TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG LÀO CAI
KHOA DU LỊCH
TẬP BÀI GIẢNG
TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH
VIỆT NAM
(Dành cho học sinh, sinh viên chuyên ngành du lịch)
LÀO CAI, 2015
1
LỜI NĨI ĐẦU
Trong suốt hơn 40 năm hình thành và phát triển, du lịch Việt Nam đã có những bước
tiến đáng khích lệ, trở thành ngành kinh tế có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân.
Đặc biệt, kinh doanh lữ hành ở Việt Nam phát triển rất nhanh chóng. Từ một cơng ty du lịch
ở thời kỳ đầu đến năm 2014, tồn ngành đã có 2532 doanh nghiệp lữ hành (nội địa và quốc
tế) đáp ứng nhu cầu đi du lịch ngày càng cao của du khách trong và ngoài nước. Và kinh
doanh lữ hành cũng là một trong những ngành kinh doanh chính của kinh doanh du lịch.
Muốn đạt hiệu quả kinh doanh cao, ngoài kiến thức sâu rộng về ngành du lịch nói chung,
các nhà kinh doanh cần phải có kiến thức về kinh doanh lữ hành nói riêng. Tại các trường
cao đẳng và đại học đào tạo về du lịch, trong hệ thống kiến thức về ngành du lịch, việc
trang bị cho học sinh, sinh viên kiến thức về tuyến điểm du lịch phục vụ cho kỹ năng kinh
doanh lữ hành là điều cần thiết.
Môn học “Tuyến điểm du lịch Việt Nam” là một môn học cốt lõi trong chuyên ngành
đào tạo “Hướng dẫn du lịch” và “Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành” của trường Cao
đẳng Cộng đồng Lào Cai. Mục tiêu của môn học nhằm trang bị cho học sinh, sinh viên các
kiến thức lý luận về tuyến, điểm du lịch và các loại hình du lịch; các tuyến, điểm du lịch của
từng vùng du lịch trên đất nước Việt Nam. Kiến thức của môn học là sự tiếp nối kiến thức
các môn cơ sở của ngành đã được trang bị trước đó.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và yêu cầu của công tác đào tạo, Khoa Du lịch trường
Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai đã tiến hành biên soạn tập bài giảng Tuyến điểm du lịch Việt
Nam phù hợp với nhu cầu và nội dung giảng dạy của ngành đào tạo dành cho hệ TCCN và
cao đẳng. Đồng thời, tập bài giảng đã hệ thống kiến thức và cập nhật mới các thông tin du
lịch của Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại.
Nội dung của tập bài giảng gồm có 4 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về Tuyến điểm
du lịch. Chương 2: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Bắc Bộ. Chương 3: Tuyến điểm du lịch
vùng du lịch Bắc Trung Bộ. Chương 4: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Nam Trung Bộ và
Nam Bộ. Nội dung các chương ngoài kiến thức cơ bản cịn cập nhật các kiến thức mới và có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Hi vọng tập bài giảng sẽ là tài liệu hữu ích cho các học sinh, sinh viên thuộc các ngành
liên quan đến du lịch, cũng như tất cả những ai quan quâm tới lĩnh vực này.
Tập bài giảng được tổ chức và biên soạn với thái độ làm việc nghiêm túc nhưng không
thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi hi vọng sẽ nhận được sự đóng góp của các
nhà nghiên cứu và người đọc quan tâm đến lĩnh vực để tập bài giảng ngày càng hoàn thiện
hơn.
TÁC GIẢ
2
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH
1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Điểm du lịch
Điểm du lịch là nhân tố quan trọng hình thành nên các sản phẩm du lịch phục vụ cho
hoạt động kinh doanh lữ hành. Điểm du lịch càng đa dạng thì sản phẩm du lịch càng đa
dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Hiện nay khi đánh giá
điểm du lịch, các nhà khoa học quan tâm nhiều đến giá trị thu hút khách của điểm đến. Và
điểm du lịch có thể là đại diện của một địa phương, một vùng lãnh thổ hoặc của một quốc
gia.
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về điểm du lịch, theo Luật du lịch Việt Nam năm 2007,
Điểm du lịch được định nghĩa như sau: Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn,
phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch.
Điều kiện và nhân tố hình thành nên điểm du lịch:
Nơi có tài nguyên du lịch đa dạng, phong phú, độc đáo và có sức hấp dẫn đối với du
khách. Ví dụ những nơi có: suối nước khống; thảm thực vật và động vật phong phú; có
khơng gian nghỉ ngơi; có địa điểm cho những hoạt động ngồi trời như đi dã ngoại, chạy bộ,
đi xe đạp; những cơng trình kiến trúc, văn hóa nghệ thuật có giá trị….
Đảo bảo các điều kiện vệ sinh cần thiết cho du khách.
Có cơ sở hạ tầng: đường xá, cầu cống, hệ thống điện nước… đang hoạt động tốt.
Có loại hình lưu trú phục vụ du khách như khách sạn, nhà nghỉ, nơi cắm trại, nhà sàn,…
Có hệ thống các cửa hàng bán đồ lưu niệm, đặc biệt là thực phẩm.
Hệ thống dịch vụ được trang bị đầy đủ như nhà luyện tập, câu lạc bộ phục hồi sức khỏe,
khu vui chơi, giải trí.
Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, vòng đời của một điểm du lịch thường trải qua 6
giai đoạn:
Giai đoạn phát hiện: Trong giai đoạn này, một vùng hay một địa danh nào đó được du
khách hoặc người dân, các nhà nghiên cứu ngẫu nhiên phát hiện và được thế giới tán
thưởng, công nhận vẻ độc đáo, hấp dẫn của nó. Trong giai đoạn này chưa có hoạt động kinh
doanh du lịch.
Giai đoạn tham gia: Đây là giai đoạn những người làm du lịch vào cuộc (nhà quản lý du
lịch, đối tác, cộng đồng địa phương, nhà nước…). Họ sẽ tiến hành đưa ra ý tưởng, nghiên
cứu, quy hoạch, xây dựng phương án phát triển. Đây là giai đoạn hoạt động du lịch đã diễn
ra, nhưng chưa nhiều.
Giai đoạn phát triển: Trong giai đoạn này đã bùng nổ lượng khách đến điểm du lịch
mới. Ngay trong giai đoạn này xuất hiện những mâu thuẫn giữa khách du lịch và người dân
địa phương, giữa các cơ sở kinh doanh du lịch trong và ngồi địa phương đó. Đây là những
mâu thuẫn muốn phát triển du lịch bền vững và kéo dài tuổi thọ của một điểm du lịch, rất
cần thiết họ phải bắt tay cùng đưa ra hướng phát triển chung và hiệu quả.
Giai đoạn hoàn chỉnh: Để tiếp tục thu hút nhiều khách du lịch, chủ đầu tư và chính
quyền địa phương tiếp tục hồn thiện điểm du lịch, mở rộng và nâng cấp các hạng mục và
dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Đây cũng là giai đoạn thu hút
khách trong chu kỳ phát triển của một điểm du lịch.
Giai đoạn trì trệ: Trong giai đoạn này, điểm du lịch đã được khai thác vượt quá sức tải
của nó và bắt đầu đi xuống. Khách du lịch lúc này đã q quen với hình ảnh điểm đến nên
khơng cịn hứng thú một điểm du lịch đã cũ và xuống cấp.
3
Giai đoạn suy tàn: Lượng khách giảm sút mạnh, sức hút của điểm du lịch khơng cịn
như trước. Vào thời điểm này tuy điểm du lịch vẫn còn hoạt động nhưng với quy mơ nhỏ và
doanh thu khơng cịn được như trước đây.
Ở Việt Nam cũng như đối với tất cả các nước có hoạt động du lịch, nếu muốn kéo dài
giai đoạn hoàng kim của điểm du lịch cần phải có chiến lược khai thác, quy hoạch, nâng
cấp, mở rộng phù hợp với sự phát triển du lịch của quốc gia đó.
Theo Luật Du lịch Việt Nam, điểm du lịch muốn được công nhận là điểm du lịch quốc
gia cần phải đạt được các tiêu chí sau đây:
- Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn.
- Có khả năng bảo đảm phục vụ tối thiểu một trăm nghìn lượt khách du lịch một năm.
- Có đường giao thơng thuận tiện đến điểm du lịch, có các dịch vụ: bãi đỗ xe, có khu vệ
sinh cơng cộng, phịng cháy chữa cháy, cấp, thốt nước, thơng tin liên lạc và các dịch vụ
khác đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch.
- Đáp ứng các điều kiện về bảo đảm an ninh, an tồn, trật tự, vệ sinh mơi trường theo
quy định của pháp luật.
Điểm du lịch quốc gia do Thủ tướng Chính phủ quyết định, cơng nhận.
Một số những điểm du lịch hấp dẫn: Sa Pa, chùa Hương Tích, Tam Đảo, Vịnh Hạ Long,
Hội An, Địa đạo Củ Chi, Buôn Đôn,....
1.1.2. Tuyến du lịch
Trong hoạt động kinh doanh du lịch, tuyến du lịch là nhân tố quyết định đến việc thỏa
mãn nhu cầu của du khách. Dựa vào nhu cầu, sở thích, vị trí địa lý của điểm du lịch và sự
phân vùng lãnh thổ du lịch mà các nhà kinh doanh lữ hành đã tạo ta những tuyến du lịch
phù hợp, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của du khách. Tuyến du lịch có thể mang tính
chất địa phương hoặc liên vùng tùy thuộc vào điểm đến du lịch và sự phân hóa lãnh thổ du
lịch.
Hiện nay, tuyến du lịch có nhiều cách hiểu khác nhau, ở Việt Nam các nhà nghiên cứu
hay sử dụng khái niệm: Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở
cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ,
đường hàng không. Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2007.
Như vậy, tuyến du lịch được coi như là một lịch trình được lên sẵn, kết nối các điểm du
lịch, cùng với nó là các dịch vụ phục vụ đi kèm để thực hiện chương trình du lịch. Trong
tuyến du lịch, quan trọng nhất là hành trình (lộ trình) của một chương trình du lịch. Thơng
qua tuyến du lịch, các nhà lữ hành có thể tính toán được thời gian của chuyến đi và đặc
trưng nổi bật của sản phẩm du lịch đó.
Ở Việt Nam, để được công nhận là một tuyến du lịch phụ thuộc rất lớn vào kết cấu và
khoảng cách của các điểm du lịch ở trong tuyến đó. Từ đó, phân chia thành tuyến du lịch
quốc gia hay tuyến du lịch nội vùng (địa phương).
Điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch quốc gia bao gồm:
- Nối các khu du lịch, điểm du lịch, trong đó có khu du lịch, điểm du lịch quốc gia, có
tính chất liên vùng, liên tỉnh, kết nối với các cửa khẩu quốc tế;
- Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, môi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch
dọc theo tuyến.
Điều kiện để được công nhận là tuyến du lịch địa phương bao gồm:
- Nối các khu du lịch, điểm du lịch trong phạm vi địa phương;
4
- Có biện pháp bảo vệ cảnh quan, mơi trường và cơ sở dịch vụ phục vụ khách du lịch
dọc theo tuyến.
