cành, không vẽ bậy lên
tường và thường xuyên cho trẻ vệ sinh cá nhân: vệ sinh thân thể, rửa tay, chân sạch
sẽ, quần áo sạch sẽ, gọn gàng. Thường xuyên nhắc nhở trẻ chào khách đến lớp
cũng như khách đến nhà.
Trong giờ chơi tự do, hay giờ lao động, sinh hoạt ngồi trời nếu cháu làm việc
gì sai đối với bạn, cô giáo nhắc nhở trẻ phải biết xin lỗi cơ, xin lỗi bạn, ai cho gì thì
nhận bằng hai tay và nói cháu cảm ơn cơ, chú... Trong q trình chơi tơi ln nhắc
nhở trẻ phải ln đồn kết với bạn bè, không tranh giành đồ chơi, không trêu chọc,
đánh bạn mà phải biết nhường nhịn, giúp đỡ lẫn nhau.
Thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện và mọi lúc mọi nơi, để khen ngợi
trẻ đúng lúc, đúng nơi, kịp thời giúp trẻ có thói quen nề nếp tốt hơn.
Giờ hoạt động ngồi trời.
Ví dụ: Tham quan vườn rau trong sân trường.
- Muốn cho rau xanh tốt các con phải làm gì?
- Các con sẽ làm gì để bảo vệ vườn rau của trường mình?
Với những câu hỏi đơn giản, gần gũi như vậy giúp trẻ biết chăm sóc, bảo vệ
vườn rau, cây xanh quanh sân trường.
Trong giờ ăn tại lớp tôi thường giáo dục các cháu khi ăn phải mời người lớn,
khi ăn phải từ tốn, ăn chậm rãi, trong khi ăn khơng được nói chuyện, khi ho phải
che miệng, không làm rơi cơm, bốc cơm.... Qua đó giáo dục trẻ có những thói
quen, hành vi văn minh trong ăn uống.
Qua giờ ăn tôi thường xuyên khuyến khích trẻ ăn hết xuất cơm, khơng bỏ
cơm bằng nhiều cách như: Bạn nào hôm nay ăn hết xuất cơm cô cho cắm cờ bé
ngoan, cuối tuần cô thưởng bé ngoan.
Vào các buổi cuối ngày, cuối tuần, tôi cho trẻ kể chuyện về gương bạn tốt, nêu
gương bạn tốt tại lớp để trẻ học tập và noi theo. Vì trẻ ở lứa tuổi này thích được khen
nên sau mỗi việc làm tốt của trẻ tơi khơng qn khuyến khích và khen ngợi trẻ.


10

skkn


Cuối mỗi ngày, mỗi tuần tôi thường tổ chức cho trẻ nêu gương. Qua những
tấm gương tốt của các bạn hoặc các nhân vật trong truyện để động viên trẻ bắt
chước những việc làm tốt.
Một trong những hình thức giáo dục lễ giáo cho trẻ mang lại hiệu quả tương
đối cao đó là giáo dục thơng qua việc tổ chức các hoạt động có chủ đích, các nội
dung giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số được tích hợp trong nhiều hình thức
tổ chức các hoạt động chủ đích.
Trong q trình thực hiện lồng các mơn học trong hoạt động chủ đích nhằm
trau dồi cho trẻ kiến thức cần thiết về cuộc sống xung quanh giúp trẻ biết gắn bó
yêu quê hương, yêu quý con người lao động, có ý thức bảo vệ thiên nhiên. Có hành
vi văn minh làm giàu tri thức về cuộc sống của trẻ. Thơng qua hình tượng nghệ
thuật giáo dục trẻ tình cảm về đất nước con người, thiên nhiên. Xây dựng những
kiến thức và kinh nghiệm về lễ giáo giúp trẻ nhận biết được điều tốt, điều xấu.
Bên cạnh đó thơng qua hoạt động chủ đích, thơng qua giờ học tơi rèn cho trẻ
nề nếp thói quen khi cơ giáo đang giảng bài thì trẻ phải trật tự chú ý và cùng lắng
nghe, cơ hỏi gì nếu trẻ biết và muốn nói thì phải giơ tay được sự đồng ý của cơ trẻ
mới được trả lời.Tránh trường hợp trẻ nói leo, nói ồ ạt để rèn cho trẻ một nề nếp
tốt.
VD: Hình ảnh minh hoạ khi cô đang cùng trẻ hoạt động chủ đích cơ có câu
hỏi với trẻ, lúc này trẻ muốn nói lên ý kiến của mình trẻ sẽ làm gì?

