Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Skkn một số biện pháp quản lí xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.25 KB, 25 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG, BỒI DƯỠNG ĐỘI
NGŨ GVCN Ở TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH”

skkn


PHẦN I- ĐẶT VẤN ĐỀ
1/ Lý do chọn đề tài
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là truyền thụ tri thức các bộ mơn khoa học, hình
thành các chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở đó đó để rèn luyện kỹ năng theo mục tiêu
chương trình giáo dục. Cơng tác giáo dục vừa là một khoa học- khoa học giáo dục, vừa
là một nghệ thuật đòi hỏi nhà sư phạm phải thật linh hoạt, phải tuân theo các nguyên lý
giáo dục, cơ sở khoa học tâm lý và khoa học giáo dục. Cùng hướng tới hình thành và
hồn thiện nhân cách HS có rất nhiều phương diện cùng tác động: đó là người thầy, là
mục tiêu nhiệm vụ của các nhà trường, là môi trường giáo dục, các lực lượng trong và
ngồi nhà trường, là nội dung chương trình sách giáo khoa, công tác kiểm tra thi cử...
với một hệ thống các phương pháp và phương tiện tương ứng.. Trong các yếu tố tác
động, yếu tố người thầy đóng vai trò là nhân tố quyết định đến chất lượng nhân cách
HS.
Trong nhà trường, nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục là hoạt động cơ bản. Hai nhiệm
vụ này có những đặc điểm với nội dung và cách thức tác động riêng nhưng giữa chúng
có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, hỗ trợ nhau và khơng có sự tách biệt. Nếu
làm tốt công tác tổ chức lớp học từ khâu xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu, công
tác tổ chức cán bộ, đến sự quan tâm hỗ trợ của phụ huynh để khuyến khích các phong
trào học tập, đảm bảo nền nếp kỷ cương, liên kết các khâu, các yếu tố trong lớp là nền
tảng, là điều kiện để GV làm tốt công tác giảng dạy. Thông qua dạy chữ để dạy cách
làm người. Nói cách khác, công tác tổ chức lớp học tốt sẽ tạo điều kiện, môi trường
đầy đủ để khai thác tối ưu các nhân tố, tạo động lực để HS vươn lên học tập rèn luyện.


Nhà trường bậc trung học phổ thơng có 3 khối lớp là 10,11,12 với một chương trình
học thống nhất cả nước. Mỗi khối được chia thành nhiều lớp và mỗi lớp được bố trí
khơng q 45 HS. HS của mỗi lớp được phân chia theo nhiều tiêu chí, trong đó tiêu chí
về trình độ học tập được đặt lên hàng đầu. Mỗi lớp có nhiều mơn học và mỗi mơn
được bố trí một hoặc một số GV nhất định làm công tác giảng dạy và một GV làm
công tác chủ nhiệm.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, cần thiết phải xây dựng, sắp xếp, chọn lựa đội ngũ
phù hợp, phải coi trọng cả GV giảng dạy và GVCN, tạo sự đồng bộ trong quản lý.
Trong nhà trường,chất lượng chuyên môn được đặt lên hàng đầu, thể hiện rõ năng lực
của GV và mục tiêu giảng dạy, cịn cơng tác quản lý- chủ nhiệm lớp ít thể hiện ra
ngồi bằng các chỉ số. Vì vậy, trong các nhà trường chủ yếu quan tâm đến cơng tác
giảng dạy và ít quan tâm đến cơng tác giáo dục tồn diện, đến đội ngũ GVCN. Cơng
tác chủ nhiệm là một việc khó, bởi cơng việc nhiều, địi hỏi mất nhiều thời gian, cơng
sức, tâm huyết, phải có tầm nhìn và năng lực chuyên môn, hiểu biết khoa học tâm lý
sư phạm và khoa học giáo dục. Do đó, nhiều GV ngại làm chủ nhiệm vì khơng phải cứ
giỏi chun mơn là giỏi chủ nhiệm và ngược lại.

skkn


Quá trình CNH-HĐH đất nước hiện nay,yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực ngày
càng cao, đòi hỏi các nhà trường không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục. Cùng với
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế, xã hội tồn tại đan xen, phức hợp của các yếu tố trái chiều: giữa tốt và xấu, giữa
cống hiến và hưởng thụ, giữa cao cả và thấp hèn, giữa lợi ích và trách nhiệm. Các yếu
tố ấy tác động thường xuyên bằng nhiều con đường vào các gia đình, các nhà trường .
Trên thực tế, có khơng ít các trường hợp HS tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, những
hành vi trái giáo dục và gây nên sự phiền muộn cho các nhà trường, cho phụ huynh
HS.. Do đó, tăng cường cơng tác quản lý, giáo dục HS là yêu cầu tất yếu, đòi hỏi các
nhà trường, các nhà quản lý giáo dục phải có chiến lược và cách thức phù hợp trong

