Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tổ chức học đại cương doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.59 KB, 16 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA















Tổ chức học đại cương





























2

1. Định nghĩa mục tiêu của tổ chức:
- Mục tiêu của tổ chức là “ những mục đích mà vì chúng một tổ chức
được thành lập và tổ chức cần phải đạt được những mục đích đó”.
- Mục tiêu là “ các chuẩn đích mà mọi hoạt động của bất kỳ một bộ
phận nào cũng đều phải hướng tới” ( Những vấn đề cốt yếu của
quản lý).
2. Xác lập mục tiêu của tổ chức:
a. Định nghĩa:
- Xác định mục tiêu là xây dựng một tập hợp các phương án hoạt động
có thể và đánh giá các phương án đó theo một thứ tự ưu tiên nào đó.

- Xác định mục tiêu của tổ chức phải được dựa trên cơ sở tổng kết thực
tiễn và dự báo xu thế phát triển của môi trường.
b. Nguyên tắc SMART:
Nguyên tắc SMART được gọi là nguyên tắc xác lập mục tiêu thông
minh. Theo nguyên tắc SMART, mục tiêu được xây dựng dựa trên những
tiêu chí sau:
- S-Specific: Cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu.
Ví dụ: Mục tiêu của công ty A là đến năm 2010 doanh số đạt 10 tỉ
đồng.
- M-Measurable: Mục tiêu phải đo đếm được. Mục tiêu đưa ra phải có
đơn vị, con số cụ thể để có thể đo đếm được.
Ví dụ: Với mục tiêu “khách hàng hài lòng”, ta có thể chuyển
thành: “80% khách hàng trở lại”.
- A-Achievable: Mục tiêu phải có tính khả thi, tức là có thể đạt được
bằng chính khả năng của mình. Mục tiêu không được quá thấp hoặc
quá cao. Nếu mục tiêu quá thấp thì sẽ không kích thích được sự cố
gắng của mọi người khi thực hiện. Còn mục tiêu quá cao thì sẽ khiến
các thành viên nhục chí ngay từ khi chưa bắt đầu. Vì vậy, mục tiêu tốt,
3

là mục vừa mức khó khăn, nhưng vẫn có thể nắm bắt và điều khiển
được.
- R-Realistic: Mục tiêu phải thực tế, không viển vông. Mục tiêu đặt ra
phải sát với năng lực và phải thực tế.
- T-Time bound: Mục tiêu cần có một mốc thời gian cụ thể để kiểm tra
và phân bổ khối lượng công việc phù hợp.
Ví dụ: Mục tiêu đến năm 2020, thực hiện truyền tải điện năng
không dây theo kiểu cảm ứng điện từ.
c. Cây mục tiêu trong tổ chức:
- Trong một tổ chức luôn tồn tại một hệ thống các mục tiêu có cấu trúc

hình cây.
- Có nhiều cách phân loại mục tiêu nhưng đối với tổ chức người ta
thường phân ra mục tiêu dài hạn – đính đến cuối cùng cho mọi hoạt
động của tổ chức và mục tiêu ngắn hạn.
+ Từ mục tiêu dài hạn, các mục tiêu ngắn hạn được soạn thảo và sắp
xếp thứ tự ưu tiên theo nguyên lý xây dựng cây mục tiêu.
+ Từ những mục tiêu ngắn hạn của hệ thống, ta lại tiếp tục soạn thảo
thành những mục tiêu của các tổ chức hợp thành hệ thống để từ đó
triển khai thành các nhiệm vụ thực hiện mục tiêu.
- Các mục tiêu có thể dẫn đến xung đột bởi những nhóm lợi ích khác
nhau trong tổ chức trong vấn đề quyết định mức độ ưu tiên giữa
chúng. Vì vậy, việc xây dựng cây mục tiêu như trên sẽ góp phần tránh
tình trạng xung đột đó.
- Muốn đạt được mục tiêu hợp lý ta phải hợp lý ta phải tự trả lời những
câu hỏi sau:
+ Thời điểm xác định mục tiêu đã thích hợp chưa?
+ Những yêu cầu cạnh tranh có gây ra trì hoãn không?
+ Mục tiêu ngắn hạn có phù hợp với mục tiêu ngắn hạn hay không?
+ Mục tiêu xác lập có tác động như thế nào đến tổ chức?
4