Một số tuyến du lịch quan trọng của Việt Nam:
Hà Nội – Hải Dương - Hạ Long – Hải Phòng
Hà Nội – Lào Cai – Sa Pa
Hà Nội – Nghệ An – Quảng Bình – Quảng Trị - Huế
TP. Hồ Chí Minh – Đà Lạt – Nha Trang
TP. Hồ Chí Minh – Đồng bằng Sơng Cửu Long
TP. Hồ Chí Minh – Vũng Tàu – Cơn Đảo
1.2. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC DU LỊCH
1.2.1. Du lịch dã ngoại
Du lịch dã ngoại thích hợp với các hoạt động thanh niên, khảo sát, nghiên cứu và khám
phá. Du lịch dã ngoại cung ứng thỏa mãn các yêu cầu thuộc về tinh thần: thưởng ngoạn vẻ
đẹp hùng vĩ, hoang dã hay thơ mộng của cảnh vật thiên nhiên; tìm tịi những điều mới lạ,
sống gần với tự nhiên để có được những cảm xúc rạt rào, thư thái tâm hồn, với một thể chất
được tập luyện và tái bồi dưỡng bằng khơng khí trong lành. Ðặc biệt du lịch dã ngoại phát
triển tinh thần cộng đồng giúp mọi thành viên thân thiết với nhau hơn.
Du lịch dã ngoại được hiểu như sau: Là loại hình du lịch cắm trại ngồi trời, kết hợp
những trị chơi để tạo mối thân mật trong đồn du lịch, thường là những nhóm người trong
cùng một lớp học, đồn thể, cơ quan và thích hợp cho các đối tượng thanh thiếu niên.
Thực tế, đây là hình thức du lịch dã ngoại có thể mang lại nhiều niềm vui cho con
người, ngay cả những du khách tuổi già, và cả những du khách có hứng thú về trèo non,
vượt suối băng ngàn, những buổi vui chơi rộn rã tiếng "hị dơ ta" hoặc là những đêm lửa trại
giữa núi rừng, đồi hoang, đảo vắng, ấm áp tình người với những trò chơi giản dị, hồn nhiên.
Ở Việt Nam, với địa hình đa dạng và có nhiều cảnh vật hoang sơ nên rất thích hợp để
phát triển loại hình du lịch này đối với cả đối tượng khách nội địa và khách quốc tế. Khách
du lịch nước ngồi rất thích thú với các tuyến hành trình bằng xe đạp đi khám phá các vùng
nông thôn hoặc vùng núi, hải đảo. Họ được trải nghiệm những khoảng khắc đẹp trong cuộc
sống thường nhật của những người dân ở mỗi vùng, miền khác nhau trên đất nước Việt
Nam.
Một số các điểm du lịch dã ngoại được du khách yêu thích nhất là Sài Gịn, vùng đồng
bằng sơng nước Cửu Long, Ngũ Hành Sơn, các bãi biển, Ðà Lạt, Daklak, Hội An, Huế, Hà
Nội, vịnh Hạ Long, vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc....
1.2.2. Du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái để thưởng thức những tài ngun thiên nhiên (sơng, núi, biển, rừng)
thích hợp cho mọi đối tượng khách du lịch đặc biệt là khách nước ngoài.
Nội dung căn bản của du lịch sinh thái là tập trung vào mức độ trách nhiệm của con người
đối với môi trường. Quan điểm thụ động cho rằng Du lịch sinh thái là du lịch hạn chế tối đa
các suy thối mơi trường do du lịch tạo ra, là sự ngăn ngừa các tác động tiêu cực lên sinh
thái, văn hoá và thẩm mỹ. Quan điểm chủ động cho rằng du lịch sinh thái cịn phải đóng góp
vào quản lý bền vững mơi trường lãnh thổ du lịch và phải quan tâm đến quyền lợi của nhân
dân địa phương.
Ở Việt Nam vào năm 1999 trong khuôn khổ hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về
phát triển du lịch sinh thái đã đưa ra định nghĩa như sau: "Du lịch sinh thái là hình thức du
lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và mơi trường có tác động tích cực đến
5
việc bảo vệ mơi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài chính cho cộng
đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn".
Trong Luật du lịch năm 2005, định nghĩa du lịch sinh thái được hiểu khá ngắn gọn "Du
lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương
với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững". Theo quy chế quản lý các hoạt
động du lịch sinh thái tại các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên, do bộ Nơng nghiệp và PTNT
ban hành năm 2007, thì Du lịch Sinh thái được hiểu " Là hình thức du lịch dựa vào thiên
nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng dân cư ở địa
phương nhằm phát triển bền vững". Tuy nhiên, trong giảng dạy và nghiên cứu thường sử
dụng định nghĩa trong Luật Du lịch được ban hành năm 2005.
Thực tế, khi phát triển loại hình du lịch sinh thái, các nhà nghiên cứu kỳ vọng loại hình
du lịch này sẽ cải thiện được các vấn đề về môi trường, kinh tế, văn hóa – xã hội. Bảo tồn
tài ngun của mơi trường tự nhiên. Bảo đảm đối với du khách về các đặc điểm của môi
trường tự nhiên mà họ đang chiêm ngưỡng. Thu hút tích cực sự tham gia của cộng đồng địa
phương, người dân bản địa trong việc quản lý và bảo vệ, phát triển du lịch đang triển khai
thực hiện trong điểm du lịch, khu du lịch v.v...
Qua các yêu cầu nhiệm vụ đề ra nói trên, loại hình du lịch sinh thái vừa đảm bảo sự hài
lịng đối với du khách ở mức độ cao để tạo lập sự hấp dẫn đối với họ, đồng thời qua du
khách quảng bá uy tín của điểm du lịch, khu du lịch. Từ đó ngành du lịch có điều kiện bảo
đảm và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch và cũng là cơ hội tăng thu nhập cho người
dân thông qua hoạt động du lịch, cũng tức là có điều kiện thuận lợi về xã hội hố thu nhập
từ du lịch.
Một số nơi thu hút khách với loại hình du lịch sinh thái như: Hà Nội, Đà Lạt, TP. Hồ
Chính Minh, đồng bằng Sơng Cửu Long, Cần Thơ…
1.2.3. Du lịch nghiên cứu
Du lịch nghiên cứu là loại hình du lịch ngày càng phổ biến do nhu cầu kết hợp lý luận
với thực tiễn, học đi đôi với hành. Một trong những biểu hiện của loại hình này là sinh viên
thuộc các ngành học như địa lý, lịch sử, văn hóa, mơi trường… được tổ chức đi nghiên cứu
tìm hiểu thực tế. Ngoài ra, các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực trên họ cũng có nhu cầu
nghiên cứu thực tế tại các điểm phù hợp với nội dung nghiên cứu. Địa điểm đến phải là
những nơi có các đối tượng phù hợp với nội dung học tập như vườn quốc gia, khu dự trữ
sinh quyển, các di tích lịch sử - văn hóa, bảo tàng….
Hiện nay, có nhiều cách hiểu về hình thức du lịch nghiên cứu. Tuy nhiên, cách hiểu
được sử dụng nhiều nhất là khái niệm: Du lịch nghiên cứu là loại hình du lịch tổ chức cho
cá nhân hay một nhóm nghiên cứu, tìm hiểu về các tài nguyên thiên nhiên (động thực vật
học, địa chất), các tài nguyên nhân văn (văn hóa, trang phục của các dân tộc).
Một số nơi thu hút khách du lịch đến nghiên cứu: VQG Cúc Phương, VQG Hoàng Liên
Sơn, VQG Tràm Chim, VQG Cát Bà, khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, Cát Tiên, bảo tàng
Lịch sử, bảo tàng Dân tộc học, tìm hiểu văn hóa vùng núi Tây Bắc, Tây Ngun, tìm hiểu
văn hóa người Chăm….
1.2.4. Du lịch tìm hiểu về lịch sử - văn hóa
Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế, con người ngày càng có điều kiện
và nhu cầu tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của dân tộc mình và các dân tộc khác trên thế giới.
Do đó, việc tổ chức các chương trình du lịch gắn với nhu cầu tìm hiểu lịch sử, văn hóa của
một dân tộc, một quốc gia đang là mối quan tâm của các nhà quản lý du lịch.
Nếu như các hình thức du lịch khác thường gắn liền với cả hai loại tài nguyên du lịch,
thì du lịch tìm hiểu về lịch sử - văn hóa chỉ gắn với tài nguyên du lịch nhân văn. Đây là, loại
6
hình du lịch tìm hiểu những tài nguyên nhân văn thích hợp cho mọi đối tượng khách tham
quan đến những đình, đền, chùa, các cơng trình kiến trúc nghệ thuật, các cơng trình kỷ niệm
những danh nhân và sự kiện lịch sử.
Một số điểm du lịch văn hóa tiêu biểu
- Điểm du lịch địa đạo Củ chi ( TPHCM )
- Điểm du lịch đình Bình thủy ( tỉnh Cần thơ )
- Điểm du lịch Côn sơn – Kiếp Bạc ( tỉnh Hải dương )
- Khu lưu niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc ( tỉnh Đồng Tháp )
- Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội)
- Cố đô Huế (TP. Huế)
- Phố cổ Hội An (Quảng Nam)
1.2.5. Du lịch vui chơi, giải trí
Mục đích của chuyến du lịch là thư giãn, thốt khỏi công việc căng thẳng thường ngày
để phục hồi sức khỏe. Với mục đích này du khách chủ yếu muốn tìm đến những nơi n
tĩnh, có khơng khí trong lành. Tuy nhiên, ngoài thời gian tham quan, nghỉ ngơi rất cần thiết
có các chương trình vui chơi, giải trí. Để đáp ứng xu thế này cần quan tâm mở rộng các loại
hình và các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vui chơi giải trí như các cơng viên, các trung
tâm thương mại, sịng bạc….
Chính vì mục đích của chuyến đi nên hình thức du lịch vui chơi, giải trí được hiểu là
loại hình du lịch giúp cho khách tham quan những giây phút được thư giãn về tinh thần sau
một thời gian lao động cực nhọc, tăng cường sức khỏe để tiếp tục cơng việc.
Ở Việt Nam, loại hình du lịch này mới chỉ phát triển mạnh ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
XXI. Tuy nhiên, thực tế các khu vui chơi, giải trí cịn chưa hiện đại do hồn cảnh kinh tế
nước ta cịn khó khăn.
- Điểm du lịch tắm bùn và nước khoáng Tháp Bà (tỉnh Khánh hoà).
- Khu du lịch Suối Tiên (TP. HCM).
- Thiên đường Bảo Sơn (TP. Hà Hội)
- Vinpearl Land (Nha Trang)
- Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến (Bình Dương)
1.2.6. Các hình thức khác
Bên cạnh, cách phân loại trên, hiện nay có rất nhiều cách phân loại khác cũng được các
nhà nghiên cứu sử dụng.
Cách phân loại dựa vào phương tiện vận chuyển có các hình thức:
- Du lịch bằng mơtơ - xe đạp: Trong loại hình này xe đạp và mơtơ được làm phương
tiện đi lại cho du khách từ nơi ở đến điểm du lịch. Nó được phát triển ở nơi có địa hình
tương đối bằng phẳng
- Du lịch bằng tàu hỏa: Được hình thành từ những năm 40 của thế kỷ 19.
Ngày nay do sự phát triển của ngành đường sắt, số khách du lịch bằng tàu hỏa ngày
càng đông. Lợi thế của du lịch bằng tàu hỏa là: tiện nghi, an toàn, nhanh, rẻ, đi được xa và
vận chuyển được nhiều người.
