Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Skkn rèn năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh ở cấp trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.57 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT THIỆU HĨA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
Rèn năng lực sử dụng cơng nghệ thông tin và truyền thông
qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh ở
cấp trung học phổ thông

Người thực hiện: Thiều Thị Hà
Tổ: Sử - Địa – GDCD
(Thuộc lĩnh vực chuyên môn GDCD)

Năm học 2016 - 2017

0

skkn


Mục lục
Mở đầu………………………………………………………………………..….………………………………………Trang 2
Nội dung………………………………………………………………….…….………….……………………………Trang 4
Kết luận, kiến nghị…………………………………………………………………….………………………Trang 14

1

skkn


I. Mở đầu


1.1 Lý do chọn đề tài
Dạy học là một quá trình cung cấp tri thức và định hướng năng lực của học
sinh. Tuy nhiên, việc học môn GDCD chỉ mang tính đối phó chứ khơng phải học
vì đam mê hoặc học để thi Đại học. Để khắc phục khó khăn này địi hỏi giáo viên
cần tìm tịi những phương pháp, kỹ thuật dạy học kích thích được đam mê, sáng
tạo của học sinh.
Đổi mới phương pháp giảng dạy, để phát huy năng lực của học sinh là một
đòi hỏi của thực tiễn, với môn học GDCD cũng vậy. Mỗi phương pháp giảng dạy
hay kỹ thuật dạy học đều có những ưu thế riêng, vì vậy tùy vào mơn học, bài học,
tiết học mà giáo viên lựa chọn phương pháp, kỹ thuật dạy học phù hợp để định
hướng phát triển năng lực của học sinh phổ thông. Với quan điểm đó, trong q
trình dạy địi hỏi giáo viên cần sử dụng phương pháp dạy học hiệu quả, những kỹ
thuật dạy học phù hợp đạt được mục tiêu giảng dạy, nhất là với môn học GDCD.
Trước yêu cầu của thực tiễn, bản thân tơi thấy việc “hình thành năng lực sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông thông qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho
học sinh” rất quan trọng, nhất là với mục đích lấy học sinh là trung tâm, học sinh
được làm việc, được bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình trên cơ sở tự nhận thức
vấn đề. Tuy nhiên, tài liệu nghiên cứu sâu về vấn đề này chưa nhiều, trong Tài liệu
dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực
học sinh đề cập đến như là nội dung quan trọng trong quá trình dạy học nhưng sử
dụng như thế nào cho một bài học cụ thể thì chưa. Bản thân các đồng nghiệp mà
chủ yếu là các môn khoa học xã hội cũng chưa có kinh nghiệm. Với yêu cầu của
thực tiễn giảng dạy, tơi nhận thấy cần có những đổi mới sáng tạo phù hợp, vì vậy
tơi đã chọn sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ để hình thành năng lực sử dụng công
nghệ thông tin và truyền thông thông cho học sinh. Qua đó học sinh tự nhận thức,
hình thành, phát huy năng lực, khả năng của bản thân qua những bài giảng cụ thể,
qua những chuẩn mực, yêu cầu cụ thể của chuẩn kiến thức kĩ năng mà xã hội yêu
cầu. Đồng thời sử dụng tối đa thời gian, công nghệ mới từ điện thoại thơng minh,
khai thác Internet, thậm chí các em cịn tích cực làm việc theo nhóm, cùng với các
2


skkn


em cần mẫn học tập chăm chỉ trên lớp, trong sách, nghe lời bài giảng của thầy cô
giáo với các em ham chơi điện tử, biết về công nghệ được vận dụng tích cực.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Để cuộc vận động mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học, tự sáng tạo trở
thành hiện thực thì bản thân mỗi giáo viên ln cần nỗ lực hết mình để tìm tịi,
nghiên cứu sáng tạo trên cơ sở u cầu chung của Bộ giáo dục và đào tạo phù hợp
với thực tiễn của nhà trường và tâm lí của học sinh mà mình đang trực tiếp giảng
dạy. Thực tế những bài học của môn GDCD thực sự rất hấp dẫn vì gắn liền với
thực tiễn cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên nếu giáo viên không sáng tạo với
phương pháp học hiện đại lại gây nhàm chán và không hấp dẫn, không đem lại
hiệu quả học tập như mong muốn. Xuất phát từ thực tiễn khách quan cần có những
cách làm mới hơn, rèn luyện năng lực thực sự cho học sinh tôi đã chọn đề tài này
để nghiên cứu: “Rèn luyện năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
thông qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học sinh”
1.3 Đối tượng nghiên cứu
GDCD THPT là sự kết nối khoa học giữa các phần, giúp học sinh hình thành thế
giới quan và phương pháp luận đúng đắn trong cuộc sống. Mỗi bài học GDCD đều
có thể áp dụng nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác nhau để hình thành nhiều
năng lực cho học sinh. Tuy nhiên, với phạm vi cho phép thì tơi chọn nội dung của
lớp 11, phần 2 công dân với một số vấn đề chính trị xã hội để thực hiện và cũng áp
dụng cho tất cả các lớp thuộc khối 11 mà tơi giảng dạy. Qua đó, tơi cũng đánh giá
chung được năng lực của từng lớp và đánh giá riêng được cá nhân học sinh, nhóm
học sinh.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở thực tiễn tôi chọn phương pháp nghiên cứu lý thuyết như là phương
pháp giả thuyết ( phương pháp đề xuất và kiểm chứng giả thuyết), phương pháp