việc xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ GV làm công tác chủ nhiệm lớp.
Trong những năm qua, trường THPT Ba Đình đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội
ngũ GV, nhất là GVCN lớp nhằm tăng cường các biện pháp quản lý và giáo dục toàn
diện HS. Bài học rút ra trong quá trình đổi mới giáo dục, xây dựng nhà trường trở
thành trường chuẩn Quốc gia, đơn vị Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới là xây
dựng vững mạnh, đồng bộ đội ngũ, nhất là đội ngũ GVCN
Xuất phát từ lý do đó, tơi chọn đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo xây dựng, bồi dưỡng
đội ngũ GVCN ở trường THPT Ba Đình” với suy tư góp thêm một giải pháp nhằm góp
phần chấn chỉnh nền nếp và nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức HS trong giai đoạn hiện
nay.
2/ Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng đội ngũ GVCN lớp, nêu lên vị trí vai trị của GVCN
đối với công tác quản lý và giáo dục HS.
- Đề xuất các biện pháp chỉ đạo bồi dưỡng đội ngũ GV nhằm tăng cường nâng cao chất
lượng giáo dục.
- Tìm ra được các giải pháp chỉ đạo bồi dưỡng để nâng cao năng lực quản lý, giáo
dục HS của đội ngũ GVCN.
3- Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài, tôi lựa chọn nhiều phương pháp khác nhau: thống kê, phân tích,
so sánh, rút ra ưu nhược để lựa chọn nội dung và biện pháp.
4- Giới hạn nghiên cứu.
Đội ngũ GVCN lớp ở trường THPT Ba Đình năm học 2011- 2012.
5- Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được triển khai theo 3 chương:

skkn


Chương 1: Cơ sở khoa học của việc quản lý xây dựng,bồi dưỡng đội ngũ GVCN
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện

Chương 2: Thực trạng đội ngũ GVCN ở trường THPT Ba Đình
Chương 3: Một số biện pháp xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ GVCN ở trường THPT
Ba Đình
PHẦN II- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC QUẢN LÝ XÂY DỰNG, BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ GVCN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC TOÀN DIỆN Ở TRƯỜNG THPT
1.1/ Cơ sở lý luận
1.1.1/ Khái niệm quản lý, xây dựng , bồi dưỡng
Theo giáo trình quản lý của Học viện quản lý giáo dục - Bộ GD-ĐT thì:
- “ Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có ý thức, hợp qui luật của chủ
thể quản lý các cấp đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm bảo đảm sự vận hành bình
thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở
rộng hệ thống về mặt số lượng cũng như chất lượng”.
Xây dựng đội ngũ: “Là hệ thống các biện pháp tác động có mục đích của chủ thể
quản lý giáo dục đến đội ngũ GV theo yêu cầu đặt ra nhằm định hướng cho việc quy
hoạch, bồi dưỡng, sắp xếp, sử dụng đội ngũ GV một cách thống nhất, khoa học, hiệu
quả”.
  Bồi dưỡng: “là quá trình cập nhật hóa kiến thức cịn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ túc
nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề nghiệp theo các chuyên đề.
Các hoạt động này nhằm tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội để củng cố và mở
mang một cách có hệ thống những tri thức, kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp sẵn có
để lao động có hiệu quả hơn”.
Như vậy, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ là hệ thống biện pháp thống nhất và có mối
quan hệ mật thiết. Xây dựng đội ngũ để làm tốt công tác bồi dưỡng, sử dụng và ngược lại,
bồi dưỡng, sử dụng để xây dựng đội ngũ một cách hiệu quả.
- Đội ngũ GVCN: Trong nhà trường, đội ngũ GV ở trong tập thể sư phạm. Tập thể
sư phạm trong trường học là tổ chức của tập thể lao động sư phạm, đứng đầu là hiệu


skkn


trưởng. Tập thể sư phạm liên kết các GV, CB, NV thành một cộng đồng giáo dục có tổ
chức, có mục đích thống nhất, có phương thức hoạt động nhằm thực hiện nhiệm vụ
giáo dục của nhà trường.
Đội ngũ GV là lực lượng chủ yếu, quan trọng nhất trong tập thể sư phạm nhà trường
làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục, là nhân tố quyết định chất lượng đào tạo của nhà
trường. Vì vậy cần bồi dưỡng để  phát triển đợi ngũ GV.
Mục tiêu và vai trị của phát triển đội ngũ là nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực
hiện có và nâng cao tính hiệu quả của tổ chức thông qua việc giúp cho người GV hiểu
rõ hơn về công việc, nắm vững hơn về nghề nghiệp của mình và thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình một cách tự giác hơn, với thái độ tốt hơn, cũng như nâng cao khả
năng thích ứng của họ với các công việc trong tương lai.
- Chất lượng giáo dục: “Chất lượng giáo dục là mục tiêu cần đạt được của các cơ sở
giáo dục. Chất lượng giáo dục được hiểu chung nhất là những lợi ích, giá trị mà kết
quả học tập đem lại cho cá nhân và xã hội, trước mắt và lâu dài”.
Chất lượng đó phải đáp ứng được các yêu cầu về mục tiêu của cá nhân và yêu cầu
xã hội đặt ra cho giáo dục...
Luật Giáo dục đã khẳng định “1. Mục tiêu của giáo dục phổ thơng là giúp học sinh
phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát
triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho
học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”.
- Các yếu tố ảnh hưởng chất lượng: Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
yếu tố con người như: đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên, học sinh, phụ
huynh, cấp uỷ chính quyền..; yếu tố nội dung chương trình, sách giáo khoa, vấn đề đánh
giá thi cử; yếu tố cơ sở vật chất trang thiết bị; yếu tố mơi trường giáo dục. Trong đó, yếu tố
con người, nhất là đội ngũ người thầy giữ vị trí chủ đạo và quyết định nhất. Vì vậy, xây

