Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng ở Công ty Xuất nhập khẩu thiết bị vật tư thông tin Hà Nội (EMI.Co)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.61 KB, 66 trang )

Mục lục
Phần I: Mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài
II. Mục đích của đề tài
Phần II
Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
I. Sơ lược tình hình chăn nuôi Bò sữa ở Việt Nam và trên Thế giới
1.1. Tình hình chăn nuôi Bò sữa trên thế giới
1.2. Tình hình chăn nuôi Bò sữa ở Việt Nam
II. Những đặc điểm chính về cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục Bò cái
2.1. Buồng trứng
2.2. ống dẫn trứng
2.3. Tử cung
2.4. âm đạo
2.5. Các bộ phận khác
III. Đặc điểm sinh lý, sinh sản của Bò cái
3.1. Sự thành thục về tính
3.2. Chu kỳ tính (Chu kỳ động dục)
3.3. Sự điều tiết thần kinh thể dịch đến hoạt động sinh dục của bò cái
3.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của bò cái
IV. Một số bệnh sản khoa thường gặp trên bò sữa tại Trung tâm
4.1. Bệnh trong thời gian gia súc mang thai.
4.2. Bệnh trong thời gian gia súc sinh đẻ
4.3. Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai
V. các hormone sinh sản chính và một số chế phẩm đặt âm đạo.
5.1 Các hormone sinh sản chính
5.1.1.GnRH
5.1.2.Các hormone Gonadotropin
1
5.1.3.Estrogen.
5.1.4.Progesterone


5.1.5.Prostaglandin
5.2. Một số chế phẩm đặt âm đạo.
5.2.1. CIRD
5.2.2. PRID
5.2.3. CUEMATE
Phần III
Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu
I. Đối tượng
II. Nội dung nghiên cứu
2.1. Một số chỉ tiêu về tính năng sinh sản của Bò sữa
2.1.1. Tuổi phối giống lần đầu
2.1.2.Tuổi đẻ lứa đầu
2.1.3.Thời gian động dục lại sau khi đẻ
2.1.4. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ
2.1.5. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai
2.1.6. Sản lượng sữa trên một chu kỳ
2.1.7.Tỷ lệ bê cái trên bê đực
2.2. Một số bệnh sản khoa thường gặp của đàn bò lai hướng sữa nuôi tại
TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì
2.2.1. Bệnh trong giai đoạn mang thai
2.2.2 Bệnh trong quá trình sinh đẻ.
2.2.3. Bệnh trong giai đoạn không mang thai
2.3. Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng sinh sản
2.3.1.Sử dụng một số hormone hướng sinh dục.
2
2.3.1. Thụt rửa cho bò sau khi đẻ bằng dung dịch lugon 0,1-0,2%
III. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu sinh sản
3.2. Phương pháp đánh giá tỷ lệ mắc bệnh sản khoa
3.3.Phương pháp sử dụng một số chế phẩm hormone và dung dịch thụt rửa

IV.Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Phần IV
Kết quả và thảo luận
I. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò
và đồng cỏ Ba Vì
1.1. Cơ cấu đàn bò của TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì năm 2004 - 2005
1.2. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản
II. Kết quả điều tra một số bệnh sản khoa thường gặp trên đàn Bò lai hướng sữa nuôi tại
TTNC Bò và đòng cỏ Ba Vì
III. kết quả sử dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng s inh sản trên
đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì
3.1.Nhận xét chung.
3.2.Kết quả sử dụng pgf
2
α
trên bò chậm động dục do thể vàng tồn lưu bệnh lý
3.3.Kết quả gây động dục của pgf
2
α

hai liều cách nhau 11 ngày trên bò chậm
sinh
3.4.Kết quả sử dụng HCG động dục mà không rụng trứng.
3.5.Kết quả sử dụng dụng cụ đặt âm đạo để điều hoà chu kỳ động dục
5.6.Kết quả sử dụng dung dịch thụt rửa đối với bò sau khi đẻ
3
Phần V
Kết luận, tồn tại và đề nghị
I. Kết luận
1.1. Về khả năng sinh sản

1.2. Về bệnh sinh sản
1.3. Về biện pháp nâng cao khả năng sinh sản
II. Tồn tại
III. Đề nghị
Phần VI
Phụ lục ( ảnh)
Tài liệu tham khảo
Phần I
Mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, với chính sách mở của của Đảng và Nhà nước,
đất nước ta đang trên đà phát triển mạnh, đời sống xã hội ngày càng được nâng
cao, nhu cầu về thực phẩm tăng nhanh, tăng mạnh cả về chất lượng và số lượng
trong đó có nhu cầu về thịt và sữa.
4
Trước thực tế đó và sử dụng lợi thế sẵn có của ngành chăn nuôi, nước ta
là khai thác tối ưu nguồn thức ăn, bãi chăn cũng như nguồn phụ phẩm công -
nông nghiệp. Chúng ta cần phải đẩy mạnh phát triển ngành chăn nuôi đặc biệt là
ngành chăn nuôi bò sữa để đáp ứng nhu cầu trên (đặc biệt là nhu cầu về sữa).
So với một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ thì ngành chăn nuôi bò sữa ở
nước ta là một ngành sản xuất còn non trẻ. Trong những năm gần đây nhà nước
đang khuyến khích và có nhiều chương trình đàu tư cho lĩnh vực này. Vì vậy,
đàn bò sữa đã phát triển khá nhanh ở Hà Tây, Hà Nội, TPHCM, Sơn La, Lâm
Đồng... Năm 1999 nước ta có khoảng 29.000 con, cuối năm 2002 là 54.400con
và đến tháng 9/2003 là 80.000 con bò sữa nhưng cũng chỉ đáp ứng được một
phần nhỏ nhu cầu của người tiêu dùng.
Một phần chưa đáp ứng được nhu cầu đó là do chúng ta chưa phát huy hết
tiềm năng sinh học của chúng.
Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều của nước ta, chưa thích hợp
với giống Bò Hostein Friesion (ôn đới), vì vậy chúng ta chủ ý nuôi con lai

