Tải bản đầy đủ (.ppt) (17 trang)

BÀI THUYẾT TRÌNH TỨ ĐẠI PHÁT MINH CỦA TRUNG QUỐC ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 17 trang )

KĨ THUẬT LÀM GIẤY KĨ THUẬT IN
LA BÀN THUỐC SÚNG
Từ thời xa xưa, người Trung Q́c vẫn dùng thẻ tre, lụa để ghi chép.
Đến khoảng thế kỉ II TCN, người Trung Q́c đã phát minh ra
phương pháp dùng sơ gai để chế tạo giấy. Tuy nhiên, giấy thời kì
này còn xấu, mặt giấy khơng phẳng, khó viết, chủ yếu là dùng để gói.
Năm 105 một viên quan tên là Thái Luân đã dùng vỏ cây, lưới c , ũ
giẻ rách… làm nguyên liệu, và được cải tiến kỹ thuật, do đó đã làm
được loại giấy có chất lượng, từ đó giấy được thay thế các vật liêu
khác và dùng phổ biến.Do cơng lao ấy, Thái Ln được tơn làm tổ
sư của nghề giấy.
I/ KĨ THUẬT LÀM GIẤY
Giữa thế kỉ VIII, kó thuật làm giấy truyền sang Ả Rập. Năm 1150, lại
được truyền sang Tây Ban Nha, sau đó là Ý ( 1276), Đức (1320), Hà
Lan (1323), Anh (1460)… và được truyền bá rộng rãi hơn nữa, thay thế
các chất liệu trước kia như là lá cây, Papirút, da cừu,…
I/ KĨ THUẬT LÀM GIẤY
Vào khoảng thế kỉ III, kỹ thuật làm giấy lưu truyền qua Việt Nam, thế
kỉ IV truyền qua Triều Tiên, thế kỉ V truyền sang Nhật Bản, thế kỉ
VIII truyền qua Ấn Độ.
II. KỸ THUẬT IN:
Kỹ thu t in bắt nguồn từ việc khắc ch trên các con dấu đã có từ ậ ữ
thời Tần. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, và đạo giáo đã in nhiều
bùa chú để trừ ma.
Giữa thế kỷ VII (đầu đời Đường) kỹ thuât in đã xuất hiện. Nhà sư
Huy n ề Trang đã cho in số lượng lớn t ng Ph Hi n ượ ổ ề để phân
phát. Năm 1996, phát hiện đươc kinh Đàlan in vào khoảng năm 704-
751 và đây được xem là ấn phẩm đầu tiên và cổ nhất trên thế giới
Để khắc phục nhược điểm đó, đến thập kỉ 40 của thế kỉ XI, Tất Thăng


đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung nhưng vẫn còn
nhiều hạn chế. Và từ thế kỉ XI, chữ gỗ được thay thế nhưng vẫn chưa
có kết quả.
Kó thuật in khi mới ra đời được in vào ván khắc, đây là phát minh
quan trọng giúp người ta có thể in nhiều bản trong thời gian ngắn, ít
tốn và được sử dụng lâu dài. Vì vậy cách in này không được tiện lợi
lắm nếu không cần in nữa thì ván khắc sẽ vô dụng.
Sau đó, còn dùng chữ rời bằng thiếc, đồng, do khó tô mưc nên được sử
dụng rộng rãi như trong việc in kinh thánh…
II. KỸ THUẬT IN:
Vào khoảng thế kỷ thứ VI, các nhà Giả Kim thuật (còn gọi là
nhà Luyện đan, kiêm đạo sĩ, chiêm tinh, chuyên tìm tòi, pha
chế các dược liệu, hoá chất… mong tìm ra phương thuốc
“Trường sinh bất tử” dâng lên Hoàng đế) trong khi mày mò,
vô tình tạo ra thuốc nổ từ diêm tiêu và lưu huỳnh.
III. THU C Ố SÚNG
Bấy giờ, thuốc nổ chỉ ứng dụng làm pháo đốt, pháo bông
phục vụ cho lễ hội vui chơi ở cung đình, sản xuất từ các
công xưởng thuộc triều đình.
III. THU C Ố SÚNG
Năm 682, nhà Giả Kim thuật Tôn Tư Mạc đã đưa ra công thức
thuốc nổ trộn từ lưu huỳnh, diêm tiêu (Kali Nitrat) và bột gỗ.
Năm 808, nhà Giả Kim thuật Xin Xui Sử lại chế thuốc súng từ
lưu huỳnh, diêm tiêu, than gỗ, và thuốc súng được sử dụng
cho quân sự từ đó.
Mãi đến đời nhà Tống (thế kỷ XII) họ mới chế ra hoả khí bằng
ống tre hoặc quả cầu bằng giấy bồi, nhồi thuốc súng với đá,
mảnh sành, mảnh gang, bịt sắt, gắn ngòi nổ, châm cháy rồi
ném vào địch quân hoặc chôn ở chiến trường, đó chính là