dựng đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đồng đều về chất lượng là yêu
cầu đòi hỏi của các nhà trường. Nhiệm vụ của các nhà quản lý giáo dục là phải xây dựng
và bồi dưỡng đội ngũ GV giỏi về chuyên môn, vững về chính trị tư tưởng, thành thục về
nghiệp vụ, tâm huyết và trách nhiệm với nhà trường là nồng cốt; sắp xếp, bố trí, sử dụng
hợp lý đội ngũ trong giảng dạy và giáo dục- nhất là công tác chủ nhiệm là điều kiện có tính
quyết định.

skkn


1.1.2/ Vai trị, vị trí,chức năng và nhiệm vụ , quyền hạn của GVCN
a/ Vai trị, vị trí
- GVCN lớp được thay mặt Hiệu trưởng quản lý và giúp lớp tổ chức học tập, rèn
luyện đạt mục tiêu đào tạo, GVCN vừa đóng vai trị quản lý hành chính Nhà nước, vừa
đóng vai trị người thầy giáo, đồng thời cịn đóng vai trị người đại diện cho quyền lợi
của tập thể lớp.
Người GVCN lớp học do các vấn đề đã nêu vừa phải có năng lực thủ trưởng, lại vừa
có năng lực thủ lĩnh đối với lớp học.
Năng lực "thủ trưởng" đòi hỏi phải biết ra mệnh lệnh để học sinh chấp hành các
quyết định của nhà trường .
Năng lực "thủ lĩnh" đòi hỏi phải biết "liên nhân cách" các đồng nghiệp, liên nhân
cách HS mà mình phụ trách thành tập thể biết học hỏi, tập thể biết "học thày không tày
học bạn".
Người GVCN trước hết là người GVBM nên phải tinh thơng khoa học bộ mơn mình
phụ trách, song do vai trị "lĩnh xướng" nên phải cố gắng có một nền kiến thức rộng để
phát huy hiệu quả chung trong công tác giảng dạy.
Với tất cả các chức năng cơng việc trên, có thể khẳng định GVCN là một nhà quản
lý, nhà quản lý khơng có dấu đỏ trong nhà trường phổ thơng có sứ mệnh rất thiêng
liêng. Đó là người thắp sáng nhân cách toàn vẹn của thế hệ trẻ.
b/ Chức năng,nhiệm vụ

 - Dựa vào tình hình thực tế, vạch kế hoạch giúp lớp tổ chức thực hiện chương trình
học tập, rèn luyện trong từng tháng, học kỳ và năm học.
- Cùng cán bộ lớp theo dõi, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của lớp chủ nhiệm
theo từng tháng, học kỳ và năm học; đồng thời báo cáo kết quả đó với BGH, PHHS
 - Nắm chắc tư tưởng, tinh thần thái độ và kết quả học tập, rèn luyện của HS ,phối hợp
với gia đình và đồn thể để giúp đỡ, cảm hố HS trong rèn luyện để trở thành người tốt
cho xã hội.
- Ghi nhận xét, xác nhận các vấn đề thuộc về quản lý các hoạt động của lớp .
- Kết thúc thời gian chủ nhiệm lớp phải hồn thành hồ sơ cơng tác chủ nhiệm lớp
cho nhà trường (hoặc người chủ nhiệm mới)
- Có thể nói nhiệm vụ giáo viên chủ nhiệm mang một đặc trưng mà GVBM khơng thể
thay thế được. Vì mỗi GVCN chính là cố vấn của tất cả HS trong lớp. Để làm tốt nhiệm
vụ của mình, GVCN cần huấn luyện, bồi dưỡng khả năng tự quản cho HS để các em có
khả năng tự quản lý và tổ chức mọi hoạt động của lớp

skkn


- Để HS đạt được sự chủ động, tích cực, GVCN phải xây dựng một ban cán sự lớp
đầy nhiệt huyết, tự tin và đoàn kết. Chọn HS nằm trong ban cán sự lớp phải có năng
lực học tập, có uy tín với bạn bè và có khả năng điều khiển điều khiển mọi hoạt động
tập thể lớp. Lúc này, GVCN giữ vai trò quan sát, giúp đỡ, uốn nắn và điều chỉnh các
em, không phải là người trực tiếp tổ chức và điều khiển thay cho HS. GVCNcó kịp
thời giúp các em điều chỉnh quá trình hoạt động thì ban cán sự mới đạt được những kết
quả mong muốn. GVCN phải biết khêu gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc
đề xuất mọi hoạt động phù hợp với yêu cầu chủ đề của từng tháng, từng học kì và cả
năm học. Điều đó khơng có nghĩa GVCN khốn trắng, đứng ngồi mọi hoạt động của
HS mà sẽ tham gia để giúp đỡ các em vào những lúc các em gặp khó khăn khi hoạt
động. Có như vậy GVCN mới đủ sức thuyết phục, thực sự chinh phục được HS để
giáo dục các em và như vậy mới có thể làm tốt nhiệm vụ của mình.