hướng sữa (HF X LS). Nhưng phương thức chăn nuôi thường phân tán ở các
nông hộ và các trại nhỏ với điều kiện nuôi dưỡng khác nhau, do đó thường dẫn
đến các chỉ tiêu sinh sản không ổn định và ở mức cao như: tuổi động dục lần đầu
cao (24-36 tháng), khoảng cách giữa hai lứa đẻ kéo dài (14-18 tháng)... Ngoài ra
tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục cũng như mắc một số bệnh sản khoa lớn (đặc
biệt là hiện tượng chậm sinh).
Trước tình hình đó, đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cấp thiết là phải làm thế
nào để nâng cao khả năng sinh sản của đàn bò cũng như tăng hiệu quả về kinh
tế, phát huy tối đa tiềm năng sinh học của đàn bò sữa, tăng nhanh, tăng mạnh về
cả số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng.
Xuất phát từ những yêu cầu trên và góp phần đánh giá thực trạng đàn bò
lai hướng sữa của Trung tâm NC bò và ĐC Ba Vì nói riêng và nước ta nói chung
để tứ đó đưa ra một số biện pháp nhằm cải thiện khả năng sinh sản của đàn bò
sữa chúng tôi tiến hành đề tài: " Khảo sát một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh
5
sinh sản thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Trung tâm nghiên
cứu bò và đồng cỏ Ba Vì"
II. Mục đích của đề tài
2.1. Đánh giá một số chỉ tiêu sinh sản của đàn Bò lai hướng sữa tại TTNC Bò
và đồng cỏ Ba Vì
2.2.Đánh giá tỷ lệ mắc bệnh sản khoa trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại
TTNC bò và ĐC Ba Vì
2.3. ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản tên
đàn bò lai hướng sữa tại Trung tâm
phần II
Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
I. Sơ lược tình hình chăn nuôi Bò sữa trên thế giới cũng như ở Việt Nam
1.1.Sơ lược tình hình chăn nuôi bò sữa trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới có 1.500 triệu con Bò sữa nhưng được phân bố
không đều giữa các châu lục. Sự phân bố này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và

6
địa lý tự nhiên của mỗi nước và tập trung chủ yếu ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu
úc. Các nước có nền kinh tế kém phát triển ở Châu Phi và Châu á chủ yếu chăn
nuôi bò hướng thịt và cày kéo.
Trong những năm gần đây, một số nước đã chú trọng và có nhiều dự án
để phát triển ngành chăn nuôi bò sữa, đặc biệt một số nước ở Châu á như Trung
Quốc, Triều Tiên, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam. Trong đó, có một số nước
đã thành công với tốc độ này như Trung Quốc, năm 2002 có 5.66 triệu con bò
sữa, tổng sản lượng sữa sản xuất trong nước đạt 11,23 triệu tấn đáp ứng được
70-80% nhu cầu tiêu dùng trong nước. Đài Loan đã tự sản xuất và đáp ứng được
trên 70% nhu cầu về sữa. Thái Lan đã sản xuất được 40% nhu cầu tiêu dùng sữa
trong nước...
Khác với các nước ở Châu Âu là khu vực có ngành chan nuôi bò sữa và
sản xuất sữa lâu đời, các nước Châu á có 2 loại hình sản xuất sữa:
+Loại hình 1: sản xuất sựa chủ yếu dựa trên sông (River Baffalo) và bò U
(Bos Indicus) với yêu cầu đầu tư và kỹ thuật không cao, sữa tiêu thụ rộng rãi ở
nông thôn và thành thị. Nhóm này chủ yếu gồm các nước ở Nam á: ấn Độ,
Pakixtan,Bănglađet, Nepan, Xrilanca, là các nước có nghề sản xuất sữa truyền
thống.
+Loại hình 2 : gồm các nước có nghề sản xuất sữa chưa phải là truyền
thống, chỉ nuôi bò hạn chế ở 1 số vùng với giống bò có nguồn gốc từ Châu Âu
và Bắc Mỹ, đòi hỏi đầu tư và trình độ kỹ thuật cao, lao động lành nghề. Nhóm
nay gồm các nước Thái Lan, Malaixia, Philipin, Inđonexia,Việt Nam ( Nguyễn
Văn Thiện, 2000)[ ].
Một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển ngành chăn nuôi trâu bò
sữa nói chung và bò sữa nói riêng là là khối lượng sữa tính trên đầu người. Đứng
hàng đầu là Tây Tây Lan (1902kg sữa/đầu người). Lượng sữa đạt trên
7
500kg/đầu người là Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, úc, Thuỵ Sĩ, Ba Lan. Từ
300-500kg sữa/đầu người là Nga, Đức, Canada, Nhật, Thuỵ Điển. Các nước