+ Phản ứng của các cấp trên, cấp dưới và quần chúng sẽ phản ứng như
thế nào?
+ Mục tiêu ấy sẽ thúc đẩy phát những kỹ năng, những lĩnh vực nào
của tổ chức và liệu có hiệu ứng Đôminô không?
d. Những sai lầm thường mắc phải khi xác lập mục tiêu của tổ chức:
- Khi xác lập mục tiêu tổ chức thường phạm phải những sai lầm sau:
+ Đặt ra mục tiêu cao hơn khả năng đạt tới mục tiêu của tổ chức.
+ Xác lập đa mục tiêu trong khi nguồn lực có hạn và không sắp xếp
được thứ tự ưu tiên của các mục tiêu đó.

+ Xác lập hay lựa chọn mục tiêu sai.
+ Lẫn lộn mục tiêu và phương tiện.
- Sự xác lập mục tiêu như trên là do nhiều nguyên nhân:
+ Sức ép của các nhóm lợi ích.
+ Tham vọng của tổ chức và người xác lập mục tiêu.
+ Người lãnh đạo không đủ năng lực, hay có đủ năng lực nhưng lại
không có đủ quyền lực cá nhân để thể hiện bản lĩnh cá nhân và chịu sự
chi phối của tập thể kém hiểu biết, hoặc cố tình duy trì lợi ích nhóm
trong tổ chức.
+ Do văn hóa tổ chức.
PHẦN II:
TIẾP CẬN SỰ THẤT BẠI CỦA ĐỀ ÁN 112 TỪ CÂY MỤC
TIÊU CỦA ĐỀ ÁN

I. Giới thiệu Đề án 112:
Đề án 112 là tên gọi tắt của đề án “Tin học hóa hành chính Nhà
nước”, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thông qua quyết định
112/2001 ngày 25/7/2001. Đây là 1 trong 7 chương trình hiện đại hóa
5

hành chính nhà nước trong tổng thể 7 chương trình từ 2001 - 2010 về
cải cách hành chính nhà nước.
1. Mục tiêu của đề án:
a. Mục tiêu chung:
Đề án được tiến hành qua 2 giai đoạn 2001- 2005 và 2006- 2010 với
mục tiêu chung như sau:
- Đến năm 2005, về cơ bản, xây dựng và đưa vào hoạt động hệ thống
thông tin điện tử của Đảng và Chính phủ.
- Đến năm 2010, xây dựng và đưa vào vận hành mạng Điện tử - Tin học
thống nhất của Chính phủ hướng tới Hành chính điện tử, nhằm góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, lãnh đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, chính quyền địa phương các cấp.
b. Mục tiêu cụ thể:
Mục tiêu chung được xây dựng thành các mục tiêu cụ thể:
- Xây dựng các hệ thống tin học hoá quản lý hành chính Nhà nước,
phục vụ trực tiếp công tác chỉ đạo, điều hành trong hệ thống các cơ
quan hành chính Nhà nước.
- Tổ chức xây dựng và tích hợp các cơ sở dữ liệu Quốc gia, trước hết là
ở những Bộ, ngành trọng điểm để sử dụng chung.
- Tin học hoá các Dịch vụ công nhằm nâng cao năng lực của các cơ
quan hành chính Nhà nước trong việc phục vụ doanh nghiệp và công
dân thuận tiện, nhanh gọn và bảo đảm chất lượng.
6

- Đào tạo ứng dụng tin học cho cán bộ, công chức có đủ khả năng vận
hành mạng và sử dụng các hệ thống thông tin điện tử trong xử lý công
việc thường xuyên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực quản lý Nhà
nước, cải cách bộ máy tổ chức và lề lối làm việc trong các cơ quan
hành chính Nhà nước thuộc phạm vi thẩm quyền của Chính phủ.
c. Các nhóm đề án:
Nội dung Đề án 112 được xây dựng trên cơ sở mục tiêu chung và mục
tiêu cụ thể nêu trên gồm 6 nhóm Đề án:
- Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ.
- Tin học hoá quản lý hành chính nhà nước của uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Xây dựng hệ thống các cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu
chuyên ngành chuyên ngành phục vụ tin học hoá quản lý, điều hành.