Trẻ biết dơ tay khi muốn trả lời câu hỏi của cô giáo
11


skkn


Thơng qua hoạt động học tơi ln có thái độ đúng đắn, khi trẻ làm sai gì tơi
khơng tỏ thái độ giận giữ, mắng chửi trẻ mà phải tìm hiểu và giúp trẻ nhận ra
những sai lầm trẻ mắc phải. Do đó để hình thành thói quen hành vi có văn hố thì
việc lồng ghép giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số qua hoạt động
học có chủ đích là rất quan trọng cụ thể: Lồng ghép giáo dục lễ giáo vào hoạt động
giáo dục “Âm nhạc”.
VD: Chủ đề nghề nghiệp: DH: “Bác đưa thư vui
tính” Đàm thoại:
Bác đưa thư đến nhà con phải làm gì?
Khi nhận thư phải nhận bằng mấy tay?
Nhận thư xong phải nói gì với bác?
Thơng qua đó giáo dục trẻ gặp người lớn phải biết chào hỏi, khi nhận quà
hoặc đưa vật gì cho người lớn phải nhận và đưa bằng 2 tay và khi nhận xong các
con phải biết cảm ơn.
VD: Chủ đề trường MN: DH: “Chào hỏi”
Đàm thoại:
Khi đến trường con phải chào ai?
Khi đi học về con chào ai?
Khi cúi chào tay phải thế nào?
Vì sao lại được mọi người khen ngoan?
Đặc biệt khi tôi hát cho trẻ nghe tôi giới thiệu cho trẻ các làn điệu dân ca và
giáo dục trẻ biết yêu quý các làn điệu dân ca trên quê hương mình.
Lồng ghép giáo dục lễ giáo qua hoạt động “Thể dục”:
VD: Muốn cho cơ thể khoẻ mạnh các con phải làm gì?
Tơi ln phải giáo dục trẻ tập thể dục đều đặn mỗi ngày để có cơ thể khoẻ
mạnh.
Giáo dục trẻ khi tập, khi xếp hàng các con không được chen lấn, xô đẩy

nhau. Khi thực hiện các động tác cần khéo léo cẩn thận, phải biết giữ gìn và bảo vệ
các dụng cụ thể dục.
Lồng ghép giáo dục lễ giáo qua hoạt động “Tạo
hình” VD: Chủ đề trường Mầm Non “ Vẽ hoa tặng
cô” Đàm thoại:
Hằng ngày ở trường ai chăm sóc các con?
Đối với cô giáo con phải thế nào?
Tặng hoa cho cô giáo phải tặng bằng mấy tay?
Từ đó giáo dục trẻ biết thương u kính trọng và biết ơn cơ giáo người đã
chăm sóc dạy dỗ mình như người mẹ thứ hai, biết tặng quà cho người lớn bằng 2
tay.
Lồng ghép giáo dục lễ giáo vào giờ “ khám phá khoa học”.
VD: Chủ đề gia đình: Trị chuyện về những người thân trong gia đình.
Đàm thoại:
Gia đình con có những ai?
12

skkn


Là gia đình nhỏ hay gia đình lớn?
Mọi người trong gia đình như thế nào với nhau?
Để thể hiện tình cảm với mọi người con phải làm gì?
Qua đó giáo dục trẻ biết thương yêu kính trọng mọi người thân trong gia đình.
Lồng ghép giáo dục lễ giáo qua giờ “văn học”.
VD: Khi dạy bài thơ “chiếc quạt nan”
Đàm thoại:
Bà cho chiếc quạt nan bé phải nói với bà như thế nào?
Bé ước mình mau lớn để làm gì?
Qua bài thơ tơi giáo dục trẻ biết thương u chăm sóc người thân trong gia