khác như: Trung Quốc, ấn Độ, Mehico, Thổ nhĩ kỳ... chỉ đạt 4-71kg sữa/đầu
người (Giáo trình chăn nuôi Bò sữa).
1.2. Sơ lược tình hình chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam
Với chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta về phát triển ngành
chăn nuôi: " Chăn nuôi phải nhanh chóng trở thành ngành sản xuất chính nhằm
cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng về thịt, trứng và tiến tới cung cấp
sữa".Với mục tiêu đó, năm 1958 nước ta đã nhập bò lang trắng đen Bắc Kinh về
nuôi thử tại Ba Vì (Hà Tây), SaPa(Lào Cai), Đồng Giao(Ninh Bình). Đến năm
1968 đã nhập tiếp bò lang trăng đen Bắc Kinh thích nghi nuôi ở Ba Vì. Nhưng
các đàn bò sữa này phát triển kém, tỷ lệ loại thải cao, năng suất sữa thấp. Sau
đó, đàn bò được chuyển lên Mộc Châu(Sơn la), nơi có điều kiện khí hậu, thời
tiết thích hợp hơn và đã thu được kết quả tốt hơn.
Từ năm 1970-1978 nước ta đã nhập thêm 883 con bò sữa HF từ CuBa về
nuôi thích nghi ở Mộc Châu. Dưới sự hướng dẫn của chuyên gia CuBa và áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mà đàn bò sữa gốc CuBa nuôi ở Mộc Châu
đã đạt tới 3900-4200kg/chu kỳ. Năm 1977, chuyển 255 con từ Mộc Châu vào
Lâm Đồng và một số nơi khác để nhân rộng nhưng do chưa được chú trọng
nhiều nên ngành chăn nuôibò sữa ở nước ta phát triển còn chậm.
Từ năm 1986, do chuyển đổi cơ cấu quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế
thị trường, các nông trường chăn nuôi bò sữa đã gặp rất nhiều khó khăn do đòi
hỏi phải chuyển đổi hình thức, cơ cấu, mục tiêu sản xuất kinh doanh. Vì vậy,
chăn nuôi bò sữa đã mất dần vị trí và giảm số lượng đáng kể. Nhưng từ năm
2001, ngành chăn nuôi bò sữa ở nước ta đã được khôi phục và phát triển với
chính sách đầu tư và khuyến khích của Đảng. Các địa phương đã chú trọng đầu
tư, tăng cường nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật và phát triển đàn bò sữa bằng
8
cách vừa lai tạo vừa nhân dàn bò thuần, đồng thời nhập nội đàn bò thuần và tinh
bò cao sản. Kết quả là đến cuối năm 2003, tổng đàn bò sữa cả nước có khoảng
80.000 con. Dự tính đến năm 2010 tổng đàn bò sữa nước ta khoảng 300.000
con.

II. Những đặc điểm chính về cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục bò cái
Cơ quan sinh dục bò cái gồm những bộ phận chủ yếu sau: Buồng trứng,
ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo, và âm hộ.
2.1. Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của bò gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng gần
mút sừng tử cung, cạnh trước của xương ngồi hay ở phía dưới sừng tử cung.
Buồng trứng thường nằm trong xoang chậu khi chưa sinh sản.
Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng, nhưng phần lớn có hình bầu dục
hoặc hình ô van dẹt, không có lõm rụng.
Buồng trứng bên ngoài là một lớp màng liên kết, bên trong được chia làm
hai miền: miền vỏ và miền tuỷ. Hai miền này được cấu tạo bằng lớp mô liên kết
sợi xốp tạo cho buồng trứng một chất đệm. Trên buồng trứng của bò có từ
70.000-100.000 noãn bào ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Tầng ngoài là
những noãn bào sơ cấp được phân bố tương đối đồng đều. Tầng trong là những
noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng. Noãn bào sơ cấp có trứng ở giữa, xung
quanh là các tế bào noãn. Khi noãn bào chín sẽ được nổi lên trên bề mặt buồng
trứng. Đến một giai đoạn nhất định, noãn bào vỡ ra, tế bào trứng theo dịch noãn
bào đi vào loa kèn và đi vào ống dẫn trứng. Nơi noãn bào sẽ vỡ ra hình thành thể
vàng và thể vàng tồn tại phụ thuộc vào tế bào trứng được thụ tinh hay không thụ
tinh. Nếu tế bào trứng không được thụ tinh thì thể vàng tồn tại không lâu, rồi tan
biến mất. Còn trứng được thụ tinh thì thể vàng tồn tại tới khi sinh đẻ. Thể vàng
tồn tại sẽ tiết ra Progesterone.
9
Buồng trứng ngoài chức năng sinh ra tế bào trứng còn tiết ra dịch nội tiết
(trong đó có hormone Oestrogen)
2.2. ống dẫn trứng (Ovidustus)
ống dẫn trứng của bò nằm trên màng treo ống dẫn trứng, một đầu thông
với xoang bụng gần sát buồng trứng và có hình loa kèn. Đầu kia thông với mút
sừng tử cung.
Có thể chia ống dẫn trứng thành 4 đoạn chức năng: Đoạn tua diềm, phễu,

phồng ống dẫn trứng và đoạn eo của ống dẫn trứng (Nguyễn Tấn Anh,1995).
ống dẫn trứng được cấu tạo bởi 3 lớp:
- Lớp ngoài là lớp sợi liên kết
- Lớp giữa là lớp cơ
- Lớp trong là lớp niêm mạc
Chức năng của ống dẫn trứng là vận chuyển trứng và tinh trùng theo chiều
ngược nhau và đồng thời một lúc. Dịch ống dẫn trứng cung cấp điều kiện thích
hợp cho sự thụ tinh và phân chia của phôi bào gồm chất dinh dưỡng và bảo vệ
cho tinh trùng, noãn bào và hợp tử - phôi sau đó.
Ngoài ra niêm mạc ống dẫn trứng và tử cung còn tiết ra men
hyaluronidaza tham gia vào quá trính thụ tinh (Xukhaep, 1975, V.S.Sipilep,
1976).
2.3. Tử cung (Uteus)
Tử cung của bò hình sừng cừu, nhìn từ ngoài vào trong gồm cổ tử cung,
thân tử cung và sừng tử cung. Đối với bò cái tơ thì toàn bộ tử cung nằm trong
xoang chậu, khi đẻ nhiều lứa thì tử cung nằm trong xoang bụng.
10
a. Cổ tử cung
Là phần cuối cùng của tử cung, cổ tử cung tròn thông với âm đạo và luôn
đóng, chỉ mở khi hưng phấn cao độ, lúc sinh đẻ hay khi bị bệnh lý.
b. Thân tử cung
ở bò thân tử cung ngắn, và được nối giữa sừng tử cung và cổ tử cung
c. Sừng tử cung
Sừng tử cung ở bò gồm 2 sừng : trái và phải, 2 sừng này gắn với thân tử
cung và dính lại với nhau tạo thành một lõm hình lòng máng phía trên của tử
cung gọi là rãnh đầu tử cung.
Tử cung cũng được cấu tạo bởi 3 lớp:
- Lớp ngoài cùng là lớp liên kết sợi mỏng
- Lớp giữa là lớp cơ trơn: đây là lớp cơ khoẻ nhất trong cơ thể, nó giữ vai
trò quan trọng trong việc đẩy thai ra ngoài.