- Du lịch bằng tàu thủy: Được phát triển ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở những
nước có bờ biển đẹp, có nhiều vịnh, nhiều đảo, hải cảng, sông hồ...
- Du tịch bằng xe hơi: Là loại hình du lịch được phát triển phổ biến và rộng rãi nhất. nó
có nhiều tiện lợi và được nhiều người ưa chuộng: nhanh, du khách có điều kiện gần gũi với
7
thiên nhiên, có thể dừng lại ở bất cứ điểm du lịch nào...
- Du lịch bằng máy bay: Là loại hình du lịch có nhiều triển vọng nhất, nó có nhiều ưu
thế: nhanh, tiện nghi. Vì vậy trong một thời gian ngắn du khách có thể đi được quãng đường
xa hơn, giúp họ đi được nhiều nơi hơn. Tuy nhiên, giá cả tương đối cao không phù hợp với
thu nhập của nhiều người.
Hoặc cách phân loại theo loại hình lưu trú:
- Du lịch ở trong khách sạn: Là loại hình du lịch phổ biến nhất. Loại hình này phù hợp
với những người lớn tuổi, những người có thu nhập cao. Vì ở đây các dịch vụ hồn chỉnh
hơn, có hệ thống hơn, chất lượng phục vụ tốt hơn, nhưng giá cả cao hơn.
- Du lịch ở trong Motel: Motel là các khách sạn được xây dựng ven đường xa lộ nhằm
phục vụ cho khách du lịch bằng xe hơi. Ở đây có cả các giữa để xe cho lữ khách. Các dịch
vụ trong Motel phần lớn là tự phục vụ. Du khách tự nhận phòng, tự gọi ăn trong nhà hàng.
Các dụng cụ ở đây là loại sử dụng một lần. Giá cả trong Molel thường rẻ hơn ở trong khách
sạn.
- Du lịch ở trong nhà trọ: Nhà trọ là những khách sạn loại nhỏ của tư nhân, giá cả
thường rất thích hợp với du khách có thu nhập thấp, đặc biệt là các gia đình có con nhỏ đi
cùng.
- Du lịch cắm trại: Là loại hình du lịch được phát triển với nhịp độ cao, được giới trẻ ưa
chuộng. Nó rất thích hợp với khách đi du lịch bằng xe đạp, mô tô, xe hơi. Đầu tư cho du
lịch loại này không cao, chủ yếu sắm lều trại, bạt, giường ghế gấp và một số dụng cụ đơn
giản rẻ tiền. Khách tự thuê lều bạt, tự dựng và tự phục vụ.
Những cách phân loại này tùy theo yêu cầu cụ thể của khách mà có cách thiết kế, tổ
chức các chương trình du lịch phù hợp.
8
CHƯƠNG 2: TUYẾN ĐIỂM DU LỊCH VÙNG DU LỊCH BẮC BỘ
2.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG DU LỊCH BẮC BỘ
2.1.1. Vị trí địa lý
Vùng du lịch Bắc Bộ có diện tích 150.066,8 km2, bao gồm 28 tỉnh, thành phố, kéo dài
từ Hà Giang đến Hà Tĩnh, với Thủ đô Hà Nội là trung tâm tạo vùng và có tam giác tăng
trưởng du lịch: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vùng là nơi hội tụ đầu đủ các tiềm năng
phát triển du lịch của Việt Nam. Trong số 3 vùng du lịch của cả nước, vùng du lịch Bắc Bộ
có diện tích lớn nhất, với dân số là 41.013,4 nghìn người (2013), chiếm 45,3% diện tích và
45,2% dân số cả nước, mật độ trung bình là 260 người/km2, tương đương với mật độ dân số
toàn quốc.
Vùng du lịch Bắc Bộ có 7 tỉnh ở phía Bắc (Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà
Giang, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên) tiếp giáp với Trung Quốc; 5 tỉnh phía Tây (Lai
Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) tiếp giáp với Lào, phía đơng giáp vịnh Bắc
Bộ với bờ biển dài l.000km và hàng nghìn đảo nhỏ. Trong đó, có các đảo nhỏ dọc theo các
tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng rất có giá trị về mặt du lịch.
Vị trí địa lý của vùng du lịch Bắc Bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho vùng có biểu hiện
đầy đủ nhất về đất nước và con người Việt Nam. Thiên nhiên của vùng rất đa dạng và mang
nhiều nét đặc trưng độc đáo của cảnh quan nhiệt đới gió mùa ẩm. Vùng là cái nơi hình thành
nên dân tộc Việt với nền văn hóa Việt. Bên cạnh đó, vùng núi phía Bắc còn là nơi sinh sống
của cộng đồng dân cư các dân tộc Việt Nam, nên kho tàng văn hóa của mỗi dân tộc đã tạo
nên bức tranh văn hóa đa dạng đầy màu sắc. Đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển
hoạt động du lịch, đặc biệt ngồi giá trị cho khách nội địa, vùng cịn có sức hấp dẫn rất lớn
đối với du khách quốc tế.
2.1.2. Thống kê các điểm du lịch quan trọng của vùng
Vùng du lịch Bắc Bộ bao gồm 28 tỉnh thành, mỗi tỉnh có những điểm du lịch đặc trưng,
tạo nên các sản phẩm du lịch có giá trị lớn đối với hoạt động kinh doanh du lịch. Hệ thống
các điểm du lịch, điểm tham quan quan trọng của vùng bao gồm nhiều điểm có giá trị, được
thống kê chi tiết trong bảng phục lục 1: Hệ thống các điểm du lịch/điểm tham của vùng du
lịch Bắc Bộ.
2.1.3. Cơ sở vật chất phục vụ du lịch
Vùng du lịch Bắc Bộ có lịch sử hình thành và phát triển du lịch sớm nhất nước ta do đó,
vùng đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, đa dạng phục vụ cho sự
phát triển của ngành. Tại các trung tâm hoặc các điểm du lịch đã xây dựng được hệ thống
nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng đáp ứng nhu cầu ăn, nghỉ của du khách. Hệ thống này ngày
càng đa dạng về loại hình đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách đến từ nhiều quốc gia,
nhiều vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, hệ thống các điểm, khu vui chơi giải trí của
vùng vẫn cịn nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách.
Về hệ thống cơ sở lưu trú, số lượng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế từ 3 sao trở lên đã
được đầu tư xây dựng tại trung tâm du lịch Hà Nội, các điểm du lịch Hạ Long, Hải Phòng,
Hải Dương, Lạng Sơn, Lào Cai, Nghệ An, Hà Tĩnh.... Loại hình lưu trú cũng ngày càng đa
dạng. Ngồi hệ thống khách sạn cao cấp, vùng có phát triển hệ thống nhà nghỉ, khu resrot,
homestay, camping... phục vụ tối đa nhu cầu nghỉ dưỡng của các đối tượng khách. Các hình
thức lưu trú này không chỉ tập trung tại trung tâm du lịch Hà Nội mà còn được trải đều ở các
tiểu vùng du lịch. Đây là điều kiện để phát triển du lịch đồng đều giữa các tỉnh thành trong
vùng, nâng cao chất lượng phục vụ du lịch. Các cơ sở lưu trú quan trọng của vùng được
thống kê chi tiết trong phục lục 2: Hệ thống cơ sở lưu trú quan trọng của vùng du lịch Bắc
Bộ.
9
Đối với vùng du lịch Bắc Bộ, hệ thống nhà hàng, quán bar phục vụ cho hoạt động du
lịch của vùng trong giai đoạn hiện nay cũng ngày càng phát triển đa dạng. Trong vùng, có
nhiều kiểu nhà hàng phục vụ đa dạng cho các đối tượng khách khác nhau: nhà hàng các món
ăn dân tộc, nhà hàng chuyên món ăn Âu, nhà hàng chuyên món ăn chay, nhà hàng chuyên
món ăn của một số quốc gia trên thế giới (Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,...). Sự phong phú
này giúp cho khách quốc tế có nhiều sự lựa chọn và khách nội địa sẽ được thưởng thức văn
hóa ăn của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế các nhà hàng lớn chỉ tập trung ở
các trung tâm du lịch phát triển như Hà Nội, Hạ Long. Với các điểm du lịch nhỏ cơ sở ăn
uống còn nhỏ lẻ, manh mún chưa có hệ thống nhà hàng chuyên dụng hoặc mới chỉ phát triển
hình thức ăn theo bàn truyền thống (chưa có kiểu Buffet mang lại nhiều sự lựa chọn cho du
khách).
Bên cạnh hệ thống khách sạn, nhà hàng sang trọng, vùng du lịch Bắc Bộ cịn có nhiều cơ
sở phục vụ lưu trú và ăn uống với hệ thống nhà nghỉ, quán bar tập trung tại các điểm du lịch
quan trọng của vùng như Nghệ An, Sa Pa, Ninh Bình.... Với sự đa dạng này, đã đáp ứng
được nhu cầu phong phú của du khách với nhiều các loại hình du lịch khác nhau. Tuy nhiên,
có nhiều cơ sở cịn hoạt động manh mún vẫn mang tính thời vụ, do đó cần mở rộng kinh
doanh đem lại sự phục vụ chuyên nghiệp, hoàn hảo cho du khách. Những nhà hàng quan
trọng của vùng được thống kê chi tiết trong phục lục 3: Hệ thống nhà hàng quan trọng của
vùng du lịch Bắc Bộ.
2.1.4. Sản phẩm du lịch đặc trưng
Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng du lịch Bắc Bộ là du lịch văn hóa, du lịch hội
nghị hội thảo kết hợp với du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu và nghỉ dưỡng.
- Du lịch tham quan nghiên cứu nền văn hóa Việt Nam
+ Các di tích văn hóa – lịch sử của vùng là chứng nhân cho thời kỳ dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam.
+ Các lễ hội, tâm linh thuộc các nền văn minh, văn hóa của dân tộc.
+ Các di sản, văn hóa nghệ thuật truyền thống của cộng đồng người Việt và các dân tộc
khác.
+ Các làng nghề thủ công truyền thống
- Tham quan nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí tại các vùng có cảnh quan đẹp
+ Vùng biển và hải đảo
+ Các hồ chứa nước lớn và nghỉ mát trên núi
+ Vùng núi đá, hang động karst
+ Vùng núi cao, rừng nguyên sinh
- Du lịch sinh thái
+ Tham quan nghỉ dưỡng tại các khu sinh thái gần trung tâm du lịch Hà Nội
+ Các vườn quốc gia, khu dự trữ sinh quyển cho phép khai thác phục vụ phát triển du
lịch
- Du lịch hội nghị, hội thảo, hội chợ, công vụ
10
Bản đồ 2.1: Tuyến điểm du lịch vùng du lịch Bắc Bộ
2.2. MỘT SỐ TUYẾN DU LỊCH QUAN TRỌNG ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG
VÙNG
2.2.1. Tuyến du lịch trung tâm Hà Nội
2.2.1.1. Khái quát về Hà Nội
Hà Nội là thành phố cổ, là thủ đô của nước Việt Nam được xây dựng cách đây hàng
nghìn năm, là nơi hội tụ nhiều di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội truyền thống và nhân tài.
11
Hà Nội thành phố đứng đầu Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2, đồng thời cũng là địa
phương đứng thứ nhì về dân số với 7.129.600 người (2014).