đình, khi trong gia đình có người bị ốm. Giáo dục trẻ yêu thương kính trọng người
già biết ngoan ngỗn nghe lời và biết thể hiện tình thương của mình với ơng bà, bố
mẹ. Chính từ những hành động của các nhân vật trong bài thơ câu chuyện tôi giúp
trẻ chuyển thành hành động trong sinh hoạt hàng ngày. Tơi rèn cho trẻ cách nói
cách hỏi, biết cảm ơn, xin lỗi, biết giúp đỡ mọi người. Qua hoạt động văn học còn
giáo dục trẻ lòng thật thà chăm lo lao động, dạy trẻ yêu cái thiện, gét cái ác, hình
thành cho trẻ lịng nhân ái đối với những người xung quanh.
Biện pháp 4: Giáo dục ở mọi lúc mọi nơi thông qua việc lồng ghép giáo
dục lễ giáo vào các hoạt động .
Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu đối với công tác giáo dục lễ giáo
cho trẻ vùng dân tộc thiểu số. Chúng ta có thể giáo dục trẻ những hành vi đạo đức
văn minh từ việc thấy được nhiều gương tốt, những hành vi đẹp của bạn bè người
khác qua tranh ảnh, qua bài thơ câu chuyện. Trong thực tế cho thấy vui chơi chính
là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi mẫu giáo, các đặc điểm tâm lý mới, tính cách mới
đã được hình thành chủ yếu do các hoạt động chủ đạo này. Vì vậy trong cơng tác
giáo dục lễ giáo cho trẻ dân thộc thiểu số thì trị chơi chính là phương tiện mạnh mẽ
và mang lại hiệu quả nhất.
VD: Trong quá trình chơi khi sảy ra tình huống trẻ tranh đồ chơi của bạn. Cơ
giáo chính là trọng tài để hịa giải những mâu thuẫn này. Cơ giải thích cho trẻ biết
hành động tranh đồ chơi của bạn là không ngoan. Nếu con muốn con sẽ cùng chơi
với bạn hoặc con phải mượn bạn trước, con muốn đồ chơi trên tay bạn thì phải có
sự đồng ý của bạn
Trong các góc chơi: Trị chơi phân vai theo các chủ đề có vị trí quan trọng,
thơng qua trị chơi tơi có thể quan sát kỹ hoạt động, thái độ giao tiếp của trẻ, đặc
biệt khi đó tơi ln có tác động lớn về mặt đạo đức đến trẻ. Ở góc phân vai diễn ra
nhiều mối quan hệ khăng khít đó là quan hệ giữa trẻ với nhau và quan hệ giữa các
vai chơi trong góc.
VD: Khi đóng vai người bán hàng và người mua hàng, trước tiên tôi phải giúp trẻ
hiểu được mục đích của người bán hàng sẽ làm gì? Cách giao tiếp, hành vi của
người bán hàng với khách như thế nào? Và người đi mua phải làm thế nào? Để