- Đào tạo ứng dụng tin học cho cán bộ, công chức hành chính Nhà
nước.
- Nâng cấp mạng tin học diện rộng của Chính phủ (CPnet), bảo đảm
cho mạng này đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống tin học của các cơ
quan hành chính Nhà nước.
- Xây dựng hệ thống bảo đảm an toàn, bảo mật cho mạng tin học quản
lý nhà nước trong các cơ quan hành chính Nhà nước.
2. Phạm vi, đối tượng tin học hóa của Đề án bao gồm:
- Hệ thống thông tin phục vụ quản lý, điều hành của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ
7

trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh và
thành phố trực thuộc Trung ương.
- Công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và
Lãnh đạo các cấp ở Trung ương và địa phương.
- Hoạt động cung cấp dịch vụ công của các cơ quan hành chính nhà
nước đối với nhân dân và doanh nghiệp.
II. Kết quả thực hiện:
Đề án 112 là một đề án lớn, có quy mô quốc gia. Nếu thực hiện thành
công, nó sẽ tạo một bước chuyển lớn trong công tác cải cách hành chính
của bộ máy hành chính Nhà nước: tạo ra một phương thức vận hành
thông suốt, hiệu quả của bộ máy công quyền, thông qua việc sử dụng các
hệ thống thông tin điện tử; cung cấp đầy đủ, nhanh chóng, chính xác
thông tin nhà nước đến các công dân qua phương tiện được điện tử
hóa,…
Đề án 112 được triển khai cùng sự kỳ vọng lớn của các cấp lãnh đạo,
cán bộ hành chính cũng như của nhân. Thế nhưng, theo tổng kết hiệu quả
5 nhóm mục tiêu của Đề án 112 giai đoạn 2001 – 2005, sự kỳ vọng đó đã
không được thỏa mãn:

Thứ nhất: Xây dựng hệ thống tin học hóa quản lý hành chính nhà nước,
phục vụ trực tiếp công tác chỉ đạo điều hành trong hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nước, hoàn thiện và thống nhất áp dụng các chương trình
ứng dụng phục vụ quản lý điều hành: các mạng cục bộ (mạng LAN)
không thể kết nối, chưa phục vụ được công tác chỉ đạo điều hành của Thủ
tướng, lãnh đạo bộ ngành, địa phương; các phần mềm chưa thể hoạt động
và vẫn thiết kế dựa vào qui trình thủ tục hành chính cũ.
8

Thứ hai: Tổ chức xây dựng và tích hợp các cơ sở dữ liệu quốc gia: quá
chậm, mới chỉ xác định xong giải pháp khả thi.
Thứ ba: Tin học hóa các dịch vụ công: mới đang thử nghiệm một số dịch
vụ tại TP. Hồ Chí Minh và các ngành thuế, hải quan, hàng không
Thứ tư: Đào tạo tin học, phổ cập công nghệ thông tin cho cán bộ lãnh
đạo, chuyên viên và cán bộ nghiệp vụ của các cơ quan hành chính cấp
huyện trở lên: nghiệp vụ cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Thứ năm: Thúc đẩy cải cách hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà
nước: thất bại hoàn toàn.
Như vậy, có thể nói rằng: Đề án 112 đã thất bại toàn diện.
- Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho giai đoạn 2001-2005
với ngân sách dự chi khoảng 3.700 tỷ đồng. Nhưng theo số liệu tổng
hợp đến tháng 9-2003, số tiền đầu tư cho Đề án 112 là 3.730 tỷ đồng.
Chưa có số liệu tính đến cuối năm 2005, mốc kết thúc giai đoạn đầu tư
của Đề án.
- Ngày 19-4-2007, chủ trì cuộc họp về Đề án 112, Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng quyết định ngừng triển khai Đề án 112.
III. Nguyên nhân thất bại:
1. Sai lầm trong việc xây dựng các mục tiêu:
- Đề án 112 đã sai lầm ngay từ công việc xác lập các mục tiêu. Nguyên
nhân chủ yếu là do những người lập đề án:

+ Có tham vọng lớn.
9

+ Chưa nghiên cứu kĩ càng khả năng tin học hóa trong quản lý hành
chính ở nước ta ở các Bộ, ngành và địa phương.
+ Do hạn chế về năng lực và trình độ chuyên môn.
- Các mục tiêu của đề án còn nhiều hạn chế từ việc hình thành các mục
tiêu chưa thỏa mãn nguyên tắc SMART cho đến sai lầm trong việc xác
lập chúng.
Các vi phạm quy tắc SMART:
a. Mục tiêu chung không khả thi:
Mục tiêu đề ra là quá lớn, vượt qua khả năng của nền hành chính, khả
năng về trình độ công nghệ thông tin của cả nước, khả năng của nguồn
nhân lực.
- Quy mô dự án:
Đây là một dự án tầm quốc gia, liên quan đến tất cả bộ, ngành, địa
phương liên quan đến công nghệ cao, truyền thông và các vấn đề xã hội
như tập quán, quy trình công tác, trình độ công chức, công cuộc cải cách
hành chính… thì việc nghiên cứu để có một bộ máy điều hành vừa có
kiến thức quản lý nhà nước, công nghệ thông tin, truyền thông, vừa có
thực tiễn phối hợp đồng bộ liên ngành là vấn đề khó.
- Nguồn nhân lực:
+ Số lượng cán bộ của ta còn rất mỏng so với quy mô đề án.
+ Trình độ công nghệ thông tin của có đội ngũ cán bộ quản lý hành
chính Nhà nước chưa cao ( có những cán bộ chưa hề biết liên lạc bằng
thư điện tử, thậm chí không biết e-mail) vì vậy sẽ gây khó khăn trong
việc triển khai đề án và đòi hỏi chi phí đào tạo cao.
10

- Kinh phí lớn: Trong giai đoạn 2001-2005, ngân sách dự chi khoảng

3.700 tỷ đồng.
b. Các mục tiêu cụ thể không rõ ràng và không khả thi:
- Thông tin hóa quản lý hành chính là một khái niệm rất rộng và rất
chung chung, rất khó định ra tiêu chí cụ thể để đánh giá.
- Mục tiêu về các dịch vụ công là không khả thi vì các điều kiện về
pháp lý, công nghệ chưa đủ.
- Hai hạng mục “Phần mềm dùng chung” và “Trung tâm tích hợp
dữ liệu” là hai hạng mục chủ chốt của đề án này, nhưng lại không
được làm rõ, khả năng thực hiện cũng rất khó.
b.1. Về phần mềm dùng chung:
- Chưa làm rõ được khái niệm:
+ Đề án 112 đưa ra khái niệm “Phần mềm dùng chung” nhưng lại
không định nghĩa rõ ràng, không chỉ ra “chung” cái gì và “chung” như
thế nào. Từ chỗ nhận thức mơ hồ, tất yếu việc triển khai phần mềm
dung chung sẽ tiềm ẩn nhiều vấn đề.
+ Thực tế cho thấy, hầu hết các tỉnh, thành phố đang triển khai phần
mềm dùng chung trong Đề án 112 đều tỏ ra khá mơ hồ về hệ thống
phần mềm này: nhiều địa phương không biết chính xác họ có bao
nhiêu sự lựa chọn về nhà cung cấp với mỗi phần mềm dùng chung và
vì sao nói là phần mềm dùng chung mà mỗi địa phương lại lựa chọn
một nhà cung cấp khác nhau; nhiều tỉnh, thành chỉ đơn thuần coi hệ
thống phần mềm dùng chung như một số ứng dụng đơn giản về quản
lý hành chính thông qua gửi-nhận email và trang thông tin điện tử
thông thường, trong khi đó đây chỉ là một nội dung nhỏ trong hệ thống
phần mềm dùng chung.
- Tính khả thi không cao:
+ Khái niệm “Phần mềm dùng chung” có thể hiểu là tất cả các đơn
vị hành chính cấp bộ, ngành và địa phương đều sử dụng chung một
11