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay gồm 10
quận, 1 thị xã và 18 huyện ngoại thành. Hiện nay, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai
trung tâm kinh tế - xã hội đặc biệt quan trọng của Việt Nam.
Hà Nội nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, thuận tiện cho giao thông và trao
đổi kinh tế, văn hóa với các tỉnh thành trong vùng và cả nước. Hà Nội cũng là trung tâm văn
hóa, kinh tế, chính trị của cả nước.
Hà Nội có tiềm năng to lớn về tài nguyên du lịch (theo thống kê của Sở Văn hóa Thơng
tin Hà Nội, đến năm 2011, Hà Nội có 2.114 di tích văn hóa lịch sử, 579 ngơi đình, 676 ngoi
chùa, 273 ngơi đền với mật độ di tích được xếp hạng cao nhất cả nước, trung bình 42,8 di
tích/km2). Đây là tiền đề quan trọng để du lịch Hà Nội phát triển.
Theo thống kê năm 2013, Hà Nội có 611 cơ sở lưu trú với hơn 12.700 phịng đang hoạt
động. Trong số này chỉ có 178 khách sạn được xếp hạng với 8.424 phịng. Tình trạng thiếu
phòng cao cấp là một trong những nguyên nhân khiến lượng khách nước ngồi tới Hà Nội
khơng cao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho
phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3–5 sao ở Hà Nội hiện dao động
từ 80% đến 90%. Ngoài 9 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia,
Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, thành phố còn 6
khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao.
Về tài nguyên du lịch tự nhiên, Hà Nội có cảnh quan địa hình phân hóa đa dạng từ miền
núi cao khu vực Ba Vì đến vùng đồng bằng trũng. Sự phân hóa địa hình tạo nên nhiều cảnh
quan du lịch hấp dẫn cho thành phố, tiêu biểu như Ba Vì, Hương Sơn, Sóc Sơn… Thành
phố cũng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, thích hợp cho hoạt động du lịch.
Hệ thống sông hồ cũng là một đặc điểm thu hút khách của thành phố, hấp dẫn du khách
như: sông Hồng, sông Đáy; hồ Tây, hồ Gươm, hồ Trúc Bạch, hồ suối Hai….Ngồi ra, thành
phố cịn có hệ thống cây xanh, vườn quốc gia có giá trị cao đối với hoạt động tham quan,
nghiên cứu, nghỉ dưỡng, tiêu biểu là vườn quốc gia Ba Vì.
Hà Nội tập trung nhiều cơng trình kiến trúc tâm linh có giá trị như: chùa Một Cột, chùa
Trấn Quốc, đền Ngọc Sơn, chùa Thầy, chùa Đậu, chùa Mía…Bên cạnh đó, lễ hội cũng là
một tài nguyên đặc sắc, có giá trị rất hấp dẫn khách du lịch. Các lễ hội tiêu biểu: lễ hội
Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Quang Trung, Chùa Hương, An Dương Vương…
Hà Nội có hệ thống bảo tàng đa dạng ở Việt Nam (hơn 10 bảo tàng): Dân tộc học, Lịch
sử, Cách mạng, Quân sự, Mỹ thuật…cùng với nhiều thư viện, trung tâm triển lãm, trung tâm
thông tin…. là những địa điểm tham quan, vui chơi giải trí hấp dẫn du khách trong và ngoài
nước.
Trung tâm du lịch Hà Nội còn là nơi tập trung các làng nghề nổi tiếng như: làng gốm
Bát Tràng, làng Ngũ Xá đúc đồng, làng lụa Vạn Phúc, làng Nón Chng, sơn mài Hạ
Thái… vẫn cịn lưu giữ được những nét văn hóa truyền thống làng nghề. Nơi đây cũng là
những điểm tham quan quen thuộc của du khách quốc tế.
Cùng với tài nguyên du lịch phong phú, thành phố Hà Nội có hệ thống cơ sở vật chất –
kỹ thuật, cơ sở hạ tầng rất phát triển. Hệ thống khách sạn, nhà hàng, các cơ sở vui chơi, giải
trí phát triển trên khắp thành phố. Hiện tại, thành phố có khoảng 200 khách sạn được xếp
hạng, trong đó có 6 khách sạn chuẩn 5 sao, đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng khách
khác nhau. Ngoài ra, thành phố là đầu mối giao thơng và có sân bay quốc tế cũng là yếu tố
thuận lợi để du khách dễ dàng di chuyển và thu hút đông đảo hơn nữa du khách trong tương
lai.
12
2.2.1.2. Các điểm tham quan du lịch trong nội thành Hà Nội
a) Khu Phố cổ Hà Nội
Phố cổ Hà Nội được xác định bởi khu 36 phố phường. Khu phố cổ được xây dựng từ thế
kỷ XI khi vua Lý Thái Tổ cho xây dựng kinh thành Thăng Long. Về địa giới, khơng gian
khu Phố cổ Hà Nội có thể coi như một hình tam giác cân, có đỉnh là phố Hàng Than, cạnh
phía đơng là đê sơng Hồng, cạnh phía Tây là phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, cịn đáy
là phố Hàng Bơng, Hàng Gai, Cầu Gỗ. Ngày nay, khu phố cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận
Hoàn Kiếm, tổng diện tích khoảng 100 ha, có 76 tuyến phố thuộc 10 phường: phường Hàng
Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa
Đông, Lý Thái Tổ.
Thời Lý, Phố cổ Hà Nội gồm 36 phố phường, thời nhà Trần Phố cổ Hà Nội được mở
rộng với 61 phố phường. Từ thời Lê đến nay khi nới tới Phố cổ Hà Nội là được xác định bởi
36 phố phường.
Phố cổ Hà Nội được quy hoạch theo hình bàn cờ, có chức năng là nơi kinh doanh và sản
xuất các mặt hàng theo tên gọi. Việc bố trí các phố phù hợp với điều kiện kinh doanh, các
phố buôn bán những mặt hàng cồng kênh cần đường giao thông đều nằm gần mặt đê sông
Hồng. Đặc trưng nổi bật nhất của khu phố cổ là các phố nghề. Thợ thủ công từ các làng
nghề quanh Thăng Long xưa tụ tập về đây, tập trung theo từng khu vực chun làm nghề
của mình. Và chính sản phẩm được buôn bán trở thành tên phố, với chữ "Hàng" đằng trước,
mỗi phố chuyên môn buôn bán một loại mặt hàng. Hiện nay, một số phố vẫn còn giữ được
sản phẩm truyền thống như phố Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, Thuốc Bắc...
Đặc trưng tiếp theo của khu phố cổ là kiến trúc nhà cổ trong khu phố buôn bán. Những
nhà cổ chủ yếu là nhà ống, mái ngói nghiêng, mặt tiền là cửa hàng bn bán thị thụt không
đều, được dựng vào thế kỉ XVIII - XIX, trước đó hầu hết là nhà mái tranh, chỉ có một số nhà
giàu có, nhà của Hoa kiều mới lợp mái ngói.
Thời kì tồn quốc kháng chiến, để tránh đụng độ trực tiếp với quân Pháp và lính Lê
dương, người dân và Vệ quốc quân đã đục thông tường từ nhà này sang nhà khác. Khi cần
người ta có thể đi từ đầu đến cuối phố qua những lỗ hổng giữa các ngôi nhà mà không cần
phải xuống đường. Từ cuối thế kỉ XX, các nhà cổ dần dần biến mất. Thay vào đó là các ngơi
nhà ống xây mới phá vỡ cảnh quan vốn có của phố cổ.
Bên cạnh kiến trúc nhà, khu phố cổ còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử văn hóa như đình,
đền, chùa, hội qn. Điển hình: Đình Nhân Hội (33 phố Bát Đàn); đình Đơng Mơn (8 Hàng
Cân); đình Thuận Mỹ (64 Hàng Quạt); chùa Cầu Đông (38B Hàng Đường) ; chùa Kim Cổ
(73 Đường Thành);…. Các di tích lịch sử văn hóa cịn hiện hữu tại nơi đây đã thể hiện gốc
gác truyền thống văn hóa của một bộ phận dân cư Thăng Long – Hà Nội xưa.
Khu Phố cổ Hà Nội ngày nay do bị thời gian tàn phá nên đã bị xuống cấp nghiêm trọng,
khơng cịn giữ được những giá trị kiến trúc mỹ thuật, văn hóa như xưa. Do đó, việc trùng tu,
bảo vệ Phố cổ Hà Nội đang rất cấp bách. Trong dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định dùng khoảng 50 tỷ đồng để tân trang
75 tuyến phố của các quận nội, ngoại thành.
Ngày nay, phố cổ Hà Nội vẫn là nơi lưu giữa văn hóa Thăng Long – Hà Nội xưa, rất hấp
dẫn du khách trong và ngồi nước. Vì vậy, ơng F.Mayơ - Tổng giám đốc UNESCO đã nhận
xét rằng: “Khu Phố cổ Hà Nội là một di tích quý giá, đáng được bảo tồn”.
b) Văn miếu Quốc Tử Giám
Văn miếu Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành
phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long xưa. Hiện nay, nơi đây đã được thủ
tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt.
13
Cổng chính nằm ở phía nam cơng trình thuộc phố Quốc tử giám.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám có diện tích 54.331m2 bao gồm: hồ Văn,
khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám, mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu - nơi thờ
Khổng Tử và Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên của Việt Nam.
Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức đời Lý Thánh Tơng. Ngồi chức năng thờ
tự, Văn miếu còn mang chức năng của một trường học Quốc gia mà học trò đầu tiên là Thái
tử Lý Càn Đức, con trai vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi Ỷ Lan, lúc đó mới 5 tuổi, đến
năm 1072 lên ngôi trở thành vua Lý Nhân Tông. Ngày nay tồn bộ khu Thái Học được xây
dựng với diện tích 1530m² trên tổng diện tích 6150m² gồm các cơng trình kiến trúc chính
là Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, nhà chuông, nhà trống được mô phỏng theo kiến
trúc truyền thống trên nền đất xưa của Quốc Tử Giám.
Cổng Văn miếu là tam quan lớn, xây hai tầng ba cửa, tầng hai có tám mái, bốn mái nóc
uốn cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, tạo kiểu dáng vừa uy nghi, vừa thanh
thoát. Qua cổng tam quan là khu Nhập đạo, có khơng gian cây xanh thảm cỏ, hồ nước,
đường lát gạch.
Khuê Văn Các (nghĩa là "vẻ đẹp của sao Khuê") là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn
mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều
Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm1805. Gác dựng trên một nền vng cao cân
xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8 mét. Để bước lên được nền vuông này
phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo.
Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ
đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp
vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất
nung hoặc vơi cát có độ bền cao.
Nằm trong khu Văn miếu cịn có giếng Thiên Quang và bia Tiến sĩ là hai cơng trình rất
có giá trị.
Thiên Quang tỉnh (tức "giếng soi ánh sáng bầu trời") còn được gọi là Văn Trì (Ao Văn).
Thiên Quang nghĩa là ánh sáng bầu trời. Đặt tên này cho giếng, người xây dựng có ý muốn
nói con người thu nhận được tinh túy của vũ trụ, soi sáng tri thức, nâng cao phẩm chất, tơ
đẹp nền nhân văn. Giếng hình vng, quanh bờ đều xây hàng lan can tới độ ngang lưng.