giúp trẻ hiểu được hoạt động thực sự của mình đang làm.
13

skkn


Đối với người bán hàng phải niền nở chào hỏi người khách đến mua hàng,
đối với khách hàng hơn tuổi phải dạ, thưa lễ phép. Ví dụ: Dạ cháu chào bác ạ, bác
ơi mời bác vào cửa hàng cháu mua hàng ạ!
Đối với người mua hàng cần biết tôn trọng người bán hàng nếu làm hỏng
hàng cần phải xin lỗi. Tôi phải hướng dẫn để trẻ biết nhập vai chơi thực sự, đặc biệt
cần chú trọng đến cách giao tiếp để uốn nắn cho trẻ.
VD: Chơi với trò chơi bác sỹ, y tá, bệnh nhân. Tôi giúp trẻ biết Bác sỹ phải
biết thăm hỏi bệnh lý của bệnh nhân, ân cần, thân thiện xưng hô đúng phép.
Cô thấy đau ở đâu?
Cô bị đau lâu chưa?
Cô cứ yên tâm tôi sẽ khám và chữa cho cô khỏi bệnh.
Vai y tá phải biết cách lấy thuốc dặn dò bệnh nhân uống thuốc đúng giờ như:
Cô bị đau chân nên không được vận động nhiều,
Đây là thuốc của cô.
Thuốc này uống trong 2 ngày.
Một ngày chia làm 2 lần uống.
Mỗi lần uống 2 viên.
Cô uống hết thuốc là khỏi bệnh đấy.
Vai bệnh nhân đến khám bệnh, khi đến phòng khám phải biết chào Bác sỹ,
phải biết nói bệnh tình của mình, khi nhận thuốc phải biết nói lời cảm ơn.
Tơi chào bác sĩ!
Tơi thấy hoa mắt chóng mặt lắm.
Bác sĩ khám bệnh cho tôi với ạ. Và khi nhận thuốc bệnh nhân sẽ phải nói:
Tơi cảm ơn bác sĩ, bác sĩ cho tơi xin. Bệnh nhân phải nhận thuốc bằng 2 tay và

chào bác sĩ: Tôi chào bác sĩ tôi về.
Điều quan trọng là việc xây dựng hình ảnh như thật để trẻ cùng được trải
nghiệm như một phòng khám, một bệnh viện thực sự bên ngồi của người lớn đang
diễn ra.
Trị chơi bác sĩ đang khám bệnh cho bệnh nhân, bệnh nhân đang bị đau răng
bệnh nhân đang nói: Tơi chào bác sĩ ạ, bác sĩ ơi tôi thấy đau răng lắm, bác sĩ khám
cho tôi với! Nếu trẻ không biết tôi hướng dẫn trẻ làm bác sĩ:
Bệnh nhân bị đau răng bác sĩ phải khám ở đâu?
Tôi gợi ý để trẻ trong nhóm chơi biết được, bác sĩ đang khám bệnh, y tá đang
tiêm thuốc. Bên ngồi cịn nhiều bệnh nhân đang chờ. Bác sĩ sẽ phải thế nào?
VD: Góc xây dựng: Giúp trẻ biết những người kỹ sư xây dựng, cách giao
tiếp xưng hơ với nhau trong góc chơi, biết sắp xếp bố trí cơng việc hợp lý, biết lễ
phép với những người lớn tuổi trong nhóm chơi như: Tơi đang xây nhà tầng đây,
bác đi lấy cho tơi ít gạch nhé!
Vâng! Anh chờ tôi sang cửa hàng vật liệu mua nhé.
VD: Góc thư viện - sách. Tơi chuẩn bị tranh, ảnh và một số hình ảnh như “
Bé đang quạt cho bà” hay “ Bé đang đưa tăm cho bà bằng hai tay” hay tranh “ Bé
đang khoanh tay chào cô giáo” . Mỗi bức tranh theo từng nội dung của chủ đề hàng
14

skkn


tháng, bên cạnh đó sử dụng loại tranh thơ chữ to, đọc cho trẻ nghe mang tính chất
giáo dục trẻ. Trẻ được nghe và quan sát tranh dần dần sẽ thấm sâu vào tâm lý trẻ
một cách tự nhiên nhẹ nhàng không áp đặt. Trẻ tự cảm nhận được cái hay, cái đẹp
trong mỗi bài thơ, mỗi bức tranh. Nhờ đó vốn tiếng việt của trẻ dân tộc dần được
phát triển trẻ đã diễn đạt theo sự hiểu biết của mình và hình thành hành vi nề nếp
thay đổi một cách có ý thức.
Góc thiên nhiên: Qua góc thiên nhiên tơi giúp trẻ biết u cái đẹp, biết lợi ích