Thực tế cho thấy ở các trường tiên tiến bao giờ Hiệu trưởng cũng xây dựng được đội
ngũ giáo viên chủ nhiệm thạo việc và tận tâm.
 c/ Quyền hạn
  - Được mời dự họp hoặc là thành viên hội đồng giải quyết các vấn đề về HS, của lớp
mình phụ trách.
 - Được liên hệ với GV dạy lớp mình chủ nhiệm để phối hợp giáo dục HS.
 - Được liên hệ với tổ trưởng bộ mơn, các bộ phận có liên quan, Ban Giám hiệu
trường để phản ánh tình hình giảng dạy của GV, tình hình học tập, rèn luyện của HS
và bảo vệ quyền lợi chính đáng của HS lớp mình phụ trách.
 - Được gọi HS cá biệt đến nơi làm việc để giáo dục HS và được mời CMHS đến
trường để phối hợp giáo dục khi cần thiết. 
1.1.3/ Yêu cầu xây dựng và bồi dưỡng
Trong nhà trường phổ thông, giáo viên nào cũng có thể làm được cơng tác chủ nhiệm,
nhưng khơng thể ai cũng trở thành giáo viên chủ nhiệm tốt. Các yêu cầu để đạt giáo viên chủ
nhiệm tốt có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau.
a) Tố chất để làm nên một GVCN lớp tốt:
- Phải có đầy đủ những phẩm chất và năng lực của người GV XHCN Việt Nam theo
quy định của Luật giáo dục và Điều lệ trường phổ thông..
- Có hiểu biết sâu sắc đến HS trong lớp chủ nhiệm, thương u HS và nhiệt tình trong
cơng việc. Có đủ thời gian vật chất để đầu tư cho công việc.
- Biết xây dựng kế hoạch chủ nhiệm và biết chỉ đạo tập thể thực hiện kế hoạch.

skkn


- GVCN cần có một số kỹ năng cần thiết như: Kỹ năng sử dụng các phương pháp
chủ nhiệm; xây dựng kế hoạch chủ nhiệm; cảm hóa HS; truyền đạt, thuyết phục học
sinh; xây dựng tập thể học sinh vững mạnh; kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động; phối
hợp với các lực lượng khác (CMHS, Đoàn, Hội….) trong giáo dục HS;
Vì GVCN là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và người chủ nhiệm giỏi

không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha trong thực tế là bình thường. Tố
chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành động. Đối tượng quản lý
trường học, lớp học là con người phải giáo hố, do đó khơng thể có một chương trình
cài đặt sẵn mà phải lao vào làm. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải
điều chỉnh kế hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây dựng kế hoạch - thực
hiện kế hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở chủ
nhiệm lớp các phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù, trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí
giỏi, có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS. GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn của
học trò.
b). GVCN lớp là tấm gương sáng cho HS noi theo:
Làm chủ nhiệm là một nghệ thuật, đòi hỏi người GV phải là tấm gương sáng về đạo
đức, mẫu mực từ lời ăn tiếng nói, tác phong làm việc cho đến trình độ chun mơn;
quan hệ với học trò như là một người bạn lớn, vừa gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì
trong giáo dục HS theo kiểu mưa dầm thấm lâu; giáo dục đạo đức phải trở thành thói
quen của mình. Có người thì quan niệm rằng, sau cha mẹ, thầy cô là người gần gũi với
HS hơn ai hết nên hiểu các em và nắm rõ hồn cảnh để có định hướng đúng trong dạy
dỗ là then chốt của thành công trong giáo dục.
Trong lớp học, GVCN là người để các em noi theo. Cách hành động, suy nghĩ, cư xử của
GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về quan niệm của HS và phụ huynh về GV.
1.2/ Cơ sở pháp lý
Để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động giảng dạy và giáo dục của nhà trường và
ngành giáo dục, Nhà nước đã ban hành luật giáo dục, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã ban
hành điều lệ trường THPT kèm theo Thông tư số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3
/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Luật giáo dục.
+ Điều 15 chương I nói rõ "Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất
lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện, nêu gương tốt cho
người học. Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo, có chính sách bảo đảm các
điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện nhiệm vụ của
mình…".