nghiên cứu thực tiễn như phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương
pháp chuyên gia, phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm, phương pháp
thực nghiệm khoa học…
3

skkn


II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện
giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi
nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở
để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã
hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông trong dạy và học”. Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển
năng lực khơng chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về hoạt động trí tuệ mà cịn chú ý
rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống cuộc sống và nghề
nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn…Tăng
cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên học sinh theo hướng
cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học
tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung
các chủ đề học tập phức hợp nhằm giải quyết các vấn đề phức hợp. Với yêu cầu
này, mỗi giáo viên cần chủ động tìm tịi, sáng tạo, tự đổi mới mình cho phù hợp
với yêu cầu của giáo dục hiện đại, tránh tụt hậu, lạc hậu của chính bản thân mình.
Qua nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm các nước phát triển, đối chiếu với
yêu cầu và điều kiện giáo dục trong nước trong giai đoạn hiện nay, các nhà khoa

học giáo dục Việt Nam đã đề xuất chuẩn đầu ra về phẩm chất và năng lực của
chương trình giáo dục trung học phổ thông rất cụ thể về sản phẩm của giáo dục,
hình thành được phẩm chất và năng lực chung. Dạy học mơn GDCD cũng khơng
nằm ngồi những u cầu đó. Mơn học này, với đặc thù riêng của mình ngồi cung
cấp tri thức theo chuẩn kiến thức, kỹ năng thì cần dành cho rèn luyện, hoàn thiện
phẩm chất, những năng lực chung và những phẩm chất năng lực chuyên biệt cho
học sinh. Bên cạnh đó, mơn học này có vai trị quan trọng trực tiếp trong q trình
4

skkn


hình thành ý thức chính trị, hành vi đạo đức, pháp luật và lối sống cho học sinh.
Môn học này có đặc điểm là gần gũi, gắn bó mật thiết với đời sống thực tiễn sinh
động của gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc điểm này tạo cho môn GDCD có
những lợi thế để giáo viên có thể sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực
nhằm phát triển các năng lực cho học sinh, qua đó học sinh tự mình hồn thiện thế
giới quan của bản thân. Cùng với những năng lực chung, mơn GDCD cịn cung cấp
những năng lực chuyên biệt.
* Những phẩm chất bao gồm:
- Yêu gia đình, yêu quê hương đất nước.
- Nhân ái, khoan dung.
- Trung thực, tự trọng, chí cơng, vơ tư.
- Tự lập, tự tin,tự chủ và có tinh thần vượt khó.
- Có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước, nhân loại và môi trường tự
nhiên.
- Thực hiện nghĩa vụ đạo đức, tôn trọng, chấp hành kỉ luật, pháp luật.
* Những năng lực chung bao gồm:
- Năng lực tự học.
- Năng lực giải quyết vấn đề.

- Năng lực sáng tao.
- Năng lực tự quản lí.
- Năng lực giao tiếp.
- Năng lực hợp tác.
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông.
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ.
- Năng lực tính tốn.
* Những năng lực chun biệt của môn GDCD bao gồm:
- Tự nhận thức, điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo
đức xã hội:
+ Nhận thức các giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa, các quy định của pháp luật
và nhận ra được các yếu tố tác động đến bản thân trong cuộc sống, học tập.
5

skkn


+ Nhận thức được các yếu tố tác động đến bản thân, có cách ững xử phù hợp với
các tình huống trong cuộc sốn, học tập.
+ Tự đánh giá, điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã
hội.
- Tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng đất
nước:
+ Đặt ra kế hoạch và nhiệm vụ phấn đấu cho mục tiêu của mình.
+ Nhận ra và tự chịu trách nhiệm trong các hồn cảnh và cơng việc cụ thể.
+ Ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình; tự giác thực hiện trách nhiệm cơng
dân với gia đình, cộng đồng, đất nước.
- Giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội:
+ Tự đánh giá, tự điều chỉnh những hành động chưa hợp lí của bản thân trong học
tập và trong cuộc sống hằng ngày.