- Lớp cơ trong cùng là lớp niêm mạc: niêm mạc tử cung bò gấp nếp nhiều
lần làm cho tử cung không đồng đều tạo thành những thuỳ, gọi là thuỳ hoa nở.
Tử cung là nơi làm tổ của hợp tử, ở đây hợp tử sau này là thai và phát
triển được là nhờ dưỡng chất từ cơ thể mẹ thông qua lớp nội mạc tử cung cung
cấp. Giai đoạn đầu phần hợp tử sống được một phần dựa vào noãn hoàng, một
phần dựa vào "sữa tử cung" thông qua cơ chế thẩm thấu. Sau này giữa mẹ và
con hình thành hệ thống nhau thai.
Nội mạc tử cung và dịch tử cung giữ một vai trò chủ chốt trong qúa trình
sinh sản như vận chuyển tinh trùng và trứng, tham gia điều hoà chức năng của
thể vàng, đảm nhận sự làm tổ, mang thai và đẻ.
11
2.4. Âm đạo (Vagina)
Âm đạo là cái ống tròn để chứa cơ quan sinh dục khi giao phối, đồng thời
là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ.
Trước âm đạo là tử cung, phía sau là tiền đình có màng trinh (hymen) che
lỗ âm đạo.
Cấu tạo âm đạo cũng được chia làm 3 lớp: tổ chức liên kết ở ngoài, cơ
trơn ở giữa, lớp niêm mạc ở trong.
2.5. Các bộ phận khác
Ngoài các bộ phận trên thì cơ quan sinh dục bò cái còn có : âm môn, âm
vật, âm đạo. Đây là những bộ phận sinh dục bên ngoài, có thể nhìn, sờ và quan
sát được.
iii. Đặc điểm sinh lý, sinh sản của bò cái
3.1. Sự thành thục về tính
Khi cơ quan sinh dục của gia súc cái phát triển đến mức độ hoàn thiện,
buồng trứng có noãn bào chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ thai, tử
cung cũng biến đổi theo và đủ điều kiện cho thai phát triển trong tử cung. Những
dấu hiệu động dục trên xuất hiện với gia súc ở tuổi như vậy gọi là thành thục về
tính. Trong thực tế, sự thành thục về tính thường sớm hơn sự thành thục về thể
vóc. Sự thành thục về tính và thể vóc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống,

dinh dưỡng, ngoại cảnh... Nếu bò lai hướng sữa nuôi dưỡng tốt thì sự thành thục
12
về tính lúc 12 tháng tuổi, còn thể vóc đảm bảo cho cho sự phối giống thì từ 15
tháng tuổi trở lên (Theo Sipilop, 1967) và (TXL,1999). Đối với bò HF nếu cho
ăn đầy đủ, chăm sóc tốt thì có thể thành thục lúc 10-12 tháng tuổi.
3.2. Chu kỳ tính (Chu kỳ động dục)
Khi đã thành thục về tính thì những biểu hiện tính dục của bò được diễn
ra liên tụcvà có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển đến độ
chín nổi cộm lên trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang Graaf vỡ
thì trứng rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần rụng trứng con vật có những biểu
hiện tính dục ra bên ngoài gọi là chu kỳ động dục. Trứng rụng có tính chu kỳ
nên động dục cũng có chu kỳ, 1 chu kỳ động dục của Bò thường là 21 ngày và
dao động 17-24 ngày. Quá trình trứng chín và rụng chịu sự điều hoà chặt chẽ
của hormone. Trên cơ sở đó có nhiều tác giả chia chu kỳ sinh dục ra làm 2 pha:
- Pha Folliculin: gồm toàn bộ biểu hiện trước khi rụng trứng
- Pha Lutein: Gồm những biểu hiện sau khi rụng trứng và hình thành thể
vàng
Trong các chu kỳ động dục của bò có nhiều tác giả đã đề cập đến các đợt
sóng nang (Foliculas Ware).
Sóng nang là sự phát triển đồng loạt của một số bao noãn ở cùng một thời
gian. Các công trình nghiên cứu theo dõi sự phát triển buồng trứng Invivo bằng
phương pháp nội soi và siêu âm được nhiều tác giả công bố. Các tác giả cho
thấy ở bò trong một chu kỳ thường có 2-3 sóng nang phát triển (một số ít có 4
đợt). Đợt 1 bắt đầu diễn ra sau khi rụng trứng, vào ngày thứ 3-9 của chu kỳ. Đợt
2 vào ngày 11-17 và đợt 3 vào ngày 18-20. Mỗi đợt sóng nang có thể huy động
tới 15 nang, kích thước từ 5-7mm. Sau này có một số nang phát triển hơn gọi là
nang trội (nang khống chế), kích thước của nang khống chế ở đợt 1, 2, 3 có thể
13
đạt tới 12-15mm và các kích thước nang tương ứng quan sát thấy vào ngày thứ
6,13,21 (Salin,1987,Monget,Inter-Ag,1994)[]