skkn


+ Về nhiệm vụ nhà giáo, luật giáo dục yêu cầu nhà giáo phải có nhiều tiêu chuẩn,
trong đó có các tiêu chuẩn "Có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt. Đạt trình độ chuẩn
được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ" ( Điều 70).
+ Điều 72 - Chương IV nêu nhiệm vụ của nhà giáo: "Rèn luyện đạo đức, học tập văn
hoá, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ
để nâng cao chất lượng và hiệu qủa giảng dạy và giáo dục".
- Điều lệ trường THPT:
+ Điều 31- mục 2 quy định:
2. Giáo viên chủ nhiệm, ngoài các nhiệm vụ quy định tại khoản 1 của Điều này,
cịn có những nhiệm vụ sau đây:
a) Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn
cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh;
b) Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng;
c) Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ mơn, Đồn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ
chức xã hội có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng
nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong
cộng đồng phát triển nhà trường;
d) Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị
khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải
kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn
chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh;
đ) Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.
- Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009-2020 của Bộ GD&ĐT nêu:
“Đối với giáo dục trung học: học sinh được trang bị học vấn cơ bản, kỹ năng sống,

những hiểu biết ban đầu về công nghệ và nghề phổ thông, được học một cách liên tục và
hiệu quả chương trình ngoại ngữ mới để đến cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21 có trình
độ ngoại ngữ ngang bằng với các nước trong khu vực”.

skkn


1.3/ Cơ sở thực tiễn
Từ thực tiễn giáo dục ở các nhà trường phổ thơng nói chung và trường THPT Ba Đình
nói riêng cho thấy: đội ngũ nhà giáo giữ vị trí chủ đao và đóng vai trị quyết định đến chất
lượng giáo dục, trong đó đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp giữ vị trí then chốt trong q
trình thực hiện mục tiêu nhiệm vụ giáo dục của nhà trường.
- Việc chọn lựa giáo viên làm công tác giảng dạy đã khó, xây dựng đội ngũ giáo viên
chủ nhiệm có năng lực, thạo việc, tâm huyết và trách nhiệm đối với nhà trường , với phụ
huynh và học sinh lại càng khó hơn. Vì vậy, nhiều giáo viên ngại, thậm chí né tránh làm
chủ nhiệm.
- Thực tế cho thấy, trong các nhà trường , cơ chế đảm bảo cho giáo viên chủ nhiệm và
giải quyết các mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, giữa quyền và nghĩa vụ chưa thật
sự thoả đáng. Các nhà trường chỉ chú trọng đến chất lượng chuyên môn, chất lượng học
sinh giỏi, học sinh thi đỗ vào các trường đại học chứ ít chú trọng đến kỹ năng sống của
học sinh sau khi tốt nghiệp đại học và công tác.
- Trên thực tế, nhiệm vụ của GVCN là rất nhiều, GVCN hết giờ nhưng khơng hết việc.
Ngồi cơng việc quản lý học sinh, GVCN còn phải chuẩn bị một cách thường xuyên các
hoạt động sinh hoạt 15 phút, bsinh hoạt cuối tuần, chào cờ đầu tuần, các tiết hoạt động
GDNGLL và hướng nghiệp. Trong khi đó, thời lượng trừ cho GVCN có 4 tiết/ tuần.
Ở các nhà trường, Hiệu trưởng là người đứng đầu và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về
quản lý và giáo dục học sinh, nhưng Hiệu trưởng không thể làm tất thẩy mọi việc mà trước
hết phải thông qua đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên, nhất là đội ngũ GVCN lớp. Chất
lượng công tác quản lý đến đâu tuỳ thuộc rất lớn vào chất lượng đội ngũ GVCN lớp. Vì
vậy, xây dựng đội ngũ GVCN lớp đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu ( Giữa các tổ chun

mơn, các lứa tuổi, giới tính...)và đồng đều về chất lượng là yêu cầu cơ bản của công tác
quản lý.

skkn


Chương 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ XÂY DỰNG, BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TỒN DIỆN Ở TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH
2.1) Đơi nét về giáo dục Nga Sơn
Nga Sơn là huyện thuần nơng ven biển phía đơng bắc tỉnh Thanh Hố với 27 xã thị trấn,
hơn 15 nghìn dân, trong đó 1/3 theo đạo Thiên chúa. Đây là vùng chiêm trũng, cách biệt
với bên ngoài. Trong những năm qua, nền kinh tế- xã hội của địa phương có bước chuyển
mình, song về cơ bản vẫn là huyện nghèo.
Những khó khăn của kinh tế- xã hội của địa phương đã tác động không nhỏ đến sự phát
triển giáo dục. Nhưng chính bằng sự quyết tâm của cấp uỷ, chính quyền và nhân dân trong
toàn huyện, trên cơ sở phát huy nội lực của ngành giáo dục, chất lượng giáo dục thực sự
bứt phá đi lên. Tuy vậy, so với yêu cầu tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, giáo dục Nga
Sơn vẫn đặt ra những yêu cầu cấp thiết, nhất là công tác quản lý, giáo dục đạo đức học
sinh.
Công tác quản lý và giáo dục học sinh là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã
hội , trong đó nhà trường giữ vị trí trung tâm. Thực hiện Nghị quyết 02 của Huyện uỷ Nga
Sơn về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới trong
việc sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, trong đó nhấn mạnh đến vai trị của giáo
viên chủ nhiệm trong công tác quản lý và giáo dục đạo đức học sinh .2.2) Thực trạng
công tác giáo dục của trường THPT Ba Đình.
Trường THPT Ba Đình thành lập năm 1963, đến nay đã trải qua gần 50 năm xây dựng
và trưởng thành. Nhà trường đã xây dựng được đội ngũ giáo viên vừa “ hồng” và vừa
“chuyên”. Chính điều ấy đã tạo dựng được thương hiệu cho nhà trường là đơn vị Anh hùng