+ Chủ động tham gia hợp tác giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị,
xã hội.
Để rèn luyện năng lực cho học sinh không phải đơn giản, thực tế việc học
đang là vấn đề cần được thay đổi đối với học sinh THPT, khắc phục tiếp thu kiến
thức từ thụ động sang chủ động, thay đổi giờ học mà giáo viên truyền thụ kiến thức
sang tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh qua thuyết trình, đàm thoại
để giải quyết vấn đề theo quan điểm của các em.
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo
dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan
tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được
cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công
việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy
cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và
phẩm chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm
tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề,
coi trọng cả kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra đánh giá trong quá trình

6

skkn


học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động
dạy học và giáo dục.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Sau nhiều năm thực hiện công cuộc đổi mới, cải cách, mở cửa, hội nhập với
thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tốt, kinh tế phát triển hơn, đời sống
nhân dân ngày càng cải thiện. Trong xu thế ngày càng hội nhập sâu hơn vào sự
phát triển chung của thế giới việc đáp ứng những yêu cầu mới của xã hôi với từng
cá thể là rất quan trọng để góp phần xây dựng đất nước và làm giàu cho bản thân,

gia đình. Tuy nhiên, trong những năm qua thực tế học sinh, sinh viên sau khi học
nghề, đại học xong rất khó xin việc, một mặt do sự phát triển kinh tế của nước ta
cịn hạn chế nên chưa có nhiều việc làm cho thanh niên; mặt khác bản thân nhiều
thanh niên đã học nghề, được học đại học nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của
việc làm trong xã hội. Có một bộ phận thanh niên sống thụ động, chưa chủ động
học hỏi, nỗ lực. Trước yêu cầu đó, giáo dục của nước ta địi hỏi phải có những
bước chuyển mới để đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn ở tất cả các cấp và giáo
dục trung học phổ thông cũng vậy, mà trước hết là đổi mới phương pháp dạy học
nhằm chú trọng phát triển năng lực của học sinh ở tất cả các cấp học.
Tuy nhiên, trong những năm qua, mặc dù giáo dục của chúng ta đã có nhiều
đổi mới nhưng vẫn cịn nhiều khó khăn và thách thức. Phương pháp, cách thức dạy
và học còn nhiều trăn trở với cả xã hội. Trong khi mỗi cá nhân là một cá thể riêng
biệt, mang cá tính, năng lực riêng, mỗi em có cách nhận thức vấn đề, kiến thức
khác nhau, có em nhận thức tốt bằng ngơn ngữ nói, viết, có em nhận thức tốt bằng
âm thanh, có em nhận thức tốt bằng hình ảnh. Ngồi kết quả chung của sản phẩm
giáo dục cũng cần có những sản phẩm riêng biệt đối với từng học sinh ngay từ buổi
đầu đi học. Một mặt là do điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng đủ đầy để chúng
ta áp dụng những hình thức học mới. Hai là kinh tế xã hội cịn chậm phát triển,
điều kiện gia đình vùng nơng thơn chưa đều ( có nhiều gia đình bố mẹ đi làm ăn
xa, phải lam lũ, vất vả mưu sinh) cũng làm hạn chế việc đầu tư, quan tâm của nhà
nước cũng như phụ huynh cho con em mình tham gia vào những hoạt động trải
7

skkn


nghiệm hoặc phương tiện học tập hiện đại. Ba là chính bản thân giáo viên, mà cụ
thể trong đó có chính bản thân tơi nhiều lúc cũng bằng lịng với cách dạy cũ, ngại
đổi mới, ngại thay đổi. Chính điều này đã làm cho giờ học, nội dung bài học trở
nên nặng nề, khô khan, nhàm chán, cũ kĩ, lạc hậu, kém hấp dẫn, thiếu lơi cuốn.