Đặc điểm quan trọng trong các đợt phát triển nang là sự phát triển có tính
tự điều khiển và cạnh tranh giữa các nang. Mỗi đợt có 1-2 nang trội, vài nang
lớn phát triển và sự phát triển của các nang khác bị kìm hãm. Tuy vậy, khi thể
vàng còn tồn tại thì nang không chế và nang lớn sẽ bị thoái hoá, chỉ có đợt cuối
cùng khi thể vàng không còn thì nang khống chế mới phát triển tới chín và quá
trình rụng trứng mới được xảy ra. Do đặc điểm này các đợt phát triển nang gọi là
sóng phát triển. Trong mỗi đợt sóng như vậy sự tồn tại của các nang không phải
nang khống chế dao động 5-6 ngày (Irelan,1987; Forture và cs, 1988). Riêng
nang khống chế có thể phát triển nhanh sau ngày 18 của chu kỳ, tốc độ phát triển
của nang khống chế ở thời điểm này có thể đạt 1,6mm/ngày(Forture và cs,1998,
Savio và ctv, 1998) (trích Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương, 1997)[]
ở bò chu kì động dục thường kéo dài 21 ngày, thời gian động dục thường
kéo dài 25 - 36 giờ (V.S. Sipilop, 1967), chu kì động dục ở gia súc mang tính
đặc trưng theo loài.
Chu kì động dục của bò dược chia làm 4 giai đoạn :
- Giai đoạn trước động dục
- Giai đoạn động dục
- Giai đoạn sau động dục
- Giai đoạn cân bằng sinh học
14
3.3. Sự điều tiết thần kinh thể dịch đến hoạt động sinh dục
Hoạt động sinh sản chịu sự điều tiết chặt chẽ của hệ thần kinh và thể dịch.
Hệ thần kinh thông qua các cơ quan nhạy cảm là nơi tiếp nhận tất cả các xung
động của ngoại cảnh vào cơ thể, trước tiên là đại não và vỏ não mà mà trực tiếp
là vùng dưới đồi (Hypothalamus) tiết ra các chất kích thích (yếu tố giải phóng)
kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết FSH và LH. Hai hormone này theo mạch
15
máu tác động vào buồng trứng làm nang trứng phát triển đến mức độ chín và tiết
ra oestrogen.
Trong quá trình sinh lý bình thường khi gia súc đến tuổi trưởng thành,

buồng trứng đã có nang phát triển ở các giai đoạn khác nhau, trong cơ thể đã có
sẵn một lượng nhất định về oestrogen. Chính hormone này tác động lên trung
khu vỏ đại não và ảnh hưởng đến vỏ đại não tạo điều kiện cho sự xuất hiện và
lan truyền các xung động thần kinh gây tiết GnRH chu kỳ (Gonadotrapin
Realising Hormone hay là hormone giải phóng FRH và L.R.H)
FRH (Folliculin Realising Hormone)
LRH (Lutein Realising Hormon)
FRH và LRH gọi chung là GnRH
FRH kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết FSH (Folicullin Stimulating
Hormone). Kích tố này kích thích sự phát triển của noãn nang buồng trứng, noãn
nang phát triển trứng chín, lượng oestrogen tiết ra nhiều hơn, Oestrogen tác
động vào các bộ phận sinh dục thứ cấp đồng thời tác động lên trung tâm
Hypothalamus, vỏ đại não gây nên hiện tượng động dục, LRH kích thích thuỳ
trước tuyến yên tiết ra hormone kích thích hoàng tố LH (Lutein hormone). LH
tác động vào buồng trứng làm trứng chín muồi. Kết hợp với FSH làm noãn bào
vỡ ra va gây ra hiện tượng thải trứng, hình thành thể vàng và PRH (Prolactin
Realising Hormone) kích thích thuỳ trước tuyến yên phân tiết LTH (Lutein
tropin hormon), LTH tác động vào buồng trứng duy trì sự tồn tại của thể vàng,
kích thích thể vàng phân tiết Progesterone. Progesterone tác động lên tuyến yên,
ức chế tuyến yên phân tiết FSH và LH làm cho quá trình động dục chấm dứt.
Progesterone tác động vào tử cung làm cho tử cung dày lên tạo cơ sở tốt
cho việc làm tổ hợp tử - phôi lúc ban đầu (tạo sữa tử cung), nên con vật có chửa
thể vàng tồn tại suốt thời gian mang thai, có nghĩa là lượng progesteron được
16
duy trì với nồng độ cao trong máu. Nếu không có chửa thì thể vàng tồn tại đến
ngày thứ 15-17 của chu kỳ sau sau đó teo dần, cũng có nghĩa là hàm lượng
Progesterone giảm dần , giảm đến mức nhất định nào đó rồi nó lại cùng với một
số nhân tố khác kích thích vở đại não, Hypothalamus, tuyến yên, lúc này tuyến
yên ngừng phân tiết LTH, tăng cường phân tiết FSH và LH, chu kỳ sinh dục mới
lại hình thành.