Người xưa cịn có quan niệm giếng hình vng tượng trưng cho đất, cửa tròn gác Khuê Văn
tượng trưng cho trời. Tinh hoa của cả trời cả đất đều được tập trung ở trung tâm văn hóa
giáo dục uy nghiêm giữa chốn đế đô này. Một con đường nhỏ lát gạch bao quanh giếng cho
phép người ta có thể dạo quanh giếng, lên gác Khuê Văn, vào cửa Đại Thành hoặc rẽ sang 2
vườn bia đá ở 2 bên.
Di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở hai bên phải trái của
giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía
giếng. Cả hai bên, giữa mỗi vườn bia xây một tịa đình vng, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa
nền có bệ, cửa đều trơng thẳng xuống giếng. Đây là hai tịa đình thờ bia. Xưa kia hàng năm
xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu làm lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho
của nước ta mà q tính cao danh cịn khắc trên bia đá. Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày
nay, tấm sớm nhất dựng vào năm1484, khắc tên các vị tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu
Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm 1780, khắc tên các Tiến sĩ đỗ
khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779). Từ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại
Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống năm thứ
nhất 1787 tính cho đủ phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể các khoa thi Tiến sĩ, không kể
các khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa, vậy nếu theo đúng điển lệ triều
Hậu Lê thì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật
14
đổi sao dời, số bia chỉ còn là 82 tấm. Nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ
phải gắn chắp lại.
Hai cửa nhỏ theo văn bản của ông Đỗ Văn Ninh là Kim Thành bên phải và Ngọc Thành
bên trái, hiện nay là Kim Thanh môn và Ngọc Chấn môn nằm ngang với cửa Đại Thành,
song 2 cửa này khơng mở vào thẳng khu vực chính, mà để đi qua con đường lát gạch phía
sau 2 dãy Tả Vu và Hữu Vu để tiếp tục qua sang khu Khải Thánh phía cuối cùng của di tích.
Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch Bát Tràng. Hai bên phải
trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả Vu. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to
lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2
bên, tạo thành cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và thuyền thống. Sau Đại Bái Đường, song
song với Đại Bái Đường là tịa Thượng Điện, có quy mơ tương tự cả về chiều cao lẫn bề
rộng. Đại Bái Đường nối với Thượng Điện bằng một Tiểu Đình hình vng. Nếu tách riêng
cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ cơng mà Tiểu đình
chính là nét sổ giữa và Đại Bái Đường, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới.
Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay,
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời
cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào
ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến "cầu may" trước mỗi
kỳ thi.
Ngày 9/5/1962, Bộ Văn hóa đã cơng nhận Văn miếu Quốc tử giám là di tích lịch sử cấp
Nhà nước.
c) Chùa Một Cột
Chùa Một Cột hay còn gọi là chùa Diên Hựu được vua Lý Thái Tông cho khởi công xây
dựng vào mùa đông tháng mười (âm lịch) năm 1049.
Tương truyền khi ấy nhà vua cao tuổi mà khơng có con trai nên thường đến các chùa để
cầu tự. Một đêm, vua chiên bao thấy đức Quan Thế Âm hiện trên đài hoa sen ở một hồ nước
hình vng phía Tây thành Thăng Long, tay bế đứa con trai đưa cho nhà vua, ít lâu sau
hồng hậu thụ thai sinh con trai, nhà vua cho dựng chùa có dáng như trong mộng để thờ
Phật và Quan Thế Âm.
Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua dựng cột đá, trên đặt đài sen thờ Phật, các nhà sư đi vòng
để cầu kinh cho nhà vua sống lâu nên chùa có tên là Diên Hựu.
Ngơi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm. Năm 1105, vua
Lý Nhân Tơng cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô
chùa Một Cột chỉ cịn lại ngơi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực
dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng
tu cơ bản như trước. Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vng, chiều dài
mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (khơng kể phần chìm dưới đất), đường kính
1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống
những địn gỗ làm giá đỡ cho ngơi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong,
trên có Lưỡng long chầu nguyệt. Trong quan niệm người Việt, rồng luôn là con vật linh
thiêng, biểu tượng cho quyền uy, sức mạnh. Và hình ảnh "Lưỡng long chầu nguyệt" trên các
mái đình đền, chùa chiền, khơng chỉ biểu tượng cho sức mạnh thần thánh mà cịn ẩn trong
đó những giá trị nhân văn, phản chiếu trí tuệ, ước vọng của con người và nền văn minh cổ
xưa. Ngày nay khơng có những cánh sen trên cột đá như đã nói đến trong bia văn thời nhà
Lý, nhưng ngơi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn là kiến trúc độc đáo, gợi
hình tượng một bơng sen vươn thẳng lên khu ao hình vng được bao bọc bởi hàng lan can
làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh. Kiến trúc chùa xây dựng gần với kiến
trúc nhà Hậu Lê.
15
Chùa Một Cột được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia đặc biệt
vào năm 1962.
d) Quảng trường Ba Đình và lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Quảng trường Ba Đình là quảng trường lớn nhất Việt Nam, nằm trên đường Hùng
Vương và trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quảng trường là nơi ghi nhận nhiều dấu ấn
quan trọng trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt, vào ngày 2 tháng 9 năm1945, Chủ tịch Chính
phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hịa Hồ Chí Minh đã đọc bản Tun ngơn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quảng trường Ba Đình ngày nay có
khn viên với chiều dài 320m và rộng 100m, có 240 ơ cỏ, xen giữa là lối đi rộng 1,4m.
Giữa quảng trường là cột cờ cao 25m. Đây là nơi diễn ra các cuộc diễu hành nhân dịp các
ngày lễ lớn của Việt Nam, và cũng là một địa điểm tham quan, vui chơi, dạo mát của du
khách và người dân Hà Nội.
Phía đơng Quảng trường là nhà Quốc hội do hai kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện và
Trần Hữu Tiềm thiết kế. Hội trường có sức chưa 1.200 người.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay còn gọi là Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi đặt thi
hài của chủ tịch Hồ Chí Minh. Người là nhà yêu nước lớn, nhà văn hóa thế giới, đã được
UNESCO tặng danh hiệu là Danh nhân văn hóa thế giới và Anh hùng giải phóng dân tộc
nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức
khởi cơng ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi
Người đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn.
Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao
21,6 mét, lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm
phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những
hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có
dịng chữ: "Chủ tịch Hồ Chí Minh" bằng đá hồng màu mận chín. Trong di chúc, Hồ Chí
Minh muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước. Tuy nhiên, Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, với lý do "theo nguyện vọng và
tình cảm của nhân dân", quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này người
dân cả nước, nhất là người dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng Người.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết quả lao động nghệ thuật của các nhà khoa học Việt
Nam và Liên Xô.
Khách đến viếng và thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn có dịp tham quan quần thể
khu di tích: nơi ở và nơi làm việc của Người, Phủ Chủ tịch, nhà sàn, ao cá và vườn cây với
nhiều loại cây quý. Đây cũng là điểm tham quan hấp dẫn nằm liền kề khu vực Quảng trường
và Lăng Chủ tịch.
e) Hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn
Hồ Hồn Kiếm cịn được gọi là Hồ Gươm, là một hồ nước ngọt tự nhiên của thành
phố Hà Nội. Trước kia, hồ cịn có các tên gọi là hồ Lục Thủy (vì nước có màu xanh quanh
năm). Tên gọi Hoàn Kiếm xuất hiện vào đầu thế kỷ XV gắn với truyền thuyết vua Lê Thái
Tổ trả gươm báu cho Rùa thần. Tên hồ được lấy để đặt cho một quận trung tâm của Hà Nội
(quận Hoàn Kiếm) và là hồ nước duy nhất của quận này cho đến ngày nay.
Quá trình hình thành và phát triển của đền Ngọc Sơn qua các thời kỳ lịch sử không đồng
nhất và có sự khác nhau. Thời xưa trên hồ Tả Vọng (Hồn Kiếm) đã có gị đất cao, tương
truyền các tiên nữ thường về đây ca hát. Thời Lý Thái Tổ gò đất được gọi là Ngọc Tượng
Sơn. Thời Trần gọi là Ngọc Sơn, trên Ngọc Sơn có một ngơi chùa, về sau bị hủy hoại. Đến
thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Thụy Khánh và đắp
hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội.
16
Cuối đời nhà Lê, cung Thụy Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Một nhà từ thiện tên là Tín
Trai, nhân nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Ít năm sau chùa lại
nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại
các gian điện chính, các dãy phịng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi
tên là đền Ngọc Sơn.
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền.
Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ
Đơng đi vào gọi là cầu Thê Húc. Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn) cũ, nhà nho Nguyễn Văn
Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lơng, thân tháp có khắc ba chữ "Tả
Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút.
Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá
hình nửa quả đào bổ đơi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một
bài minh nói về cơng dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau
ca ngợi là: "Nhất đài Phương Đình bút". Từ cổng ngồi đi vào có hai bức tường hai bên,
một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những
người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng cơng học hành.
Đền chính gồm hai ngơi nối liền nhau, ngơi đền thứ nhất về phía Bắc thờ Trần Hưng
Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1 m, hai bên có hai cầu
thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút.
Đi từ ngoài vào đền, du khách thấy khá nhiều câu đối có giá trị nói lên ý tưởng của kẻ sĩ
trên đất Thăng Long.
Ngày nay, hồ Hoàn Kiếm đền Ngọc Sơn là điểm tham quan không thể thiếu trong các
chương trình du lịch về Hà Nội. Đặc biệt, nơi đây cịn được du khách quốc tế u thích
tham quan tìm hiểu mỗi khi đặt chân đến Việt Nam.
g) Một số bảo tàng quốc gia ở Hà Nội
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một viện bảo tàng về lĩnh vực dân tộc học của Việt
Nam, trực thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, nằm trên đường Nguyễn Văn Huyên.
Bảo tàng được chính thức thành lập vào năm 1995 và khánh thành vào ngày 12 tháng
11 năm 1997. Cơng trình do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh, người Tày thiết kế. Nội thất được
thiết kế bởi nữ kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp).
Hiện nay, bảo tàng lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật văn hoá của cả 54 dân tộc Việt
Nam gồm 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273băng ghi
âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CD-Rom(tính đến năm 2000).
Các hiện vật này được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như: dân tộc, cơng dụng, y
phục, trang sức, nơng cụ, ngư cụ, vũ khí, đồ gia dụng, nhạc cụ, tơn giáo-tín ngưỡng, cưới
xin, ma chay và nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác.
Khu trưng bày thường xuyên trong toà Trống Đồng giới thiệu tất cả 54 dân tộc ở Việt
Nam. Ở đây có nhiều hiện vật thông dụng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người
dân. Đặc biệt phong phú là đồ vải của các dân tộc, như khố, váy, khăn... được trang trí bằng
các kỹ thuật truyền thống khác nhau; đồ đan, nhất là các loại gùi, giỏ, mâm; những nhạc cụ
bằng tre, vỏ bầu khô; các hiện vật nghi lễ... Cùng với hiện vật, trong các phịng trưng bày
cịn có ảnh và phim tư liệu, phản ánh mọi khía cạnh văn hố vật thể, phi vật thể, những nét
tiêu biểu trong đời sống và sự sáng tạo của các tộc người.