lao động và trường chuẩn Quốc gia.
Được sự quan tâm ủng hộ của các cấp, các ngành, sự nỗ lực phấn đấu vượt khó vươn
lên, nhà trường liên tục đạt được thành tích xuất sắc. Nhà trường nhiều năm được xếp trong
top 10 trường THPT dẫn đầu ngành giáo dục Thanh Hoá về kết quả thi học sinh giỏi, được
Bộ GD-ĐT vinh danh trong top 200 trường THPT chất lượng hàng đầu của cả nước. Hàng
năm, nhà trường có trên 70% học sinh xếp loại khá giỏi về học lực và từ 98% trở lên xếp
loại khá tốt về hạnh kiểm.
Mục tiêu trong 10 năm tới là xây dựng nhà trường thành trường trọng điểm chất lượng
cao theo đề án của Huyện uỷ. Khó khăn lớn nhất hiện nay là sự không đồng đều về chất
lượng của đội ngũ giáo viên và chất lượng học sinh. Thực tế đó đặt ra, muốn nâng cao chất
lượng văn hoá cần thiết phải tăng cường các biện pháp quản lý, giáo dục nền nếp kỷ

skkn


cương, tác phong, hình thành ý thức động cơ học tập đúng đắn cho học sinh. Điều đó đồng
nghĩa với việc phải chọn lựa đội ngũ giáo viên chủ nhiệm tốt, đáp ứng yêu cầu của phụ
huynh và mục tiêu giáo dục của nhà trường .
2.3) Đánh giá đội ngũ GVCN ở trường THPT Ba Đình
2.3.1. Đánh giá chung.
Đội ngũ sư phạm trường THPT Ba Đình hiện nay có 80 cán bộ giáo viên nhân viên
với tuổi đời bình quân là 40.Trong đó có 40% đạt giáo viên giỏi và CSTĐ cấp tỉnh,
hầu hết là giáo viên giỏi và CSTĐ cơ sở. 100% giáo viên đạt trình độ đào tạo chuẩn,
trong đó có 12% đạt trình độ trên chuẩn, 15% đạt trình độ lý luận chính trị từ trung cấp
trở lên. Qua đánh giá thi đua hàng năm, nhà trường có 50% giáo viên chủ nhiệm được
cơng nhận giáo viên chủ nhiệm tiên tiến và giáo viên chủ nhiệm giỏi. So với mặt bằng
chung trong toàn tỉnh bậc THPT, đội ngũ sư phạm nhà trường được đánh giá là khá
đồng đều về chất lượng, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, ln đồn kết
nhất trí.
Tuy vậy, trong những năm gần đây, nhất là trong khoảng 5 năm tới, các thầy cơ giáo

có kinh nghiệm, đã đạt thành tích trong quản lý, giáo dục và có tinh thần trách nhiệm
cao đến tuổi nghỉ chế độ, thế hệ giáo viên trẻ mặc dù được đào tạo cơ bản song thiếu
kinh nghiệm, hạn chế về phương pháp làm việc khoa học. Trong khi đó, chất lượng
tuyển sinh đầu cấp quá thấp và sự tác động đa chiều của xã hội đã làm cho một bộ
phận học sinh sa sút về động cơ và thái độ học tập. Do yêu cầu về nguồn nhân lực xã
hội và áp lực thi cử, hầu hết thời gian của đại đa số học sinh tập trung vào học, ôn thi
vào các trường đại học, cao đẳng. Nhận thức về vai trị vị trí của giáo viên chủ nhiệm
chưa được khẳng định đúng tầm, thậm chí có nơi, có lúc xem giáo viên chủ nhiệm có
cũng được, khơng có cũng chẳng sao. Vì vậy, chất lượng quản lý, giáo dục kỹ năng
sống, giáo dục đạo đức, lý tưởng, nếp sống văn hố ít được quan tâm. Các nhà trường
nếu khơng có sự thay đổi về phương thức quản lý mà trực tiếp là đội ngũ giáo viên chủ
nhiệm thì chất lượng giáo dục tồn diện không đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Thực trạng chung của đội ngũ giáo viên nói chung của ngành giáo dục cũng như đội
ngũ giáo viên của trường THPT Ba Đình ngày càng có xu thế giảm về chất lượng.
Ngun nhân cơ bản là do chất lượng học sinh dự thi vào các ngành sư phạm vừa ít,
vừa yếu; chất lượng đào tạo của các trường Đại học sư phạm, nhất là về nghiệp vụ, kỹ
năng sư phạm không đáp ứng được yêu cầu. Thực tế thu nhập của giáo viên quá bất
cập so với thu nhập của xã hội. Trong khi đó, cơng việc của giáo viên chủ nhiệm quá
nhiều, ngày càng phức tạp nhưng hầu như chưa có chế độ đãi ngộ thoả đáng. GVBM
thực hiện một tiết thao giảng được cơng nhận GV giỏi các cấp thì được quan tâm rất
nhiều đến công tác thi đua khen thưởng, trong khi đó GV làm chủ nhiệm tất bật, suy
tư, bỏ rất nhiều công sức trong 1 năm may ra mới được cơng nhận GVCN giỏi thì ít ai
chú ý, có chăng cũng chỉ ở một thời điểm nào đó. Chính vì điều đó, GVCN hoặc là