Sự liên hệ giữa Hypothalamus, tuyến yên và tuyến sinh dục để điều hoà
hoạt động sinh dục của gia súc cái không chỉ theo chiều thuận mà còn theo cơ
chế điều hoà ngược. Cơ chế điều hoà ngược đóng vai trò quan trọng trong việc
giữ "cân bằng nội tiết"
Lợi dụng cơ chế điều hoà ngược này người ta sử dụng một lượng
Progesterone hay một lượng hormone khác đưa vào cơ thể để điều khiển chu kỳ
tính hay chu kỳ động dục ở gia súc cái.
Khi đưa một lượng Progesterone vào cơ thể làm cho hàm lượng
Progesterone trong máu tăng lên. Theo cơ chế diều hoà ngược, trung khu diều
khiển sinh dục ở Hypothalamus bị ức chế, kìm hãm sự tiết các kích tố của tuyến
yên, làm cho noãn bao tạm ngừng phát triển, do đó làm cho chu kỳ động dục
tạm thời ngừng lại. Sau khi kết thúc sử dụng Progesterone, hàm lượng này trong
máu sẽ giảm xuống đột ngột,sự kìm hãm dược giải toả, trung khu điều khển sinh
dục được kích thích, kích tố FSH lại được bài tiết đã kích thích sự phát triển của
noãn bao làm cho chu kỳ động dục của gia súc được trở lại hoạt động. Hiệu quả
tác động sẽ cao hơn nếu có sự kết hợp của một số loại hormone khác như
HTNC, Oestrogen, LH ...
Cơ chế điều hoà chu kỳ động dục của bò cái
17
V i nãoỏ đạ
Khí h u, ánh sángậ
Th c n, n c ứ ă ướ
u ngố
Sterol t nhiênự
Gia súc cđự
Progesterol
H khâu nãoạ
(Hypothalamus)
Ph n tr c tuy n yênầ ướ ế
FSH LTH LH

Khí
h uậ
GnRH
Th v ngàể
Tr ng r ngứ ụ
Prostaglandine
T cungử
Noãn b o chínà
PRH
Oestradiol
3.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của bò cái
3.4.1. Nhân tố bên trong: (nhân tố di truyền)
Các tính trạng sinh sản thường có hệ số di truyền (h
2
) rất thấp. ở bò hệ số
di truyền về khoảng cách giữa hai lứa đẻ h
2
= 0,05 - 0,10, khả năng đẻ sinh đôi
h
2
= 0,08 - 0,10 và độ dài sử dụng bò có h
2
= 0,15 - 0,2 (Venge, 1961).
Hầu hết các biến đổi quan trọng quan sát thấy về khả năng sinh sản đều
do ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh. Nhìn chung nhiều công trình nghiên
cứu về gen ảnh hưởng đến sinh sản chưa được đề cập đến nhiều, mặc dù gen ảnh
hưởng đến sinh sản bằng 3 con đường:
- Có thể những gen gây chết, nửa gây chết, làm trứng không thụ tinh rồi
chết.
- Do rối loạn nội tiết di truyền làm ảnh hưởng đến các hormon hướng sinh

dục, từ đó gây ảnh hưởng đến sinh sản.
- Các gen hoạt động cho phối đến sinh sản có những chênh lệch khác
nhau (do tác động của môi trường). Sự chênh lệch cộng gộp đó có thể làm kém
sinh sản hoặc gây chết (Hoàng Kim Giao, 1996)
3.4.2 Nhân tố bên ngoài
*Dinh dưỡng
Đây là yếu tố rất quan trọng, nó ảnh hưởng rất kín đáo,chậm chạp và đa
dạng. ở bò tơ, nếu được nuôi dưỡng tốt thì tốc độ sinh trưởng nhanh, tuổi thành
thục về tính sớm. Năm 1959, Soren Senhansen đã tiến hành thí nghiệm ở bò HF
với mức dinh dưỡng 140% và 60% so với tiêu chuẩn và thu dược kết quả về tuổi
động dục lần đầu tưng ứng là 8,5 và 16,6 tháng. Bò trưởng thành Nếu nuôi với
mức dinh dương thấp thì chức năng sinh sản bị kìm hãm. Còn nếu nuôi với mức
18
dinh dưỡng cao thì có thể dẫn đến sự tích tụ mỡ trong cơ thể, khi đó mỡ sẽ bao
bọc lấy buồng trứng và cố định hormone cũng sẽ dẫn đến sinh sản thấp. Như vậy
cần phải xác định mức dinh dưỡng phù hợp và điều chỉnh sao cho khẩu phần
được cân đối về prôtêin,axit amin, khoáng,đường , vitamin......... cho gia súc
từng giai đoạn cụ thể. Nếu khẩu phần thiếu khoáng đa lượng hay vi lượng cũng
sẽ gây rối loạn sinh sản. Đặc biệt nếu cung cấp cho bò thiếu phốt pho tường
xuyên thì buồng trứng những con này sẽ nhỏ, sau khi đẻ thường chỉ động dục
một lần, nếu không phối kịp thời thì sau cai sữa mới động dục trở lại.
Còn khẩu phần cung cấp thiếu kẽm sẽ dẫn đến thiếu vitamin A. Nếu thiếu
vitamin A khi đó niêm mạc trong cơ thể sẽ khô cứng và sừng hoá , đặc biệt nếu
niêm mạc đường sinh dục bị sừng hoá làm cho hợp tử khó làm tổ, khó bám dính
vào niêm mạc tử cung dễ dẫn đến sảy thai. Do vậy nếu cung cấp một lượng kẽm
đầy đủ và thường xuyên sẽ làm tăng độ mắn đẻ và làm giảm tỷ lệ chết của phôi
(Nguyễn Trọng Tiến, 1991)
Ngoài P,Zn thì các nguyên tố Mg, Cu, Co, Mn, I cũng như Ca, Na ,K và
một số nguyên tố khác cũng ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình sinh sản ở động
vật nói chung và bò sữa nói riêng