Trong khi đó, với cơng nghệ hiện đại, phía ngồi cổng trường hàng loạt địa điểm
cung cấp trò chơi điện tử trực tuyến… dưới danh nghĩa điểm truy cập IN TER
NET công cộng lại rất phong phú, đa dạng; trò chơi bắn cá ăn tiền; thậm chí có cả
ghi lơ, đề…
Mơn học giáo dục công dân cũng giống như những môn học khác. Tuy nhiên,
đó là mơn học định hướng hình thành thế giới quan, phương pháp luận, với những
vấn đề liên quan đến ứng xử hằng ngày của học sinh trong cuộc sống. Việc nhận
thức những vấn đề này khơng khó, khơng phức tạp nhưng nhận thức và thực hiện
được không đơn giản. Để việc nhận thức trở nên tự nhiên, không gượng ép và đi
đến hành động phù hợp cần “sự tự nhận thức” của từng cá nhân, từng người, nhất
là đối với học sinh, tuổi đang hoàn thiện nhân cách càng khó(Trong khi thực tế,
nhiều người lớn tuổi cũng chưa hẳn đã nhận thức đúng và hành động đúng).Trước
thực tiễn này địi hỏi với mơn học giáo dục cơng dân cần đổi mới tích cực để mỗi
giờ học trở nên nhẹ nhàng, gần gũi, như sử dụng trò chơi “ đuổi hình bắt chữ”, ơ
chữ, trắc nghiệm nhanh… trong củng cố bài học, kiểm tra bài cũ hoặc tiến trình
dạy bài mới…Thậm chí, với u cầu cao hơn, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho
một vấn đề theo nội dung của chuẩn kiến thức kĩ năng. Như thế góp phần thúc đẩy
phát triển năng lực của học sinh, giúp học sinh có hứng thú hơn với việc học, bắt
buộc học sinh phải năng động tìm tịi khám phá, để phù hợp với yêu cầu của thực
tiễn, yêu cầu của giáo dục nói chung.
Với nhiều năm cơng tác trong ngành giáo dục, tơi đã quan sát khá tỉ mỉ, một
khóa học ở trường mà tơi đang giảng dạy có khoảng 425 học sinh. Trong đó có
khoảng 2 đến 3 em bỏ ngang từ lớp 10 đến lớp 11 do ham chơi ở bên ngồi, khơng
chun cần rèn luyện, bao gồm cả học sinh nam và nữ, khoảng 10 học sinh ham
chơi điện tử thường xun bỏ học chính khóa cịn bỏ học bồi dưỡng con số này
nhiều hơn; số học sinh nam còn lại đa số đều tranh thủ để được vào quán nét chơi
8

skkn



… Ngăn cấm là điều khơng thể, vì trị chơi điện tử là sản phẩm của loài người thời
hiện đại, nó cũng là kết tinh của trí tuệ con người. Vậy nên, cá nhân tôi trong thực
tiễn giảng dạy ở trường, trước yêu cầu của xã hội đòi hỏi phải tìm tịi, vận dụng
phương pháp, kỹ thuật dạy học, cơng nghệ dạy học, bám sát thực tiễn để giảng dạy,
để giờ học cũng thú vị, lôi cuốn và làm cho học sinh thấy các bạn ấy rất quan
trọng, sản phẩm học tập là nỗ lực của cá nhân các em.
Trên cơ sở những phương tiện hiện đại phổ biến từ máy vi tính cá nhân, máy
vi tính ở quán nét có sẵn mạng cơng cộng, mạng WIFI trong trường, điện thoại
thông minh hiện đại, máy chiếu đa năng…và khả năng sử dụng những cơng cụ và
phương tiện đó của học sinh, tôi chọn “Rèn luyện năng lực sử dụng công nghệ
thông tin và truyền thông thông qua việc sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ cho học
sinh trong giảng dạy” như là một hình thức học tập chủ đạo, phù hợp. (Có sản
phẩm của học sinh kèm theo)
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để rèn luyện năng lực sử dụng công nghệ thông
tin và truyền thông thông qua kỹ thuật giao nhiệm vụ
Trong q trình dạy học, khơng có phương pháp dạy học toàn năng phù hợp
với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có
những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng
các phương pháp và hình thức dạy học trong tồn bộ quá trình dạy học là phương
hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học.
Thực tiễn dạy học ở trường trung học phổ thông hiện nay, nhiều giáo viên đã
cải tiến bài giảng trên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình
thức làm việc nhóm, góp phần tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy
nhiên hình thức làm việc nhóm rất đa dạng, khơng chỉ giới hạn ở việc giải quyết
các nhiệm vụ học tập nhỏ xen kẽ trong bài thuyết trình mà cịn là hình thức làm
việc nhóm giải quyết những nhiệm vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết
học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt như phương pháp đóng vai, nghiên
cứu trường hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học tồn lớp bằng làm việc
nhóm xen kẽ trong một tiết học chỉ cho thấy rõ việc tích cực hóa “ bên ngoài” của