cái đẹp trong thiên nhiên, biết lau lá, tưới cây chăm sóc cho cây, biết khơng được
ngắt lá, bẻ cành, rèn cho trẻ thói quen biết bảo vệ các loại cây và cảm nhận được sự
đau đớn của cây khi bị bẻ cành, ngắt lá. Nhằm mục đích giúp trẻ cảm nhận được
tình yêu của con người với thiên nhiên xung quanh mình.
Nhìn chung thơng qua các hoạt động của trẻ ở các góc chơi giúp tơi thấy
được trẻ ngày một mạnh dạn hơn, đặc biệt với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số các
cháu có quy tắc hơn trong nề nếp, biết chào hỏi, biết xin, biết cảm ơn và đặc biệt
biểu đạt tình cảm của mình mạnh dạn hơn với cô giáo và mọi người. Sự nhút nhát
và rụt rè đã mờ dần ở trẻ người dân tộc thiểu số, trẻ đã cảm nhận được lễ giáo của
văn hoá tốt đẹp qua hoạt động hàng ngày mà trẻ được trải nghiệm, trẻ đã vui tươi
hơn trên khuôn mặt khờ khạo ngây ngô ban đầu của trẻ.
Biện pháp 5: Giáo dục lễ giáo quan việc giáo viên tuyên truyền với phụ
huynh mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số.
Trong buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi thường lồng ghép trao đổi với phụ
huynh về tầm quan trọng của giáo dục lễ giáo đối với trẻ ở nhóm lớp mình phụ
trách. Vì trẻ còn nhỏ, trẻ thường hay bắt chước các hành động của người lớn nhưng
trẻ lại chưa ý thức được việc làm của mình. Để phụ huynh nhận thức được ý nghĩa
của vấn đề trên và cùng nhà trường giáo dục trẻ thì việc phối hợp với phụ huynh
trong cơng tác giáo dục trẻ là vấn đề rất cần thiết. Tơi ln trị chuyện, tun truyền
với phụ huynh về các nội dung giáo dục lễ giáo để phụ huynh phối hợp rèn và dạy
trẻ tại gia đình.
Ngồi chế độ sinh hoạt và tất cả các hoạt động trong ngày của cơ và trẻ trong
trường, thì các bậc phụ huynh là người thầy, người cô đầu tiên tác động vào giáo
dục nhân cách của trẻ, các bậc phụ huynh cũng phải tìm ra những phương pháp
hiệu quả nhất theo một nguyên tắc cơ bản của việc xác định tính cách như: Trung
thực, đồn kết, lịng vị tha, sự tơn trọng kính yêu của mọi người. Nếu khích lệ trẻ
trẻ sẽ thấy mình tự tin và có ích góp phần quan trọng trong gia đình hơn, giáo viên
và phụ huynh cần động viên sự cố gắng của trẻ và khích lệ để trẻ hoạt động giúp trẻ
hình thành đạo đức và nhân cách tốt vì vậy mỗi gia đình phải có trách nhiệm với
con cái.

Trong gia đình mọi người phải thực sự gương mẫu về đạo đức, lối sống
hành vi ứng xử để trẻ noi gương và giáo dục dạy dỗ trẻ những hành vi tốt. Chính vì
vậy việc tun truyền với phụ huynh là điều không thể thiếu trong giáo dục lễ giáo.
15