Bảo tàng gồm ba khu trưng bày chính:
17
Khu trưng bày trong tịa Trống Đồng: khơng gian trưng bày thường xuyên giới thiệu 54
dân tộc ở Việt Nam trải rộng trên 2 tầng của tồn nhà; 2 khơng gian giành cho các trưng bày
nhất thời, luôn luôn được đổi mới tuỳ theo chủ đề trưng bày
Khu trưng bày ngồi trời: là một vườn cây xanh trong đó có 10 cơng trình dân gian với
các loại hình kiến trúc khác nhau.
Khu trưng bày Đông Nam Á: Khởi công xây dựng vào năm 2008. Ngoài ra là khu vực
cơ quan: cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản hiện vật...
Điều đặc biệt khi du khách đến tham quan bảo tàng sẽ được chiêm ngưỡng các khu trưng
bày lưu động được tổ chức theo sự kiện, được xem và khám phá không gian múa rối nước
được biểu diễn hàng ngày phục vụ nhu cầu tham quan của du khách.
Bảo tàng Hồ Chí Minh
Bảo tàng Hồ Chí Minh là một bảo tàng lớn nhất của Việt Nam. Bảo tàng tập trung chủ
yếu vào việc trưng bày những hiện vât, tư liệu về cuộc đời và con người Hồ Chí Minh. Bảo
tàng là cơng trình văn hố tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cơng trình Bảo tàng được
khởi cơng xây dựng ngày 31-8-1985 và khánh thành vào đúng ngày 19-5-1990, nhân kỷ
niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác giả thiết kế cơng trình là kiến trúc sư
người Nga nổi tiếng - ơng Garon Isacovich.
Tồ nhà bảo tàng mang biểu tượng bông sen trắng tượng trưng cho cuộc đời giản dị
thanh cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời thể hiện lịng kính trọng, biết ơn sâu sắc của
nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu, quyết tâm đi theo con đường mà Người đã
lựa chọn cho dân tộc Việt Nam.
Gian mở đầu (còn gọi là gian long trọng) trưng bày Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng là
tượng trưng cho nhụy của bông sen trắng. Trung tâm của gian là tượng Chủ tịch Hồ Chí
Minh bằng đồng cao 3.5 m, nặng 2.8 tấn. Phía sau tượng là biểu tượng mặt trời và hình ảnh
cây đa tượng trưng cho ánh sáng và sự trường tồn của dân tộc Việt Nam. Theo quan niệm
“trời trịn, đất vng” của triết học phương Đơng: trần gian mở đầu được trang trí một vịng
trịn bằng đồng đan xen những chùm đèn tết hoa, tượng trưng cho trời. Giữa sàn của gian
này được trang trí hình vng với những bông hoa bằng đá ghép lại, tượng trưng cho trái đất
với hình ảnh đất nước Việt Nam. Hai bên cửa gian long trọng là hai bức phù điêu thể hiện
truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam dựa trên các truyền thuyết: Bọc
trăm trứng, Thánh Gióng, Sự tích Hồ Gươm.
Những biểu tượng nghệ thuật trên đã khái quát chủ đề trưng bày của Bảo tàng: giới thiệu
cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với sự phát triển của dân tộc Việt
Nam và nhân loại.
Trưng bày cố định của Bảo tàng nằm ở tầng 3 với 4000m2. Hai gian triển lãm ở tầng 2
rộng 600m2. Không gian khám phá học đường rộng hơn 150m2.
Kho cơ sở của Bảo tàng có 13 vạn tài liệu, hiện vật; có thư viện chuyên đề sách, báo, tạp
chí…về Chủ tịch Hồ Chí Minh: Kho Tư liệu có hơn 12.000 tài liệu, trong đó có nhiều tư
liệu q. Thư viện hiện có hơn 6.700 đầu sách với khoảng 25.000 nghìn bản và đầu tạp chí,
báo... Tư liệu - Thư viện đã áp dụng công nghệ thông tin để quản lý, phục vụ bạn đọc tra
cứu.
Bảo tàng có các loại hội trường: 350, 250, 60, 50 chỗ ngồi có thể tổ chức các hội nghị,
hội thảo khoa học, chương trình ca múa nhạc, tổ chức sự kiện... Thường xuyên tổ chức, phối
hợp tổ chức và cung cấp các triển lãm chuyên đề về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có Trung tâm
đảm nhiệm việc nghiên cứu thiết kế trưng bày và xây dựng các dự án bảo tồn tơn tạo và phát
huy di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh và các di tích lịch sử văn hố khác.
Trưng bày chính của Bảo tàng Hồ Chí Minh thể hiện 3 nội dung:
18
- Giới thiệu tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh từ tuổi ấu thơ cho đến khi Người qua đời và
nhân dân Việt Nam thực hiện Di chúc của Người.
- Giới thiệu về cuộc sống, chiến đấu và chiến thắng của nhân dân Việt Nam.
- Giới thiệu một số sự kiện lịch sử thế giới (từ cuối thế kỷ 19 và trong thế kỷ 20) có tác
động và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh và cách mạng Việt
Nam.
Ba nội dung trên là một tổng thể không thể tách rời khắc họa huyền thoại Hồ Chí
Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa lớn, như tổ chức UNESCO đã
tôn vinh Người tháng 11 năm 1987, một lãnh tụ, một con người luôn gắn với dân tộc, đất
nước và thời đại.
Bên cạnh các điểm tham quan trên, đến với du lịch Hà Nội, du khách sẽ được tham quan,
tìm hiểu một số các điểm du lịch hấp dẫn khác như: chùa Quán Sứ, chùa Láng, Trấn Vũ
Quán, Nhà thờ lớn, đền Hai Bà Trưng, chợ Đồng Xuân, công viên Thống Nhất, vườn thú
Thủ Lệ….Đây cũng là những điểm tham quan quen thuộc rất hấp dẫn du khách quốc tế.
Ngoài những điểm tham quan có giá trị lịch sử, gắn liền với quá trình phát triển của dân
tộc Việt Nam, đến Hà Nội du khách còn được khám phá các trung tâm thương mại
(Vincom, Royal City, Kangnam, Big C, Parkson,…), các điểm vui chơi giải trí như Thiên
đường Bảo Sơn, Công viên nước Hồ Tây…Các điểm tham quan này cũng là địa điểm lý
thú, rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
2.2.1.3. Các điểm tham quan ngoại thành Hà Nội
a) Làng nghề Bát Tràng
Bát Tràng là một làng nghề ven đô, nằm bên tả ngạn sông Hồng, thuộc thôn Bát Tràng,
xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Làng Bát Tràng có diện tích 153ha, trong đó đất
canh tác là 46ha, đất ở chiếm 53ha, còn lại là đất bãi, ao hồ.
Theo thư tịch cổ và truyền thuyết dân gian thì nghề gốm Bát Tràng xuất hiện vào thế kỷ
XII dưới thời Lý. Vào thời kỳ đó, có ba vị Thái học sinh là Hứa Vinh Kiều (hay Cảo), Đào
Trí Tiến và Lưu Phương Tú (hay Lưu Vĩnh Phong) được cử đi sứ Bắc Tống. Sau khi hoàn
tất sứ mệnh, trên đường trở về nước qua Thiều Châu (Quảng Đơng) gặp bão, phải nghỉ lại.
Ở đây có lị gốm nổi tiếng, ba ông đến thăm và học được một số kỹ thuật đem về truyền bá
cho dân chúng quê hương. Hứa Vĩnh Kiều truyền cho Bát Tràng nước men rạn trắng. Đào
Trí Tiến truyền cho Thổ Hà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) nước men sắc màu vàng đỏ.
Lưu Phương Tú truyền cho Phù Lãng (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) nước men màu
đỏ màu vàng thẫm. Câu chuyện trên cũng được lưu truyền ở Thổ Hà và Phù Lãng với ít
nhiều sai biệt về tình tiết. Nếu đúng vậy, nghề gốm Bát Tràng đã có từ thời nhà Lý, ngang
với thời Bắc Tống nghĩa là trước năm 1127.
Tên Bát Tràng có từ khoảng 5 thế kỷ nay. Trong thế kỷ XV và XVI, dưới thời Lê và
thời Mạc làng gốm Bát Tràng phát triển thịnh vượng. Đặc biệt dưới thời nhà Mạc do chính
sách khuyến thương, sản phẩm gốm ở đây phong phú, đa dạng, đạt nghệ thuật cao, được lưu
hành rộng rãi, đã đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của tầng lớp quý tộc và nhân dân trong nước.
Vào thế kỷ XVII, hoạt động thương mại phát triển cùng với sự xuất hiện của các thương
cảng lớn: phố Hiến ở Đàng Ngoài, phố cổ Hội An ở Đàng Trong. Nhiều thuyền buôn ở châu
Âu và khu vực đã tìm đến bn bán ở nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho làng gốm Bát
Tràng phát triển sôi động, thịnh đạt, có nhiều sản phẩm tham gia vào quá trình thương mại
quốc tế. Trong nhiều bảo tàng và nhiều gia đình trên thế giới vẫn cịn lưu giữ nhiều di vật
gốm cổ Việt Nam trong đó có gốm Bát Tràng.
Từ cuối thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, do Nhật Bản và Trung Quốc bác bỏ chính sách
cấm vượt biển buốn bán với người nước ngoài. Các nước phương Tây với công nghiệp phát
19
triển đã chuyển hướng thị trường và các mặt hàng bn bán. Trong nước, chính quyền Trịnh
– Nguyễn cũng có nhiều chính sách hạn chế ngoại thương, cùng với tình hình kinh tế, chính
trị khơng ổn định đã làm cho việc xuất khẩu gốm Bát Tràng gặp nhiều khó khăn.
Hiện nay, ở Bát Tràng có ba xí nghiệp sản xuất gốm xứ gồm: Xí nghiệp gốm sứ Bát
Tràng được thành lập năm 1958, xí nghiệp X5 và xí nghiệp X54 được thành lập năm 1988;
ba xí hợp tác xã gốm HTX Ánh Hồng, 30-4, Hợp Lực, mỗi HTX có 200 cơng nhân đang
làm việc. Các sản phẩm của các xí nghiệp và HTX có giá trị và chất lượng cao được rất
nhiều du khách trong và ngồi nước u thích.
b) Điểm du lịch Ba Vì – Suối Hai
Nằm cách trung tâm Thủ đơ Hà Nội 60 km về phía tây Bắc, Ba Vì là vùng đất địa linh,
nhân kiệt, một vùng đất tối cổ, có truyền thống văn hố lâu đời, độc đáo, đặc trưng bởi 3
dân tộc Kinh - Mường - Dao với những phong tục, tập quán, nét văn hố riêng biệt. Nhắc tới
Ba Vì có lẽ ấn tượng đầu tiên của du khách sẽ là về một nền văn hoá dân gian vật thể và phi
vật thể độc đáo.
Điểm du lịch Bà Vì – Suối Hai có cảnh rừng núi hung vĩ, hòa quyện các tài nguyên
nhân văn, hồ nước, rừng nhân tạo, đình, chùa tạo nên những cảnh đẹp vừa hữu tình, vừa thơ
mộng.