loại mìn, lựu đạn, súng sơ khai có tên gọi là “Hoả Thương”
và “Chấn Thiên lôi”.
III. THU C Ố SÚNG
Thế kỷ XIII, giặc Nguyên – Mông tấn công Trung Quốc, học
được thuật chế thuốc súng. Rồi họ viễn chinh sang Tây Á, kỹ
thuật này lan truyền dần từ Ả Rập sang Hy Lạp, Tây Ban Nha
và khắp châu Âu, cuối cùng phổ biến khắp toàn cầu.
Diêm tiêu (Kali Nitrat)
Lưu huỳnhThan gỗ
Đạn chấn thiên lôi
Trấn thiên lôi(Súng thần công)
VI. KIM CHI NAM̉


T
T
ừ thế kỉ III TCN người Trung Q́c biết được từ tính và tính chỉ
ừ thế kỉ III TCN người Trung Q́c biết được từ tính và tính chỉ
hướng của
hướng của
đa
đa
ù
ù
nam châm
nam châm
và bắt nguồn từ những người tu luyện
và bắt nguồn từ những người tu luyện
thời cổ đại
thời cổ đại

. Lúc bấy giờ đã phát minh ra mợt dụng cụ chỉ hướng
. Lúc bấy giờ đã phát minh ra mợt dụng cụ chỉ hướng
là “từ nam”, chính là tở tiên của Kim Chỉ Nam. Do còn nhiều hạn
là “từ nam”, chính là tở tiên của Kim Chỉ Nam. Do còn nhiều hạn
chế nên chưa được áp dụng rợng rãi
chế nên chưa được áp dụng rợng rãi
Đến thời Tống, các nhà phong thủy đã phát minh ra kim nam châm
nhân tạo.
La bàn được sử dụng để xem hướng đất, trong việc đi biển. Về
sau, người châu Âu cải tiến thành “La bàn khơ”, có khắc vị trí cớ
định và được sử dụng rợng rãi trên thế giới.
3. Nền vẽ mũi tên chỉ hướng mà mình muốn
tới.
1.Kim được từ hóa, theo hướng bắc từ
trường.
2. Mặt la bàn được khắc độ và quay trên một
trục, thể điều chỉnh với bất kì phương vò từ
trường.
VI. KIM CHI NAM̉
Nửa sau thế kỉ XVI là bàn khô lại truyền trở lại Trung Quốc.
Chiếc la bàn cổ nhất theá giôùi
Hiện nay, Kỷ lục về chiếc la bàn cổ đại nhất này giữ bởi người
Trung Quốc. Chiếc la bàn có hình một chiếc thìa múc canh bên
trong chưa đầy các hạt nam châm nhỏ được người Trung Quốc
gọi là kim chỉ nam xuất hiên từ thời nhà Hán (thế kỷ II TCN)

×