9

skkn


học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hóa “ bên trong” cần chú ý đến mặt bên
trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các
phương pháp dạy học tích cực khác.
Hơn nữa, kiến thức môn GDCD rất gần gũi với đời sống thường ngày, ở trong
đề tài này tôi sử dụng chủ yếu phần 2 lớp 11 Công dân với các vấn đề chính trị - xã
hội. Nội dung ở những bài học này rất rõ ràng, cụ thể. Vấn đề là làm thế nào để tạo
ra cách học sinh tiếp cận, nhận thức và rèn luyện kỹ năng một cách tự giác và tìm
thấy sự hứng thú trong quá trình học. Nên tôi đã sử dụng kỹ thuật “ Giao nhiệm vụ
để rèn luyện kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông” cho học sinh,
để học sinh tự chủ được làm việc, tự nhận thức vấn đề, sau đó tự trình bày, thuyết
trình. Với đề tài này tơi đã sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp, chủ yếu là
phương pháp thực nghiệm khoa học để nghiên cứu.
Kỹ thuật giao nhiệm vụ là một kỹ thuật khơng khó, cũng giống như giao bài tập
về nhà truyền thống nhưng với những yêu cầu mới của dạy học hiện đại thì đây lại
là một cách học tập rất mới mẻ, hứng thú, hấp dẫn khi kết hợp với những điều kiện
học tập hiện đại.
Kỹ thuật giao nhiệm vụ được hiểu cụ thể như sau:
- Trước tiên việc giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng.
- Nhiệm vụ giao giao cho cá nhân, nhóm nào?
- Nhiệm vụ là gì?
- Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?
- Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?
- Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?
- Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?
- Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào?

Xác định được kỹ thuật dạy học này sử dụng với bộ môn rất hiệu quả và sử dụng
phổ biến được tới nhiều đối tượng học sinh nên tôi đã áp dụng cho tất cả các lớp
trong hệ thống bài giảng Chính sách dân số và việc làm, Chính sách tài ngun và
bảo vệ mơi trường, Chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học – cơng nghệ, văn
hóa...Đây cũng là bước đầu học sinh làm quen với phương thức học E-learning,
10

skkn


cho phép người học có thể học bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, học những vấn đề
bản thân quan tâm, phù hợp với năng lực và sở thích, phù hợp với yêu cầu công
việc…
Cũng như nhiều tiết giảng đổi mới phương pháp khác, giáo viên khơng cịn là
trung tâm, giữ vai trị chính hoặc cơ giảng trị nghe thụ động mà là một tiết học của
học sinh làm chủ, giáo viên hướng dẫn cách để học sinh bắt đầu thuyết trình cho
kết quả sản phẩm của mình. Để thực hiện kỹ thuật này trở thành kỹ năng cho học
sinh bắt buộc thầy cô hướng dẫn chi tiết, cụ thể và động viên, khích lệ để học sinh
tự tin thực hiện. Ở một, hai tiết đầu tiên thực hiện có thể chưa đạt như mong muốn
nhưng qua đó giáo viên sẽ rút kinh nghiệm để tiết sau các em thực hiện tốt hơn.
Để thực hiện hiệu quả, giáo viên yêu cầu học sinh đọc sách, tài liệu và tìm hiểu
bài học qua nhiều kênh thông tin, qua thực tiễn cuộc sống. Có những vấn đề, học
sinh có thể đưa ra những cách tiếp cận khác để các bạn trong lớp và cả giáo viên
nhìn nhận vấn đề sinh động, lôi cuốn.
Đã được hướng dẫn trước, học sinh tự đọc tài liệu, tự tìm hiểu thực tiễn, sử
dụng phương pháp thuyết trình và trình bày kết quả bằng phần mềm cơng nghệ.
Ví dụ: Bài Chính sách tài ngun và bảo vệ mơi trường, học sinh đã được giao
nhiệm vụ:
- Tìm hiểu tài ngun thiên nhiên và mơi trường nói chung và của địa phương, đọc
sách, tìm hiểu nhiều kênh thơng tin khác nhau.

- Tài nguyên thiên nhiên của địa phương, thực trạng khai thác, sử dụng như thế
nào?
- Môi trường của địa phương, thực trạng và những nỗ lực để làm môi trường xanh,
sạch, đẹp.
Do đặc điểm của học sinh THPT đã đủ năng lực tự học, biết sử dụng thành
thạo CNTT nên các em đều tự giúp nhau hoàn thiện yêu cầu của giáo viên. Có
nhiều cách khác nhau để các em thực hiên nhiệm vụ của mình. Thứ nhất các em
chạy chữ trên hình ảnh để thuyết trình. Thứ hai, các em chạy hình ảnh và tự thuyết
trình trực tiếp. Thứ 3, các em lồng tiếng của mình vào hình ảnh động. Cả 3 cách
này đều đạt hiệu quả, tùy vào năng lực của từng nhóm, từng lớp. Và cũng tùy vào
11