skkn


Để có sự đồng nhất giữa gia đình và nhà trường cùng với sự giúp đỡ của cô giáo
chúng tôi đã xây dựng một góc tuyền truyền với phụ huynh cụ thể như sau:
Bước 1: Trao đổi trực tiếp với phụ huynh về tình hình của trẻ. Tơi nhận xét
đánh giá trẻ để cùng gia đình giáo dục song song, tuyên truyền phổ biến kiến thức
nuôi dạy con cho một số phụ huynh cịn hạn chế trong phương pháp ni dạy con
cái, hàng ngày trao đổi với phụ huynh về sự tiến bộ của trẻ để phụ huynh thêm yên
tâm và tin tưởng hơn.
Bước 2: Tuyên truyền với phụ huynh về chuẩn mực đạo đức giao tiếp của trẻ
với người lớn.
Tơi xây dựng góc tun truyền với phụ huynh ở chỗ dễ nhìn, dễ quan sát và
dễ đọc nhất. Đặc biệt những phụ huynh khơng biết chữ thì bằng những hình ảnh
minh hoạ về những hành vi ứng sử sẽ là liều thuốc giúp phụ huynh dễ hiểu hơn.
Biện pháp 6: Giáo dục lễ giáo thông qua việc nêu gương đánh giá khích
lệ tích cực của trẻ.
Thơng qua việc nêu gương khi sử dụng hình thức khen chê bổ xung, sửa
chữa đúng lúc kịp thời đúng nơi, đúng chỗ nhằm mục đích biểu dương trẻ là chính.
VD: Khi biểu dương bé ngoan trước lớp tơi khuyến khích trẻ trước lớp cho
các bạn học tập, noi theo và khen ngợi trẻ bằng cách cho trẻ cắm 1 hoa bé ngoan
lên bảng bé ngoan. Trẻ sẽ rất vui và cảm thấy mình tự tin trước những bạn khác.

Trẻ được cắm cờ bé ngoan cuối ngày
16


skkn


Bên cạnh đó tơi cũng có thể biểu hiện thái độ đồng tình hoặc khơng đồng
tình của người lớn, bạn bè trước những việc làm, hành vi, cử chỉ của trẻ từ đó đưa
ra nhận xét của tơi với trẻ.
VD: Hình thức nêu gương thơng qua nêu gương cuối tuần bình bầu và phát
phiếu bé ngoan cho từng trẻ trong lớp, thông qua việc phát phiếu bé ngoan, tôi đã
nêu gương những bạn tốt, những bạn ngoan đồng thời khích lệ trẻ tiếp tục phát huy
hơn nữa những mặt tốt và mặc khác tôi nêu những gương bạn tốt cho trẻ học tập
bạn của mình. Từ đó tơi khích lệ được trẻ của mình ngày một tích cực hơn qua việc
nêu gương. Dưới đây là hình ảnh minh hoạ về hình thức nêu gương khích lệ trẻ
bằng hình thức phát phiếu bé ngoan.

Trẻ nhận bé ngoan cuối tuần
Từ việc phát phiếu bé ngoan tơi nhận xét từng tình huống, hồn cảnh cụ thể
để giúp trẻ nhận ra cái đã làm được, trẻ biết được cái mình làm là tốt hay chưa tốt
và biết noi gương bạn tốt rút ra kinh nghiệm cho bản thân mình, việc đánh giá
khích kệ trẻ giúp trẻ nhận ra sự tiến bộ của trẻ, đồng thời trẻ cũng được nghe sự tác
động trực tiếp là một lời động viên khích lệ tác động cổ vũ mạnh mẽ thêm cho trẻ
tự tin hơn.
2.4 Hiệu quả:
17

skkn


2.4.1.Hiệu quả đối với giáo dục lễ giáo:
Qua một thời gian kiểm nghiệm và triển khai “ một số biện pháp giáo

dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi vùng dân tộc thiểu số ” bằng tất cả các nội dung
phương pháp đã triển khai trên trẻ và kết quả đã thu được cụ thể như sau:

Nội dung khảo sát

SC
KS
Đạt
Số
cháu
30
30

Trẻ biết chào hỏi xưng hô lễ phép

Kết quả khảo sát
%
100

Chưa đạt
Số
%
cháu
0
0

Biết cảm ơn xin lỗi nhận đồ vật bằng hai
30
27 90
3

10
tay.
Ho, ngáp, hắt hơi biết lấy tay che miệng
30
27 90
3
10
Mạnh dạn giới thiệu tên, tuổi
30
26 87
4
13
Trẻ biết tự xúc để ăn
30
28 93
2
8
Thói quen chờ đợi đến lượt
30
27 90
3
10
Thực hiện các yêu cầu của cô giáo và người
30
27 90
3
10
lớn.
Phân biệt được các hành vi tốt, xấu
30

26 87
4
13
2.4.2. Đối với bản thân:
Qua quá trình áp dụng và thực hiện đề tài, tôi đã gặt hái được một số
thành công nhất định như đã khảo sát được tình hình thực trạng của trường và
các hoạt động nghiên cứu ,tìm ra những giải pháp khắc phục và những phương
thức hoạt động có hiệu quả nhất .
Ngồi những kết quả đã đạt được thì việc áp dụng và thực hiện đề tài vẫn
còn hạn chế như : g iáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số trong suốt mọi hoạt
động trong ngày, bên cạnh đó việc lồng ghép lễ giáo trong các môn học chưa thực
sự thực hiện một cách khéo léo, đặc biệt sự kết hợp tác động quan trọng nhất đến
sự phát triển nhận thức của trẻ và việc dạy dỗ con cái từ phía phụ huynh chưa đúng
chuẩn mực, đúng cách , các tỉ lệ đạt chưa cao.
2.4.3. Đối với đồng nghiệp:
Tham gia tổ chức cho trẻ tham quan, tham gia các hoạt động tập thể để giúp
trẻ mạnh dạn hơn, trẻ có cơ hội bộc lộ phẩm chất của mình để giáo viên nắm bắt
được và có biện pháp giáo dục hợp lý.
Tham gia dự giờ nhiều tiết dạy của đồng nghiệp để học hỏi kinh nghiệm
Vận động phụ huynh ủng hộ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động.

18

skkn


Ln trao dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất danh dự của một nhà giáo, gương
mẫu thương yêu trẻ như con đẻ của mình, ln đối sử cơng bằng, tơn trọng nhân
cách của trẻ.
Phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, hiểu được tính cách của trẻ để

khi tổ chức hoạt động tất cả trẻ tham gia.
Luôn luôn năng động, sáng tạo trong giảng dạy và thường xuyên sưu tầm
tranh ảnh, nội dung liên quan đến giáo dục lễ giáo để góc tuyên truyền ngày càng
phong phú hơn.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua quá trình triển khai những phương pháp áp dụng tôi đã nhận thấy những
con người mới, những công dân mới và những chủ nhân tương lai của đất nước chỉ
có thể hình thành nhân cách văn hoá nếu ngay từ tuổi mẫu giáo chúng ta biết phát
huy thế mạnh của trẻ để bổ xung ngay những lỗ hổng đúng lúc, kịp thời sẽ phát huy
bản năng trổi dậy trong con người trẻ.
3.1 Kết luận.
Qua một thời gian tìm tịi nghiên cứu đề tài này tơi đã rút ra được những
kinh nghiệm từ thực tế trong việc giáo dục lễ giáo cho trẻ vùng dân tộc thiểu số.
Tôi nhận thấy vấn đề giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số là rất cần thiết vì giáo
dục lễ giáo chính là nền tảng của giáo dục nhân cách con người.
Trẻ sinh ra đâu phải đứa nào cũng ngoan cũng lễ phép, mà ngay từ ban đầu
phải rèn luyện cho trẻ, dạy trẻ để sau này trẻ thành người tốt. Chính vì vậy nghành
học mầm non ln coi trọng sự nghiệp chăm sóc giáo dục trẻ là một nhiệm vụ vô
cùng quan trọng đặt nền tảng cho sự nghiệp giáo dục chung. Việc rèn luyện nề nếp,
thói quen ban đầu cho trẻ nhằm hình thành cho trẻ những cơ sở đầu tiên về giáo
dục nhân cách và phát triển toàn diện là nhiệm vụ hết sức khó khăn ln được đặt
hàng đầu. Vì thế chúng ta phải biết kết hợp tốt và chặt chẽ giữa nhà trường và gia
đình để chăm sóc ni dạy các cháu theo kiến thức khoa học. Có thể nói rằng
những điều mà trẻ bắt đầu được tiếp nhận ở độ tuổi này đều có ảnh hưởng lâu dài
đến việc hình thành toàn bộ nhân của trẻ sau này.
Điều đặc biệt nữa là giáo dục lễ giáo cho trẻ phải có tính kiên trì, bền bỉ và
phải được thực hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần để hình thành thói quen
cho trẻ, dần dần trở thành bản năng, giúp trẻ thực hiện lễ giáo một cách tự nhiên mà
không cần nhắc nhở.
Do đề tài được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một nhóm lớp 3 - 4 tuổi do tơi phụ