skkn


làm khơng hết trách nhiệm, thậm chí thờ ơ với công việc này, hoặc là ngại, né tránh.
Đội ngũ GVCN ở trường THPT Ba Đình khơng tránh khỏi thực trạng này.
2.3.2. Đánh giá các lĩnh vực

a. Về tư tưởng chính trị, đạo đức và ý thức trách nhiệm :
- Hầu hết GVCN có lập trường chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, yêu
ngành yêu nghề, ý thức trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ được giao, là tấm gương
sáng cho HS noi theo. Được Hiệu trưởng giao lớp chủ nhiệm, bản thân mỗi người luôn
cố gắng học hỏi, sát sao tình hình HS để phối hợp các lực lượng tìm mọi cách làm hay,
biện pháp tốt để xây dựng tập thể lớp vững mạnh
- Quan điểm giáo dục tồn diện chưa được chú trọng đúng mức, cơng tác đánh giá
HS cịn có sự lệch pha giữa các GV với nhau và trong những khoảng thời gian khác
nhau. Bản thân mỗi GV không đủ thời gian vật chất, kỹ năng trong cơng tác chủ
nhiệm chưa thành thục, thiếu tính chủ động trong cơng tác quản lý. Vì vậy, khơng nắm
bắt được diễn biến tư tưởng hành vi của HS.
b. Về lòng nhân ái sư phạm.
Để trở thành GVCN tốt, ngồi năng lực chun mơn, GVCN cần phải có niềm tin, là
chỗ dựa tinh thần của các em, gần gũi, chia sẻ, động viên, khích lệ HS phấn đấu vươn
lên. Thành công của công tác chủ nhiệm không những biểu hiện ở nền nếp kỷ cương,
sự đoàn kết trong tập thể lớp mà cịn thể hiện ở mơi trường tập thể tin cậy, hợp tác, tơn
trọng lẫn nhau. Ở đó, các em được phát triển toàn diện nhân cách, được khuyến khích
các năng lực sáng tạo, được thể hiện và rèn cái “ tôi” theo hệ giá trị chuẩn mực của
cộng đồng.
Ở lứa tuổi HS đang tập làm người lớn, có những biểu hiện khơng đúng theo u cầu
đặt ra- đó cũng là lẽ tự nhiên. Nhiệm vụ của người GVCN phải luôn là người bạn đồng
hành, luôn luôn lắng nghe, thấu hiểu, là chỗ dựa tin cậy với tấm lòng bao dung, độ
lượng, vị tha để các em bọc bạch tâm tư tình cảm, những sắc thái trái chiều. Trên cơ sở
đó, GVCN định hướng cho các em giá trị sống, rèn luyện kỹ năng và kiểm soát được
hành vi.
Thực tế, đội ngũ GVCN của nhà trường đã đáp ứng được các yêu cầu cơ bản. Trong
những chừng mực nhất định, GVCN chưa quán xuyến, kiểm soát hết được hành vi của
các em, chưa có những tác động đúng tâm lý, thậm chí có những lúc tỏ ra thờ ơ, vơ
tình. Trước những sai lầm của các em, các thầy cơ đề nghị các hình thức kỷ luật cao
như đưa các em ra khỏi lớp coi như hết trách nhiệm mà khơng chú ý đến hồn cảnh

riêng tư, đến đặc điểm tâm lý lứa tuổi.

skkn


c. Về năng lực chủ nhiệm.
Năng lực chủ nhiệm của GV có thể được thể hiện ở 10 lĩnh vực. Đây là điểm cốt
yếu của người làm công tác quản lý HS. Đó là khả năng nắm vững mục tiêu, kế hoạch,
khoa học tâm lý, khoa học giáo dục và vận dụng vào từng đối tượng HS cụ thể. Đó là:
1.Kỹ năng tìm hiểu đối tượng HS
2.Kỹ năng xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp
 
3.Kỹ năng quản lí tồn diện hoạt động của HS trong một lớp
 
4.Kỹ năng giáo dục toàn diện HS và giáo dục HS cá biệt
  5.Kỹ năng phối hợp với các lực lượng giáo dục khác
6.Kỹ năng  đánh giá kết quả giáo dục
 7.Kỹ năng xây dựng dư luận tập thể lành mạnh
 8.Kỹ năng xây dựng, bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ lớp
 9.Kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục (tổ chức giờ sinh hoạt lớp, tổ chức hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ đề, hoạt động hướng nghiệp, hoạt động lao
động)
 10.Kỹ năng làm việc với hồ sơ chủ nhiệm.
Trong những năm qua, nhà trường đã tập trung bồi dưỡng hệ thống kỹ năng này
và đã đạt được những thành công nhất định. Chất lượng các tập thể lớp và đạo đức HS
có chuyển biến tích cực.HS khơng chỉ học giỏi mà cịn chăm ngoan, có động cơ và ý
thức học tập đúng đắn, có kỹ năng ứng xử đúng mực và linh hoạt trong cuộc sống. Tuy
vậy, việc hình thành và thực hiện kỹ năng của GVCN chưa đều, có những mặt mang
tính ứng phó, chủ yếu là thủ tục mà chưa chú trọng đến chất lượng và hiệu quả công
việc.