Thiếu Mg nội bào làm giảm hoạt tính bắp thịt từ đó làm kéo dài quá trình
sinh đẻ của gia súc làm nhau thai ra chậm sinh ra viêm tử cung từ đó chậm sinh.
Đồng và sắt trong cơ thể nằm ở những liên kết chức năng. Đồng giúp hấp
thu sắt và tổng hợp Hemoglobin tham gia vào chyển huyết sắc tố điều tiết chức
phận da, lông. Những hợp chất của đồng kích thích trung tâm sinh dục bằng
cách thay đổi hoạt lực oxytoxin vào đảm bảo một biểu hiện động dục hoàn
chỉnh.
19
Khi thiếu Mn, sự thành thục về tính ở bò chậm, có những chu kỳ không
rụng trứng. ở động vật có chửa có thể gây chết thai trong bụng, đẻ con chết hoặc
thai sinh ra có sức sống kém (Nguyễn Trọng Tiến, 1991)
* Quản lý, chăm sóc
đây là khâu rất quan trọng trong sinh sản đặc biệt là công tác tổ chức phối
giống, nó ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ thai và đẻ của gia súc cái. Các nhà nghiên cứu
đã chứng minh được rằng: sau khi giao phối hoặc thụ tinh nhân tạo từ 3-4h tinh
trùng trong đường sinh dục của bò cái đã di chuyển đến ống dẫn trứng và giữ
khả năng thụ tinh trong vòng 20-30h (Theo A.A.Xưkhaep,1975[ ])
Còn theo Paplop.V.A(1976) [ ], Sipilop.V.S(1976) [ ] cho rằng thời
gian di chuyển của trứng từ khi rụng đến vị trí thụ tinh trong khoảng vài giờ.
Thời điểm rụng trứng của bò cái nằm trong khoảng 10-15h sau khi kết thúc động
dục. Nên cần chọn thời gian phối phù hợp để đạt tỷ lệ thụ thai cao.
* Thời tiết khí hậu
Thời gian chiếu sáng, nhiệt độ không khí, độ ẩm không khí ... là những
yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến chức năng sinh sản của động vật. Thí nghiệm
thời gian chiếu sáng trong ngày bằng phương pháp nhân tạo có tác dụng kích
thích rõ rệt chức năng sinh sản và làm thay đổi mùa sinh dục ở thú cho lông và
gia cầm đẻ trứng. Sinh sản theo mùa biểu hiện rõ rệt ở động vật hoang dã và một
số loài gia súc như cừu, trâu, ngựa. đó là quãng thời gian trong năm đưa lại
nhiều điều kiện thuận lợi cho đời sống sinh sản. đối với bò, nếu được nuôi
dưỡng phù hợp, đảm bảo thức ăn đủ số lượng, chất lượng thì chu kỳ động dục

xuất hiện bất cứ lúc nào trong năm. Ngoài những yếu tố kể trên, các rối loạn
chức năng sinh sản và bệnh sản khoa của bò cái cũng dẫn đến năng suất sinh sản
thấp.
20
IV. Một số bệnh sản khoa thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa
4.1. Bệnh trong giai đoạn mang thai:
a.Bệnh rặn đẻ quá sớm
Đây là hiện tượng gia súc mẹ xuất hiên những cơn co bóp tử cung, những
cơn dặn đẻ trước thơi gian sinh đẻ bình thường một vài tuần hoặc một vài tháng
b. Bệnh bại liệt trước khi đẻ:
Bại liệt trước khi đẻ là một quá trình bệnh lý xuất hiên ở gia súc còn trong
giai đoạn mang thai, gây nên tình trạng con vật mất khả năng vận động, chỉ nằm
bẹp một chỗ. Bình thường bệnh xuất hiện vào thời gian gia súc có chửa kỳ III ,
đăc biệt là trước khi đẻ vài tuần hoặc trên dưới một tháng
c. Xảy thai :
Đây là quá trình gia súc có thai bị gián đoạn hoặc bị ngắt quãng. Bào thai
bị đẩy ra khỏi cơ thể mẹ khi thai đã chết hay còn sống. Đôi khi gặp trường hợp
bị tiêu biến đi trong tử cung hay bào thai đã chết được giữ lại trong tử cung cơ
thể mẹ.
Hiện tượng xảy thai thường do sức sống của bào thai yếu , quá trình phát
triển của bào thai, nhau thai và các bộ phận khác không bình thường. Mặt khác
có thể do quá trình bênh lý ở cơ quan sinh dục nói riêng và cơ thể nói chung
gây nên hiện tượng xảy thai.
4.2. Bệnh trong thời gian gia súc sinh đẻ
a. Bệnh rặn đẻ quá yếu:
Đây là quá trình bệnh lý xảy ra trong thời gian gia súc sinh đẻ với đặc
điểm là cổ tử cung, cơ thành bụng co bóp quá yếu không đẩy được bào thai ra
21
ngoài. Bệnh được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: cường độ bóp của
tử cung không liên tục hay không co bóp được. Căn cứ vào thời gian của quá

trình sinh đẻ, bệnh có thể xuất hiện ở hai thời kỳ:
- Thời kì thứ nhất (thể nguyên phát): thể này xuất hiện vào thời gian đầu
của quá trình sinh đẻ. Đối với những gia súc đẻ lứa đầu thì đây là hiện tượng
bình thường.
- Thời kì thứ hai (thể thứ phát): ở giai đoạn đầu của quá trình sinh đẻ,
những cơn co bóp thành bụng, của tử cung, sức rặn của cơ thể mẹ nói chung
bình thường nhưng giai đoạn sau những cơn co bóp, sức rặn của mẹ yếu và giảm
dần nên bào thai không được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ.
b - bệnh rặn đẻ quá mạnh
Rặn đẻ quá mạnh là quá trình bệnh lý xuất hiện trong quá trình sinh đẻ với
các đặc điểm tử cung co bóp rất mạnh hoặc tử cung co bóp liên tục.
c - Sát nhau:
Trong quá trình sinh đẻ bình thường, sau khi sổ thai một thời gian nhất
định nhau thai sẽ ra phụ thuộc từng loại gia súc. Đối với bò sữa từ 1 - 4 giờ
(không quá 14 giờ). Quá thời gian trung bình kể trên nhau thai không được đẩy
ra khỏi tử cung thì được gọi là bệnh sát nhau. Căn cứ vào mức độ của bệnh có
thể chia ra 3 thể sau:
- Thể sát nhau hoàn toàn: Toàn bộ hệ thốngnhau thai còn dính với niêm
mạc tử cung ở cả hai sừng tử cung.
- Thể sát nhau không hoàn toàn: Phía sừng tử cung không chứa thai thì
nhau thai con đã tách khỏi niêm mạc tử cung. Sừng tử cung bên có thai thì nhau
thai con còn dính chặt với niêm mạc tử cung mẹ.
22
- Thể sát nhau từng phần: Một phần của màng nhung hay ít núm nhau con
còn dính với niêm mạc tử cung, còn đa phần màng thai đã tách khỏi niêm mạc tử
cung.
d - Đẻ khó.
Trong quá trình sinh đẻ của gia súc, thời gian sổ thai bị kéo dài những bào
thai khôngđược đẩy ra khỏi cơ thể mẹ gọi là hiện tượngđẻ khó. hiện tượng đẻ
khó do rất nhiều nguyên nhân dẫn tới và được biểu hiện dưới nhiều hình thức