trách, vì một số kinh nghiệm tơi đưa ra khơng tránh khỏi nhiều thiếu sót. Qua đây tơi
rất mong được cán bộ chun mơn phịng giáo dục, sở giáo dục, Ban giám hiệu nhà
trường và bạn đồng nghiệp đọc góp ý, xây dựng bổ sung thêm để giúp tơi có được bài
học kinh nghiệm tốt hơn để áp dụng trong q trình cơng tác của bản thân, đặc
19

skkn


biệt nâng cao chất lượng của việc giáo lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số nói chung,
trẻ 3 - 4 tuổi ở trường mầm non Điền Trung nói riêng.
3.2. Kiến nghị.
Để thực hiện tốt giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số hiện nay thông qua
việc thực hiện các biện pháp ở trên đã phần nào đẩy lùi những quan niệm tập tục
của người dân tộc thiểu số, hình thành cho trẻ thói quen hành vi văn minh đúng
chuẩn mực văn hoá lễ giáo. Để phát huy hơn nữa mặt tích cực và khắc phục những
tồn tại hạn chế góp phần nâng cao chất lượng giáo dục lễ giáo cho trẻ mẫu giáo dân
tộc thiểu số tôi mạnh dạn có những kiến nghị như sau:
Đối với giáo viên cần tìm tịi những đặc điểm riêng của trẻ để có những biện
pháp giáo dục lễ giáo phù hợp, lấy những câu chuyện những tấm gương gần gũi
giúp trẻ cảm nhận và tiếp thu một cách có hiệu quả.
Đối với nhà trường cần tổ chức cho trẻ tham quan, tham gia các hoạt động
tập thể để giúp trẻ mạnh dạn hơn, trẻ có cơ hội bộc lộ phẩm chất của mình để giáo
viên nắm bắt được và có biện pháp giáo dục hợp lý.
Ban giám hiệu cần tạo điều kiện cho giáo viên tham quan trao đổi học hỏi
kinh nghiệm của đơn vị bạn.
Mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc thiểu số phù
hợp với đặc thù của địa phương.
Trên đây là một số kinh nghiệm được rút ra trong quá trình học tập và cơng
tác, để có kinh nghiệm và phương pháp hiệu quả hơn tơi xin mạnh dạn trình bày rất

mong được sự đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu, các cấp lãnh đạo và bạn bè
đồng nghiệp để tôi rút ra được kinh nghiệm sâu xắc hơn khi triển khai phương pháp
của mình để đạt kết quả tốt hơn nữa trong quá trình giáo dục lễ giáo cho trẻ dân tộc
thiểu số.
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯƠNG Điền Trung, ngày 20 tháng 05 năm 2018
HIỆU TRƯỜNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép của
người khác.

Nguyễn Thị Vinh

Nguyễn Thị Lành

20

skkn



×