Đây là điểm du lịch có địa hình cao nhất ở Hà Nội nên có khí hậu mát mẻ, khơng khí
trong lành, nhiệt độ giảm 2-30C hoặc 6-70C so với chân núi nên đây là điều kiện khí hậu
tuyệt vời để phát triển du lịch. Chính vì điều đó nên trong thời kỳ Pháp thuộc đã cho xây
dựng ở khu vực này tới 200 biệt thự và khách sạn để phục vụ cho việc nghỉ ngơi của binh
lính, sĩ quan người Pháp.
Điểm du lịch Bà Vì – Suối Hai có rất nhiều điểm tham quan hấp dẫn như: Ao Vua,
Khoang Xanh - Suối Tiên, Hồ Tiên Sa, Thiên Sơn - Suối Ngà, Khu du lịch Tản Đà, Thác
Đa, Hồ Suối Hai, Hồ Cẩm Quỳ, Rừng nguyên sinh Bằng Tạ - Đầm Long, Đồi cị Ngọc Nhị,
VQG Ba Vì… Nơi đây cịn có nhiều trang trại đồng quê, nhiều sản phẩm nông nghiệp
phong phú. Có nguồn nước khống nóng thiên nhiên tại Thuần Mỹ rất thuận lợi cho phát
triển du lịch nghỉ dưỡng. Với những lợi thế trên Ba Vì thực sự là nơi có tiềm năng để phát
triển nhiều loại hình du lịch nhất là du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng…
Hồ Suối Hai
Cách Hà Nội khoảng 60 km về phía tây, hồ Suối Hai nằm dưới chân núi Ba Vì được tạo
bởi hệ thống đập chính và phụ dài 4 km để giữ nước từ hai suối chính Yên Cư và Cầu Rồng
chảy từ trên núi xuống. Đây cũng là nguồn nước tưới cho trên 7.000 ha, dài 7 km, rộng 4
km, lượng nước chứa trong hồ khoảng 45 triệu m3. Đây là hồ nhân tạo được khởi công xây
dựng năm 1958.
Trong lịng hồ có tới 14 đảo lớn nhỏ, với diện tích khoảng 90 ha. Bạn có thể thăm thú
nơi này bằng thuyền nhỏ du ngoạn trên hồ. Trên các đảo và ven hồ, trồng nhiều cây xanh và
vườn cây ăn trái. Nhiều loại chim đến đây sinh sống như chim le le, vịt trời, ngỗng trời,
mòng két, sâm cầm, giang, sếu... Chúng sinh sống trên mặt nước làm khung cảnh thiên
nhiên thêm phong phú. Ngồi ra, trên hồ cịn có nhiều bãi tắm nhỏ, đẹp rất được du khách
ưa thích. Hồ cũng là nơi cung cấp cá mối có giá trị kinh tế và dinh dưỡng cao cho du khách.
Trang trại đồng quê Ba Vì
Trang trại Đồng Quê Ba Vì cách trung tâm thành phố Hà Nội 65 km, toạ lạc trên một
khu đồi nhỏ xinh xắn, tựa lưng vào dãy núi Ba Vì. Trang trại nằm trong vùng ngoại thành
phía tây thuộc thủ đơ Hà Nội có địa hình thiên nhiên nơng nghiệp rất đẹp và đa dạng (rừng,
hồ, ao, suối, sơng ngịi) tiêu biểu cho một nền văn minh lúa nước vào hàng cổ đại của thế
giới thuộc châu thổ sông Hồng.
20
Từ trang trại nhìn xuống, q khách có thể chiêm ngưỡng những cánh đồng lúa có hình
dạng bậc thang thấp, phía sau là màu xanh ngút ngàn của khu rừng nguyên sinh thuộc dãy
núi Ba Vì với ba đỉnh cao 1100, 1200 và 1300 mét. Đến với Trang trại Đồng Q Ba Vì
ngồi việc nghỉ ngơi, du khách sẽ được tham quan các làng sản xuất nơng nghiệp có truyền
thống lâu đời xung quanh trang trại với các cảnh quan đẹp, được hưởng thụ các đặc sản
thiên nhiên tươi lành trong khung cảnh gia đình ấm cúng.
Cũng như có cơ hội tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch nơng nghiệp mang đậm
dấu ấn văn hố đồng q Việt Nam chủ yếu dựa vào thi ên nhiên như: cấy lúa, bắt cá cua ốc
bằng những dụng cụ làm bằng tre, trồng và hái các loại rau rừng và rau thảo dược, xem cách
làm mật ong, tự hái và sao chè khơ, cho đà điểu, dê, thỏ, bị sữa ăn v.v. Đi thăm những vườn
chè, những cánh đồng ngô bạt ngàn ven các dịng sơng mẹ của miền Bắc Việt Nam hàng
nghìn năm đã bồi đắp nên vùng châu thổ sơng Hồng. Tại trang trại cịn tổ chức những cuộc
giao lưu hát múa với các đội văn nghệ của hai dân tộc thiểu số Mường, Dao sống tại các
làng sát trang trại.
c) Chùa Trăm Gian
Chùa Trăm Gian có tên chữ là chùa Quảng Nghiêm còn gọi là chùa Tiên Lữ, nằm trên
một quả đồi cao khoảng 50 m, ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà
Nội. Chùa được lập từ đời Lý Cao Tông nhà Lý. Đến thời nhà Trần, có hịa thượng Bình
An, q ở Bối Khê tu ở đây, tương truyền là người có nhiều phép lạ. Sau khi ông mất, dân
làng xây tháp để giữ gìn hài cốt và tơn gọi là Đức Thánh Bối. Ngôi chùa lớn với quy mô
như hiện nay là đã được trùng tu và xây dựng thêm qua nhiều thời đại.
Chùa Trăm Gian là một quần thể kiến trúc độc đáo. Theo cách tính cứ 4 góc cột là một
"gian" thì chùa có 104 gian, chia thành 3 cụm kiến trúc chính:
Cụm thứ nhất gồm 4 cột trụ và 2 quán, trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội,
tiếp đó là nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước.
Trèo qua mấy trăm bậc gạch xây là tới cụm thứ hai gồm một tồ gác chng 2 tầng mái,
có lan can chạy quây 4 mặt. Các ván bằng đều có chạm hình mây hoa. Lại leo 9 bậc đá, hai
bên có lan can chạm hình rồng cuộn khúc thế tới cụm thứ 3 đó là chùa chính, gồm nhà bái
đường, toà thiêu hương và thượng điện. Hai bên là 2 dãy hành lang.
Trong cùng là nhà tổ, giữ lại có lầu trống bên trong treo một cỗ trống lớn, đường kính 1
m và một tấm khánh đồng dài 1,20 m, cao 0,60 m đúc năm 1749, Cảnh Hưng thứ 10. Tại
đây có 153 pho tượng, hầu hết bằng gỗ, một số ít bằng đất nung, đặc biệt quý là tượng Tuyết
Sơn, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Ở giữa thượng điện có một bệ bằng đất nung đỏ hình
khối chữ nhật, giống kiểu các bệ đá thời nhà Trần. Trên bệ đá là đài sen, xung quanh trang
trí nhiều hình động vật và hoa lá, bón góc có hình chim thần. Trên bệ đặt các tượng Phậttam
thế. Trong chùa cịn có nhiều bia, hồnh phi, câu đối... Riêng có hai câu đối khảm trai,
tương truyền có từ thời nhà Hồ (1400-1406).
Trong chùa có tượng đơ đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh nhà Tây Sơn, chỉ huy đạo
quân đánh vào phía nam Thăng Long. Tượng này được phát hiện vào năm 1972. Ngồi ra
cịn có tượng Đức Thánh Bối đặt trong khám gỗ gian bên phải. Đây là tượng cốt rút
bằng mây đan ngoài bọc vải sơn, tương truyền là tượng bỏ hài cốt của ông.
2.2.1.4. Nghệ thuật ẩm thực của Hà Nội
Hà Nội là đất kinh kỳ ngàn năm văn hiến, là nơi hội tụ người và vạn vật tạo nên những
nét văn hóa đặc sắc của người Hà Nội. Nét thanh tao của người Hà Nội không chỉ thể hiện ở
trang phục, ứng xử, phong cách sống, làm việc mà còn được thể hiện qua ẩm thực.
Hà Nội là nơi hội tụ của nhiều sản vật ngon, có giá trị và rất nổi tiếng như hồng xiêm
(Xuân Đỉnh), bưởi (Diễn), cam (Canh), dưa (La), húng (Láng)….hay các món ăn truyền
21
thống mà chỉ ăn ở Hà Nội mới cảm nhận hết được “cái ngon” trong từng món ăn như: chả
cá Lã Vọng, cốm Làng Vịng, bánh Tơm Hồ Tây, phở Hà Nội, phở cuốn Ngũ Xá, ô mai
Hàng Đường….
Ẩm thực Hà Nội là nơi giao thoa của nhiều nền ẩm thực khác nhau. Cái tinh tế trong ẩm
thực Hà Nội thể hiện ở cách chế biến, cách thưởng thức và cả ở tấm lịng người trao kẻ
nhận. Mỗi món ăn Hà Nội đều có hương vị, nét đẹp riêng và đặc biệt là có truyền thống
trong cách thưởng thức, đó khơng chỉ là những thức ăn thơng thường mà cịn được nâng lên
thành nghệ thuật ẩm thực. Những món ăn Hà Nội đã làm nao lòng những người con xa quê
và cả những người khách lần đầu đến Hà Nội.
Phở Hà Nội
Phở khơng chỉ là món ăn u thích của người Hà Nội, mà là cịn là món ăn hấp dẫn của
người dân Việt Nam trên mọi miền của tổ quốc. Theo các nhà nghiên cứu, món ăn này có
thể có mặt ở Việt Nam được 100 năm tuổi. Nhưng dựa vào chất liệu các các thưởng thức thì
có lẽ Phở đã có mặt từ lâu đời và trở thành món ăn độc tơn trong văn hóa ẩm thực Việt
Nam.
Theo thống kê chưa đầy đủ thì từ Bắc vào Nam có khoảng 17 món phở vừa bình dân,
vừa sang trọng, được nhiều lưa tuổi yêu thích. Tuy nhiên, phở Hà Nội là được chế biến tinh
tế, thanh tao, trở thành độc đáo. Và Hà Nội cũng được coi là nơi khởi thủy ra món ăn hấp
dẫn, tinh tế này.
Giá trị độc đáo, thanh tao của Phở Hà Nội được thể hiện ở những bí quyết chế biến.
Phở ngon phải có ba thứ: Xương bò, nước mắm và gừng nướng. Phở Hà Nội có cái ngọt
chân chất của xương bị, cái thơm của thịt bị vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà lại không dai.
Màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Chỉ nhìn bát phở thơi cũng đủ thấy cái chất
kỹ càng trong ăn uống của người Hà Nội. Một nhúm bánh phở đã trần qua nước nóng mềm
mại dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt thái mỏng như lụa điểm mấy ngọn hành hoa
xanh nõn, mấy cọng rau thơm xinh xắn, mấy lát gừng màu vàng chanh thái mướt như tơ, lại
thêm mấy lát ớt thái mỏng vừa đỏ sậm vừa màu hoa hiên. Tất cả màu sắc đó như một bức
hoạ dậy lên hương vị, quyện với hơi nước phở bỏng rẫy, bốc lên nghi ngút, đánh thức tất
thảy vị giác, khứu giác của người ăn, khiến ta có cảm giác đang được hưởng cái tinh tế của
đất trời và con người hợp lại.