skkn


khả năng của từng nhóm mà học sinh có thể làm sâu sắc hay chỉ giới thiệu sơ lược
một ý, một vấn đề.
Với nội dung của các vấn đề chính trị - xã hội, trên cơ sở chuẩn kiến thức kĩ
năng, học sinh được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau nhưng vẫn đảm bảo tới cái
chung là phương hướng, chính sách của Đảng và đi tới trách nhiệm của mỗi công
dân đều phải đạt mục tiêu là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trở thành công dân có
trách nhiệm qua cách đặt vấn đề của các em, giải quyết vấn đề và rút ra bài học.
2.4 HIỆU QUẢ CỦA VIỆC RÈN LUYỆN SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN VÀ TRUYỀN THÔNG QUA KỸ THUẬT GIAO NHIỆM VỤ TRONG
GIẢNG DẠY MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT
2.4.1 Tăng cường sử dụng cơng nghệ thơng tin và truyền thơng hợp lí trong
hoạt động dạy và học
Phương tiện dạy học có vai trị quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy
học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc
sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện

dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học
mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường, như là hệ thống máy
chiếu đa năng, mạng WiFi, học sinh cũng có sẵn các phương tiện công nghệ hiện
đại như là máy ảnh, điện thoại thơng minh...Đó là những điều kiện để mỗi giáo
viên vận dụng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ
năng của người học. Với môn học GDCD, việc vận dụng công nghệ thông tin và
truyền thông, thông qua mạng điện tử, qua thực tiễn cuộc sống quanh mình, để học
sinh tự khám tri thức trên mạng một cách có định hướng .
Xã hội phát triển, cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang phát triển mạnh mẽ, việc
tiếp cận với phương thức học hiện đại giúp các em nhìn nhận cuộc sống đầy đủ,
bao quát rộng hơn về các vấn đề của xã hội mà bộ mơn đề cập đến, đó là mơi
trường, tài nguyên, dân số, việc làm, văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học cơng
nghệ, quốc phịng – an ninh, đối ngoại...và những vấn đề liên quan đến yêu cầu của
cuộc sống xung quanh, nhu cầu lợi ích hiện tại và tương lai.
12

skkn


2.4.2. Kết quả khi rèn luyện sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
qua kỹ thuật giao nhiệm vụ với học sinh
* Ưu điểm:
Trong quá trình thực hiện, mỗi sản phẩm, mỗi kết quả cũng phản ánh trung
thực năng lực, khả năng của từng lớp. Trong mỗi lớp học, khả năng, năng lực của
từng nhóm cũng được bộc lộ rõ hơn. Mỗi sản phẩm học tập của lớp này có thể đem
trình chiếu ở lớp khác, từ đó các em tự so sánh, đánh giá khả năng của nhau, rút
kinh nghiệm hoặc học tập theo các bạn.
Đồng thời chúng ta cũng thấy rõ, mỗi cá nhân để thành công trong học tập,
thành đạt trong cuộc sống cần phải sở hữu nhiều loại năng lực khác nhau, cũng
trong quá trình học tập năng lực cá nhân được thể hiện, mỗi học sinh có những

năng lực riêng, việc sử dụng các phương pháp, kỹ thuật và các phương tiện trong
giảng dạy là nhằm phát huy tối đa năng lực của từng em.
- Học sinh được sử dụng điện thoại thông minh, mạng xã hội để tìm kiếm hình ảnh,
nội dung liên quan đến bài học.
- Khai thác mạng internet không dây ngay trong khuôn viên nhà trường theo hướng
học tập mới, hiện đại.
- Học sinh tự khái quát, thu thập thông tin, hình ảnh ngồi thực tế, trên mạng thơng
tin xã hội. Với kiến thức học sinh có, các em tự phân tích, tổng hợp, đưa ra ý kiến
nhận xét, cách thức xử lí...
Ví dụ: Với bài Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường, các em đưa ra được
những việc cần làm và có ý thức giữ gìn vệ sinh chung.
* Hạn chế:
- Do điều kiện kinh tế, không phải tất cả các học sinh đều có điện thoại thơng
minh, máy vi tính hay phương tiện hỗ trợ học tập hiện đại nên việc làm việc tích
cực cũng cịn hạn chế nhất định nhưng các em có thể làm việc theo nhóm.
- Đa số học sinh đều làm việc tích cực, thậm chí cả những học sinh chưa chuyên
cần cũng thấy hứng thú hơn nhưng có một số học sinh ỷ lại cho nhóm, cho tập thể
cịn bản thân khơng làm gì và hưởng thành quả, sản phẩm của cả nhóm. Những học

13

skkn


sinh này sẽ được nhắc nhở, động viên để thay đổi thái độ và điều chỉnh để hoàn
thành một số yêu cầu khác. Số này chiếm khoảng 20%.
III. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.1.1. Ý nghĩa của rèn luyện năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông của học sinh qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ trong giảng dạy môn