số phần mềm phục vụ quản lý hành chính nhà nước nhằm khiến cho
việc quản lý được đồng bộ, thống nhất, hiệu quả.
+ Các phần mềm dùng chung chỉ có nghĩa khi chúng được thiết kế dựa
trên các quy trình quản lý hành chính nhà nước chuẩn. Hiện nay, ở
nước ta các quy trình đó dều đang trong trạng thái cải cách (chưa
chuẩn), không có nền tảng để xây dựng các phần mềm dùng chung
một cách hiệu quả.
+ Hơn nữa, mức độ tin học hóa sẵn có của từng địa phương, từng đơn
vị trong nước cũng chênh lệch và khác biệt rất nhiều. Để có một sự
tương thích cơ bản giữa phần mềm dùng chung và các cấu hình máy
móc, tay nghề người sử dụng, hạ tầng cấu trúc công nghệ thông tin địa
phương, v.v. đòi hỏi phải có trình độ phân tích, thiết kế rất cao. Với
trình độ công nghệ thông tin của nước ta hiện nay, mục tiêu này rất
khó thực hiện.
b.2. Về Trung tâm tích hợp dữ liệu:
- Mục tiêu không rõ ràng:
Khái niệm “Trung tâm tích hợp dữ liệu” được giải nghĩa bằng lập
luận mang tính chất định tính hơn là định lượng. Theo đề án, “Trung
tâm tích hợp dữ liệu” sẽ phá vỡ thế cát cứ dữ liệu – nguyên nhân chính
dẫn đến hiện tượng “trên bảo dưới không nghe” (vì cát cứ dữ liệu nên
trên cũng không biết chính xác dưới đang làm gì).Tuy vậy, cơ chế hoạt
động của trung tâm và cơ chế tích hợp dữ liệu của nó lại không được làm
rõ.
- Mục tiêu không khả thi:
+ Các cơ sở dữ liệu nền chưa hình thành việc chuẩn hóa dữ liệu cũng
còn đang tranh luận… nên không có dữ liệu để tích hợp.
+ Dữ liệu ở mỗi cơ sở được viết theo một phương pháp khác nhau nên
không tích hợp được.
12


+ Vấn đề cát cứ thông tin là một thói quen của thế hệ công chức cũ,
nên có tình trạng họ không muốn gửi thông tin đến Trung tâm tch hợp
dữ liệu. Vấn đề con người là vấn đề khó thay đổi.
Sai lầm trong xác lập mục tiêu:
a. Sai lầm trong việc lựa chọn mục tiêu và thứ tự mục tiêu ưu tiên:
- Trong đề án chỉ quan tâm đến việc đầu tư máy tính, phần mềm, mà
không đề cập đến nội dung thông tin phục vụ quản lý tin học hóa và
những vấn đề liên quan cần giải quyết.
- Trước khi triển khai “Chính phủ điện tử” thì Chính phủ cần phải tập
hợp đủ những con người có đủ khả năng xây dựng hệ thống và duy trì
hệ thống đó hoạt động ổn định. Vì vậy vấn đề giáo dục và đào tạo đội
ngũ cán bộ phải tiến hành ngay từ giai đoạn đầu, trước khi hệ thống
được xây dựng và đi vào hoạt động. Nhưng đề án 112 lại sắp xếp các
mục tiêu của mình theo hướng ngược lại, đặt mục tiêu xây dựng hệ
thống thông tin trước rồi mới đào tạo cán bộ sau.
b. Nhầm lẫn giữa phương tiện và mục tiêu:
- Cải cách hành chính là cốt lõi, còn tin học hóa chỉ là công cụ.
- Cải cách hành chính trước tiên phải tập trung vào chuyện quy trình thủ
tục hành chính của các cơ quan, từ đó nghiên cứu thay đổi toàn bộ hệ
thống và cung cách làm việc. Sau đó mới đến phần việc của giới
chuyên môn là phần mềm, phần cứng
- Trong khi đó, những người làm Đề án 112 đã đặt nặng vấn đề xây
dựng đề án tin học trong hoàn cảnh việc quản lý hành chính từ Trung
ương tới các địa phương chưa được quy chuẩn hóa, chưa đưa được
vào quy trình vận hành đồng bộ. Điều này cho thấy họ đã nhận thức
không đúng về mục tiêu tin học hóa cải cách hành chính, đã đặt cái
phương tiện - tin học lên trên cái mục tiêu – quản lý hành chính.
2. Những sai phạm trong quá trình thực hiện đề án:
a. Phương tiện không cân xứng với mục tiêu:
13