khác nhau. Đẻ khó gây nhiều thiệt hại trong chăn nuôi nó không những gây bệnh
cho cơ quan sinh dục, dẫn đến hiện tượng vô sinh mà còn có thể làm cho cả mẹ
và con đều bị chết. Do đó việc đề phòng và can thiệp các trường hợp đẻ khó kịp
thời, đúng kĩ thuật là điều cần thiết.
4.3. Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai
a -Bệnh thường gặp sau khi đẻ.
* Nhiễm trùng sau khi đẻ:
Trong quá trình sinh đẻ, các loại vi khuẩn xâm nhập và phát triển trong
đường sinh dục gây nên các thể viêm khác nhau sau đó gây nên hiện tượng
nhiễm trùng cho cơ thể.
* Viêm âm môn, tiền đình, âm đạo:
Trong quá trình sinh đẻ, niêm mạc âm môn, tiền đình, âm đạo bị xây sát,
tổn thương do bào thai hay do can thiệp các trường hợp đẻ khó từ đó vi khuẩn
xâm nhập và phát triển gây viêm.
*Viêm tử cung
23
Khi gia súc sinh đẻ, nhất là những trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng
tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị sây sát, tổn thương ,vi khuẩn xâm nhập
và phát triển gây viêm nôi mạc tử cung. Mặt khác , một số bệnh truyền nhiễm
như xay thai truyền nhiễm, pho thương hàn, lao.........thường gây ra viêm nội
mac tử cung. Căn cứ vào tính chất , trạng thái của quá trình bệnh lý, viêm nội
mạc tử cung có thể chia ra làm 2 loại:
-Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ
-Viêm nội mạc tử cung có màng giả
-Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả
-Viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ viêm cơ tử cung
*Bại liệt sau khi đẻ.
Là bệnh mà con vật mất khả năng vận động sau thời gian sổ thai
* Liệt nhẹ sau khi đẻ ( bệnh sốt sữa)
Đây là bệnh phát sinh đột ngột, nhanh chóng, rất nguy hiểm cho gia súc.

Đặc điểm của bệnh là gây nên tình trạng con vật mất cảm giác,tê liệt ở các chi,
ruột, họng và gây rrối loạn các phản xạ có và không có điều kiện. Bệnh nay rất
hay gặp ở những bò sữa cao sản.
b - Hiện tượng rối loạn sinh sản ở bò sữa.
Gia súc cái đã đến tuổi sinh sản hoặc sau khi sinh đẻ mà đến thời kì hưng
phấn và động dục lại nhưng không xuất hiện chu kì sinh dục, sinh lý bình
thường hoặc gia súc biểu hiện các trạng thái bệnh lý trong quá trình sinh lý sinh
dục được gọi là hiện tượng rối loạn sinh sản.
24
Hiện tượng này là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ
sinh sản của gia súc nói chung và bò sữa nói riêng đồng thời cũng làm hạn chế
tốc độ gia tăng đàn gia súc và gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiện tượng rối loạn sinh sản nhưng
nói chung người ta thường chia hiện tượng rối loạn sinh sản của trâu bò ra làm
mấy loại như sau:
- Trâu bò chậm sinh: là những trâu bò cái tơ từ 20 - 30 tháng tuổi chưa
động dục, trâu bò sau khi đẻ từ 6 - 8 tháng không động dục và trâu bò phối
giống 2 - 3 chu kì không có thai.
- Trâu bò cái vô sinh tạm thời: là những trâu bò tơ mà trên 30 tháng tuổi
chưa động dục, trâu bò sau khi đẻ mà phối giống trên 4 chu kì không thụ thai.
Sở dĩ gọi là vô sinh tạm thời là vì nếu được tác động bằng những biện pháp kĩ
thuật thì chúng có thể trở lại sinh đẻ bình thường.
- Trâu bò cái vô sinh tuyệt đối (tuyệt sinh): là những trâu bò cái vô sinh
tạm thời, sau khi tác động các biện pháp kĩ thuật mà chúng không trở lại sinh đẻ
bình thường hoặc những trâu bò cái có những khuyết tật bẩm sinh ở cơ quan
sinh dục.
V. các hormone sinh sản chính và một số chế phẩm đặt âm đạo
5.1. Các hormone sinh sản chính
5.1.1.Oestrogen.
Trong buồng trứng hormone được tao ra bởi toàn bộ tế bào trứng và tổ

chức kẽ. ở động vật khi có chửa Oestrogen được tổng hợp bởi ngau thai (E.R.
Bagramiou,1972), ngoài ra hormone này còn được tổng hợp bởi vỏ tuyến
thượng thận với một lượng nhỏ vì thế khi thiếu vẫn thấy sự tiết Oestrogen không
bị ngừng.
25

×