GDCD ở trung học phổ thông.
Thứ nhất, mỗi cá nhân học sinh đều có những năng lực riêng của mình, khơng
phải ai cũng giống ai, đó chính là cá tính của mỗi cá nhân. Sử dụng phương pháp
truyền thống phù hợp với những học sinh cần mẫn, chịu khó, an phận bằng lịng
với việc nghe giảng, làm bài tập theo yêu cầu nhưng với những học sinh cá tính
mạnh mẽ hơn, khơng cần mẫn đơn giản nghe giảng, làm bài tập thơng thường thích
khám phá, thích hiểu rõ về thực tiễn, đam mê cơng nghệ, thích chơi trị chơi điện
tử thì việc u cầu học sinh tự nhận thức vấn đề, giải quyết vấn đề, tự thuyết trình,
lí giải vấn đề bằng phần mềm POWERPOIT, phần mềm VIDEO....
Trong mỗi sản phẩm của nhóm mình, các em được phép giới thiệu về các thành
viên của nhóm về sở thích cá nhân một cách ngắn gọn, súc tích, có điểm nhấn.
Thứ hai, cách làm này sẽ góp phần vào việc rèn luyện kỹ năng gửi Email, nhận
Email, khi gửi Email phải có tiêu đề, khơng có lỗi chính tả, lỗi fon… đây cũng là
một trong những kỹ năng sau này các em đi xin tuyển dụng, đi làm rất cần thiết.
Thứ ba, trong quá trình rèn luyện việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông của học sinh qua sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ trong giảng dạy mơn
GDCD giúp tơi bám sát thực tiễn, tự mình rèn luyện phương pháp dạy học hiện đại
để theo kịp thời đại và theo kịp những kỹ năng khác cùng với các em học sinh.
3.1.2. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng SKKN
của bản thân
Đối với mỗi môn học việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông cho
học sinh thông qua sử dụng “kỹ thuật giao nhiệm vụ” có thành cơng hay không,
phụ thuộc rất lớn vào năng lực của thầy giáo, cơ giáo. Muốn rèn luyện tốt năng lực
học tập tích cực cho học sinh qua việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền
14

skkn


thông cho học sinh trước hết, mỗi thầy giáo, cô giáo phải giáo dục cho học sinh

bằng sự tự nêu gương. Thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu trong học tập không
ngừng qua việc biết sử dụng thành thạo cơng nghệ. Có như vậy, thầy giáo, cô giáo
mới hướng dẫn học sinh sử dụng cơng nghệ tơng tin và truyền thơng có định
hướng theo chuẩn mực yêu cầu.
Thứ hai, bản thân giáo viên phải ln tự bồi dưỡng kiến thức cho mình, cả tri
thức trong sách vở và thực tiễn, bám sát chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước
để định hướng ý thức cho học sinh.
Trong quá trình thực hiện sáng kiến này tôi nhận thấy một điều rất rõ là cần
“sống” cùng các em, chia sẻ cảm xúc thật cùng các em, nhiều lúc phải là bạn của
các em để thấy được cách nhìn nhận vấn đề của các em và định hướng đúng đắn.
Thầy cô không nên chỉ đến với học trị bằng những lời giáo huấn sng, sự áp đặt,
mệnh lệnh. Kĩ thuật giao nhiệm vụ giúp học sinh ln biết quan sát, tư duy nhiều
hơn, có ý thức trách nhiệm làm việc nhóm, giúp giờ học GDCD có nhiều hoạt
động trải nghiệm.
Khi đánh giá học sinh trong việc sử dụng kỹ thuật giao nhiệm vụ rèn luyện sử
dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong quá trình giảng dạy cần đảm bảo
tính khách quan, đảm bảo sự cơng bằng, đảm bảo tính tồn diện, đảm bảo tính
cơng khai, đảm bảo tính giáo dục nhằm góp phần nâng cao việc học tập và khả
năng tự học, tự giáo dục của học sinh, học sinh tự học bằng đánh giá của giáo viên.
Và từ những điều học được ấy, học sinh định ra cách tự điều chỉnh hành vi học tập
về sau của bản thân. Sau khi sản phẩm bài tập của học sinh được xem xét, đánh
giá, giáo viên nêu rõ cho kết quả của từng nhóm, từng lớp, nêu rõ những gì mà học
sinh làm được, những gì học sinh có thể làm được tốt hơn, những gì học sinh cần
được hỗ trợ thêm từ các bạn nhóm khác, những gì học sinh cần tìm hiểu thêm. Qua
đó học sinh nhận thấy được sự tiến bộ của bản thân, những gì cần cố gắng hơn
trong mơn học cũng như nhận thấy sự khẳng định của giáo viên về khả năng của
họ. Điều này có tác dụng động viên người học rất lớn góp phần quan trọng vào
việc thưc hiện chức năng giáo dục và phát triển của đánh giá giáo dục.