Bát, đũa, thìa dùng để ăn phở khơng những phải được rửa và tráng nước sơi thật sạch
mà phải có hình thức đẹp, đồng bộ. Phở ăn cùng với gia vị là dấm gạo nếp (ngâm với tỏi,
ớt), chanh tươi, chút hồ tiêu xay nhỏ, rau húng láng thì thật là tuyệt vời.
Bát phở Hà Nội tạo cho người ăn thấy “ăn hương, ăn hoa” ăn rồi vẫn cảm thấy ngót
bụng một chút để muốn được ăn thêm. Do đó, khơng chỉ người dân Việt Nam thích ăn phở
mà cả du khách nước ngồi khi đã đến Việt Nam thì khơng thể khơng thưởng thức món ăn
độc đáo này.
Một số địa chỉ ăn phở quen thuộc hấp dẫn du khách: Phở 24: số 1 Hàng Khay, 3 Thi
Sách, 37 Phan Đình Phùng, 191 Bà Triệu Vincom T5, 45 Huỳnh Thúc Kháng; Phở Vui - 13
Hàng Giầy, Phở Thìn - 8 Lê Trực, Phở Lý Sáng - 2 Hàng Gà, Phở Lân - 20 Ơng Ích Khiêm,
Phở Bát Đàn - 49 Bát Đàn, Phở Thìn - 13 Lị Đúc, Phở Bị Cồ Cử - 4 Thụy Khuê, 33 Lê Đại
Hành, 30 Nguyên Hồng...
Phở cuốn Ngũ Xá
Ngũ Xã là một làng nghề nằm cạnh hồ Trúc Bạch, phía tây Thăng Long, nay là phố Ngũ
Xã, thuộc địa phận quận Ba Đình, Hà Nội. Nổi danh từ xưa với nghề đúc đồng nhưng gần
đây, nghề truyền thống ấy bị thu hẹp, thay vào đó là khu phố mới với nhiều dịch vụ ẩm thực
22
nổi tiếng, đặc biệt là phở cuốn, món ăn thu hút nhiều năm thanh nữ tú cùng thực khách
trong và ngồi nước đến thưởng thức.
Câu chuyện khai sinh ra món phở cuốn nghe ra cũng thật tình cờ. Chuyện kể rằng, có
một quán phở nằm ở ngã tư giữa phố Ngũ Xã và phố Nguyễn Khắc Hiếu của Hà Nội thường
phục vụ món ăn đêm cho những người thức khuya xem bóng đá hoặc giải trí, món quen
thuộc là phở nước. Một đêm, khách đến nhưng nước dùng đã hết, chỉ cịn ít bánh phở. Chiều
khách, chủ qn lấy bánh phở tráng mỏng, để khổ vng cuốn lẫn thịt bị chín với rau thơm
cho khách ăn kèm với nước chấm. Thật bất ngờ, khách ăn rất lạ miệng và tấm tắc khen
ngon. Tuy nhiên, do thịt bị chín vị khơ nên ngấy, về sau chủ quán dùng thịt bò tái lăn. Cửa
hàng chuyển hẳn sang dùng thịt bò tái lăn cuốn bánh phở.
Theo lời kể của các cụ cao tuổi trong làng Ngũ Xã thì trước đây, nhiều gia đình làm
món phở cuốn chỉ để ngồi bán ngồi chợ, rất dân giã và rẻ tiền. Nhiều năm trở lại đây, phở
cuốn bỗng dưng được ưa chuộng như một món ngon đặc trưng của Hà Nội. Đã xuất hiện
những nhà hàng chuyên kinh doanh phở cuốn quy mô hơn và thực khách kéo nhau đến
thưởng thức ngày một đông. Đến nay thì phở cuốn Ngũ Xã đã như một địa chỉ quen thuộc
của khách thập phương và là niềm tự hào của người dân nơi đây.
Ăn phở cuốn chủ yếu để thưởng thức và khám phá một phong vị phở hoàn toàn độc đáo
và mới lạ. Cảm nhận sẽ đặc biệt khi so sánh với món phở nước truyền thống. Cũng bánh
phở, cũng thịt, cũng những rau thơm nhưng phở cuốn ăn khô, không chan nước dùng mà chỉ
chấm bằng nước mắm pha nhạt. Bánh phở để cả tấm, dùng để cuốn thịt và rau chứ không
thái thành sợi nhỏ như phở truyền thống. Chỉ vậy thơi, nghe có vẻ cực kỳ đơn giản nhưng bí
quyết của món ngon này nằm ở khâu ướp thịt và pha nước chấm. Thời gian ướp thịt không
được quá lâu cũng không được nhanh quá, khoảng chừng nửa tiếng là vừa. Còn các gia vị
dùng để ướp thịt là bí quyết riêng của từng nhà hàng để tạo nên một hương vị đặc trưng.
Thứ rau ăn cùng với món phở cuốn là rau xà lách thái khúc, rau mùi, rau húng. Đây là ba
loại rau chính khơng thể thiếu tạo nên hương vị đặc trưng nhớ đời của món phở cuốn.
Hiện nay, làng Ngũ Xã có hơn 10 nhà hàng làm phở cuốn. Xung quanh làng cũng mọc
lên rất nhiều hàng quán có món này. Thực đơn của các quán hiện khá phong phú. Bên cạnh
món phở cuốn và phở chiên phồng cịn có phở xào, phở chiên trứng, mì xào, khoai tây
chiên, phở trộn, chả ngan nướng, ngô chiên. Tuy nhiên, thực khách đến đây dù lần đầu hay
đã thành quen thuộc cũng đều khơng thể thiếu món phở cuốn trên bàn ăn, rồi mới gọi đến
những món ăn khác.
Một số địa chỉ ăn phở cuốn quen thuộc: Phở cuốn Hương Mai: 27 Ngũ Xã; Vinh Phong:
40 Ngũ Xã; phở cuốn Hà Nội: 24 Ngũ Xã; phở cuốn ngon Hà Nội: 25 Ngũ Xã.
Chả cá Lã Vọng
Món chả cá ra đời cách đây khoảng 100 năm, người chế biến ra món ăn này là một gia
đình họ Đồn sinh sống tại 14 Hàng Sơn.
Gia đình họ Đồn thường lấy nhà mình làm nơi cưu mang nghĩa quân Đề Thám. Chủ
nhà hay làm một món chả cá rất ngon đãi khách, lâu dần thành quen, những vị khách ấy đã
giúp gia đình mở một quán chun bán món ăn ấy, vừa để ni sống gia đình, vừa làm nơi
tụ họp. Lâu dần, hai tiếng “Chả Cá” được gọi thành tên phố. Trong nhà hàng luôn bày một
ơng Lã Vọng - Khương Tử Nha ngồi bó gối câu cá - biểu tượng của người tài giỏi nhưng
đang phải đợi thời. Vì thế khách ăn quen gọi là Chả cá Lã Vọng, ngày nay trở thành tên nhà
hàng và cũng là của món ăn. Bí quyết làm chả cá chỉ truyền lại cho người con cả họ Đoàn.
Chả cá làm chả thường là cá lăng tươi. Đây là loại cá ít xương, ngọt thịt và thơm. Đặc
biệt nhất và cũng vô cùng hiếm hoi là chả làm từ cá anh vũ, bắt ở ngã ba Bạch Hạc (Việt
Trì-Phú Thọ). Khơng có cá lăng thì có thể dùng cá nheo, cá quả. Thịt cá được lọc theo kiểu
23
lạng từ hai bên sườn, thái mỏng, ướp với riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm theo một
phương cách bí truyền đặc biệt ít nhất 2 giờ đồng hồ, rồi kẹp vào cặp tre (hoặc vỉ nướng chả
có quết một lớp mỡ cho đỡ dính). Người nướng phải quạt lửa, lật giở đều tay sao cho hai
mặt đều chín vàng như nhau. Chuẩn bị ăn, người ta mới mang những kẹp chả nướng đã chín
trút vào chảo mỡ sơi trên bếp than hoa đặt trên bàn ăn, cùng với rau thì là và hành hoa cắt
khúc.
Chả phải ăn nóng. Khi ăn, gắp từng miếng cá ra bát, rưới nước mỡ (đang sôi) lên trên,
ăn kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng Láng, thì là, hành củ tươi
chẻ nhỏ chấm với mắm tôm.
Cuối năm 2003, hãng tin Mỹ MSNBC đã rút gọn lại và đặt nhà hàng Chả cá Lã Vọng
Hà Nội ở vị trí thứ 5 trong 10 nơi cho rằng thực khách nên biết cùng với 9 địa danh, lễ hội
nổi tiếng khác trên thế giới.
Ngày nay đã có nhiều hàng chả cá được mở tại Hà Nội nhưng căn nhà trên phố Chả Cá
vẫn là cửa hàng chả cá ngon bậc nhất và trở thành thương hiệu nổi tiếng khắp gần xa về
món ăn thơm ngon mang hương vị riêng của người Hà thành xưa.
2.2.1.5. Các tuyến du lịch chủ yếu và mộ số chương trình du lịch của Trung tâm du lịch
Hà Nội
a) Các tuyến du lịch chủ yếu (tuyến tham khảo)
Tuyến nội thành:
- Đền Ngọc Sơn – Phố cổ – Chợ Đồng Xuân – khu Lăng Bác, chùa Một Cột – đền Quán
Thánh – chùa Trấn Quốc – bảo tàng Dân tộc học – Văn miếu Quốc Tử Giám.
- Bảo tàng lịch sử Quân sự quốc gia – khu Lăng Bác – Văn miếu Quốc Tử Giám – bảo
tàng Mỹ Thuật – công viên Thủ Lệ – bảo tàng Dân tộc học.
- Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn – phố Cổ - chợ Đồng Xuân – đền Hai Bà Trưng – công viên
Lê nin.
- Hồ Gươm – Phố cổ – Chợ Đồng Xuân – Triển lãm Giảng Võ – chùa Láng – gị Đống
Đa.
- Hồng thành Thăng Long – Đền Ngọc Sơn, hồ Gươm – Phố cổ - bảo tàng Lịch sử –
Văn miếu Quốc Tử Giám.
Tuyến ngoại thành:
- Hà Nội – Cổ Loa: Tham quan danh thắng, lễ hội
- Hà Nội – Ba Vì – Suối Hai: Tham quan nghỉ dưỡng, danh thắng
- Hà Nội – Sóc Sơn: Tham quan lễ hội, nghỉ ngơi ngắn ngày
- Hà Nội – Bát Tràng: Tham quan làng nghề truyền thống sản xuất gốm sứ
- Hà Nội – Chùa Hương: Tham quan danh thắng, lễ hội
- Hà Nội – Chùa Thầy – Chùa Tây Phương – làng Lụa Vạn Phúc: Tham quan di tích
lịch sử, làng nghề thủ công truyền thống.
- Hà Nội – làng cổ Đường Lâm: Tham quan làng cổ hai vua, các di tích lịch sử
- Tuyến du lịch sơng Hồng
- Tuyến du lịch theo chuyên đề bảo tàng, làng nghề, ẩm thực, chùa, sinh thái của Hà
Nội…..
b) Một số chương trình du lịch chủ yếu, tiêu biểu (chương trình tham khảo)
Chương trình du lịch 1 ngày:
Chương trình: City Tour Hà Nội (1 ngày)
24