- Đề án 112 đặt ra mục tiêu “Chính phủ điện tử thực sự phải là mạng
hành chính tới các cấp địa phương, nhằm cung cấp dịch vụ, thông tin
cho dân, phải là bộ máy cấp dưới. Ngay cả các website các Bộ,
ngành, đoàn thể cũng được xây dựng với mục đích vì nhân dân, làm
cho dân hiểu, chứ không chỉ phục vụ cho cán bộ, nhân viên Bộ, ngành
đó''.
- Mục tiêu rộng lớn nhưng được điều hành và thực thi bởi một lực
lượng nhỏ, chủ yếu là chuyên gia công nghệ kiêm nhiệm, không tương
xứng về quy mô và vị thế. Vì vậy, hầu hết các dự án mới chỉ dừng lại
ở nội dung mang tính công nghệ và chủ yếu trong phạm vi hệ thống
các văn phòng của các Bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố. Các dự
án liên quan đến dịch vụ công phục vụ người dân, xây dựng hạ tầng và
hệ thống an toàn bảo mật thông tin hầu như chưa triển khai được.
b. Xác lập mục tiêu sai lầm khiến cho đầu tư không hiệu quả:
- Đối với việc triển khai những đề án của Nhà nước có liên quan đến tin
học xác định được phạm vi và quy mô của những việc cần làm thật rõ
ràng, sau đó tới chuyện thay đổi quy trình làm việc.v.v , cuối cùng
mới tính đến vấn đề công nghệ. Nhưng khi thực hiện, các cơ quan
chức năng đã ưu tiên cho vấn đề công nghệ trước nhất trong khi chưa
đưa ra một mô hình, quy trình cụ thể.
- Ban điều hành 112 Chính phủ chỉ đầu tư cho việc xây dựng trung tâm
tích hợp dữ liệu trong khi chưa có phần mềm dùng chung và cơ sở dữ
liệu nên vốn đầu tư không hiệu quả.
- Nhiều địa phương chú trọng mua máy tính, mua phần cứng nhiều hơn
là đi vào mục tiêu xây dựng cơ sở dữ liệu, nối mạng máy tính và chia
sẻ thông tin.
c. Xác lập đa mục tiêu và không sắp xếp thứ tự ưu tiên của các mục tiêu
khiến nguồn lực đã hạn chế lại bị đầu tư dàn trải không tập trung:
14