15


skkn


Với việc rèn luyện sử dụng công nghệ thông tin và truyền thơng qua kỹ thuật
giao nhiệm vụ cịn giúp cho việc đánh giá kết quả học tập có tác dụng phát triển
các năng lực của người học một cách bền vững. Qúa trình làm việc của học sinh
tạo điều kiện cho học sinh khai thác, vận dụng các kiến thức, kỹ năng liên mơn và
xun mơn; góp phần kích thích lối dạy phát huy tinh thần tự lực, chủ động và
sáng tạo của học sinh trong học tập, chú trọng thực hành, rèn luyện và phát triển kỹ
năng; duy trì sự phấn đấu và tiến bộ của người học cũng như góp phần phát triển
động cơ học tập đúng đắn cho người học. Hơn thế nữa, qua kết quả làm việc của
các em giáo viên giúp các em nhận ra chiều hướng phát triển trong tương lai của
bản thân, nhận ra tiềm năng của mình. Nhờ vậy thúc đẩy các em lịng tự tin, hướng
phấn đấu và hình thành năng lực tự đánh giá cho học sinh.
Hiện nay tôi vẫn đang tự mình đọc nhiều hơn, học tập sử dụng cơng nghệ mỗi
ngày để có những sáng tạo mới thông qua sử dụng phương pháp và kỹ thuật dạy
học trên nền tảng nền kiến thức chuẩn của Bộ giáo dục và đào tạo.
Đây là những kinh nghiệm trong quá trình rèn luyện năng lực sử dụng cơng
nghệ thơng tin và truyền thông thông qua kỹ thuật dạy học giao nhiệm vụ trong
quá trình giảng dạy của bản thân trong điều kiện trường của chúng tôi. Tôi rất
mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp, của phụ huynh và học sinh.
3.2. Kiến nghị
Để phát huy nhiều hơn nữa năng lực của học sinh chúng ta cần đổi mới mạnh
mẽ hình thức, phương pháp giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh, ghi nhận
những nỗ lực cố gắng của học sinh tùy theo năng lực, khả năng riêng của các em.
Trong khi xã hội nói chung đã và đang vào thời kì cơng nghệ thứ 4 nhưng việc học
của chúng ta vẫn chưa có nhiều đổi mới, nhất là trường học ở nông thôn, vùng sâu
và vùng xa. Học sinh của chúng ta vẫn chỉ cặm cụi học thụ động. Cơ hội để trải
nghiệm, hoạt động ngoài giờ rất khó khăn. Với khoảng 50% em của 1 khóa học

cặm cụi miệt mài học tập còn đa số học ít hơn, thậm chí ngại học đều dành nhiều
thời gian cho Bi – a, điện tử, bắn cá ăn tiền, lơ, đề …có rất sẵn ở phía ngồi cổng
trường trong khi sân chơi sau giờ học cho thanh thiếu niên thiếu, khơng đủ đáp ứng
u cầu vui chơi giải trí lành mạnh của các em, mà điều này lỗi là do chính người
16

skkn


lớn chúng ta. ( Sân bóng lớn dành cho dịch vụ, sân trong trường học thanh thiếu
niên cũng khó bon chen…) Đây cũng là cơ hội để thanh thiếu niên của chúng ta dễ
vướng vào một số tệ nạn xã hội. Vậy nên chăng, ngoài đổi mới cách học để rèn
luyện ý thức cho học sinh tốt hơn thì cũng cần có sự chăm chút nhiều hơn của xã
hội bằng sự đầu tư sân chơi cơng cộng bổ ích để thanh thiếu niên rèn luyện sức
khỏe, lối sống, trò chơi lành mạnh. Đó cũng là điều kiện của giáo dục con người
nói chung cùng với hình thức giáo dục trong nhà trường.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
tự viết, không sao chép của ai.

Thiều Thị Hà

17

skkn


Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được Hội đồng cấp sở đánh

giá:
- Đề tài: Sử dụng tác phẩm văn học trong giảng dạy môn GDCD ở THPT năm học
2004 – 2005
- Đề tài : Sử dụng phương pháp làm báo trong việc giáo dục giá trị sống, kĩ năng
sống đối với công tác chủ nhiệm năm học 2012 – 2013

Tài liệu tham khảo
1. Dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát
triển năng lực học sinh của Bộ giáo dục và đào tạo
2. Trước khi tốt nghiệp đại học của Phạm Minh Thuận Nhà xuất bản
Lao động.

18

skkn



×