- Đề án 112 triển khai đồng thời tại tất cả các địa phương, các bộ,
ngành. Trong khi các địa phương, các bộ, ngành có mức phát triển
khác nhau về năng lực quản lý, nguồn nhân lực công nghệ thông tin,
năng lực ứng dụng công nghệ thông tin, dẫn đến tình trạng thiếu
đồng bộ.
- Đề án 112 có tổng số 14 dự án trọng điểm, đầu tư hơn 10.000 tỉ đồng
để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công việc quản lý điều
hành bộ, ngành nhưng kết quả thì hầu như không dự án nào đạt được
như mong muốn.
+ Trong quá trình thực hiện, các dự án được triển khai đồng loạt và ồ
ạt, không theo một thứ tự ưu tiên nào. Kết quả là dự án nào cũng đang
trong tình trạng lở dở, chưa hoàn thiện, tiền đầu tư từ Trung ương rót
xuống đến các bộ, ngành, các địa phương bị chi tiêu bừa bãi. Đây thực
chất là một lỗ hổng trong khâu quản lý đề án.
+ Trên thực tế, việc xây dựng đồng loạt các trung tâm tích hợp dữ liệu
qui mô, các phần mềm mà không tính sát sao đến nhu cầu thực tế
cũng như trình độ, khả năng khai thác ở các nơi, làm ngân sách phân
bổ gần như rải đều ở các nơi là điều kiện thuận lợi cho việc khai
khống mức chi tiêu, tham ô ngân sách nhà nước của một số cá nhân và
tổ chức. Thậm chí, Ban điều hành đề án Trung ương còn kết hợp với
Bộ Kế hoạch và Đầu tư khen thưởng cho các đơn vị, nơi nào giải ngân
nhanh được tăng thêm vốn, khiến nhiều đơn vị vội vã quyết toán cho
vô số khoản chưa chi, chưa được duyệt chi, không được phép chi.
d. Không dựa trên nguyên tắc công khai khiến cho mục tiêu của đề án
không linh hoạt:
- Trong quá trình thực hiện, đề án phải luôn mở để tiếp nhận phản biện
xã hội bằng cách công khai, minh bạch. Chính từ cơ chế này, đề án
mới có thể tự điều chỉnh dần các mục tiêu, tránh những sai lầm và thất
15


bại. Thế nhưng toàn bộ quá trình thực hiện Đề án 112 đã mắc một sai
lầm có tính quyết định đó là việc thẩm duyệt dự án không dựa trên
những luận cứ khoa học, không dựa trên nguyên tắc công khai để cạnh
tranh cũng như không đón nhận sự phản biện của xã hội.
- Từ những sai lầm mà Đề án 112 gặp phải đã xuất hiện nhiều vấn đề
bất cập ở hàng loạt dự án đầu tư. Mục tiêu cứng nhắc, sai lầm không
được sửa chữa kịp thời.
Ngoài ra, vấn đề tổ chức điều hành ở tầm vĩ mô cũng có vấn đề cần
phải xem xét. Đó là việc xác lập đa mục tiêu, các mục tiêu chồng chéo
nhau. Cùng một lúc các địa phương, bộ, ngành chịu sự điều hành của hai
bộ máy: Ban điều hành Chính phủ về 112 (một đề án được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt) và Ban điều hành quốc gia về CNTT (Ban 58) do
một phó thủ tướng làm trưởng ban điều hành. Nội dung hoạt động của
Ban 58 khá rộng, có thể coi là bao trùm nội dung của 112. Song 112 tự
coi là một đề án quốc gia độc lập, do Thủ tướng phê duyệt, chỉ đạo xuống
tận các bộ, ngành, địa phương. Thành ra dẫn đến tình trạng cùng một lúc
các địa phương phải xây dựng các dự án theo hướng của 58 và theo
hướng của 112. Đó là chưa kể gần đây các tỉnh, thành còn phải triển khai
xây dựng qui hoạch về công nghệ thông tin của địa phương mình theo
hướng qui hoạch chung của quốc gia.
III. Kết luận:
Việc xây dựng cây mục tiêu cho tổ chức là một công việc đặc biệt
quan trọng. Nó quyết định kết quả đạt được của cả tổ chức trong tương
lai. Mục tiêu hợp lý, có tính khả thi cao sẽ tạo điều kiện cho tổ chức phát
triển, được xã hội đánh giá cao. Ngược lại, mục tiêu đặt ra sai lầm sẽ dẫn
đến sự thất bại của tổ chức.
16

Để xây dựng mục tiêu phù hợp với tổ chức, ta cần phải căn cứ vào xu

thế phát triển của xã hội, tình hình của tổ chức. Trên cơ sở đó, tổ chức có
thể xây dựng được một mục tiêu mang tính khả thi, xác lập một cây mục
tiêu hợp lý cho tổ chức mình.

×