. d) Năng lực làm công tác xã hội hoá giáo dục.
Lớp học là hình ảnh thu nhỏ của nhà trường, GVCN vừa là “thủ trưởng”, vừa là “thủ
lĩnh” lớp học. Cùng tác động quản lý, giáo dục HS có nhiều lực lượng như GVBM,
các tổ chức, ban đại diện cha mẹ HS...thì GVCN đóng vai trị trung tâm phối hợp huy
động lực lượng tham gia động viên khuyến khích phong trào học tập và tham gia quản
lý giáo dục HS của phụ huynh lớp, của Ban đại diện CMHS của trường, các đơn vị
đóng trên địa bàn,tham gia họp với phụ huynh.
Đa số giáo viên nắm vững nội dung công tác này, song khi thực hiện lại rất thụ động.
Nhiều người xem đó là việc của nhà trường, của các cấp lãnh đạo. Trong các buổi sinh
hoạt lớp, họp phụ huynh, GV chuẩn bị chưa kỹ càng nên rơi vào diễn giải, thuyết trình
vu vơ, hời hợt, chiếu lệ. Về phía quản lý, Ban giám hiệu cũng chưa có kế hoạch, chỉ
đạo sát sao, chưa triển khai cụ thể đầy đủ.

skkn


h) Về học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ, tạo cơ hội phát triển
Để đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất lượng, bên cạnh công tác bồi dưỡng của
nhà trường, mỗi CB,GV không ngừng tự học, tự bồi dưỡng bằng nhiều cách khác nhau
nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực giảng dạy, năng lực quản lý nhà trường
và tư tưởng tình cảm đúng mực. Số GV giỏi và CSTĐ không ngừng tăng lên, ý thức
thái độ và trách nhiệm đối với công việc ngày càng cao.
Do thiếu thời gian vật chất, áp lực chuyên môn nặng nề, việc tự học, tự bồi dưỡng
của GV không đồng đều giữa các tổ nhóm chun mơn. Chất lượng cơng tác, hồ sơ và
các hoạt động nhiều khi mang tính hình thức.
2.4. Một số vấn đề đặt ra trong việc quản lý xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ GVCN
ở trường THPT Ba Đình
Từ thực tiễn cơng tác xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ GVCN ở trường THPT Ba Đình
đặt ra:
- Phải nhận thức đầy đủ vai trị, vị trí của đội ngũ GVCN trong công tác quản lý và

giáo dục HS. Nhà trường là cơ thể thống nhất hữu cơ của các yếu tố. Lớp học là mắt
xích quan trọng và GVCN là “thủ trưởng” của mắt xích ấy. Chất lượng giáo dục không
thể chỉ chú trọng đến việc thi đỗ tốt nghiệp, đại học mà phải là sự phát triển tồn diện
về nhân cách. Giáo dục khơng cho phép có phế phẩm trong sản phẩm đào tạo của
mình.
- Nhiệm vụ của công tác quản lý ở trường THPT Ba Đình hiện nay là phải chú trọng
đến tất cả các khâu, các yếu tố của quá trình giáo dục, nhưng trong đó nền tảng phải
chú trọng đến đội ngũ GVCN.
- Yêu cầu của quá trình xây dựng , bồi dưỡng phải thường xuyên, liên tục, đảm bảo
tính kế thừa và phát triển. Đảm bảo đội ngũ chủ nhiệm vừa phải tinh thơng bộ mơn
khoa học mình giảng dạy, vừa phải nghệ thuật trong quản lý, lại vừa phải tâm huyết,
trách nhiệm trước HS.

skkn


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THPT BA ĐÌNH

3.1) Quy hoạch đội ngũ GV
- Căn cứ xây dựng kế hoạch :
Nhằm phát triển lâu dài, nhiệm vụ phải quy hoạch đội ngũ GV. Căn cứ nhiệm vụ tổ
nhóm chuyên môn đảm nhiệm và các nhiệm vụ khác , trên cơ sở năng lực, sở trường và
điều kiện của mỗi GV để định hướng bố trí nhiệm vụ cho mỗi người trong một khoảng thời
gian nhất định. Mỗi người có thể được quy hoạch ở nhiều chức danh và mỗi chức danh quy
hoạch cho nhiều người, sao cho phát huy được sở trường, năng lực cá nhân. Trên cơ sở quy
hoạch chung để làm quy hoạch bố trí GVCN.
- Yêu cầu: Yêu cầu của việc quy hoạch phải đảm bảo công bằng về lao động theo Luật
Lao động và các văn bản quy định. Người làm công tác chủ nhiệm phải đảm bảo ổn định
trong 3 năm học - tức là hồn thành một khố chủ nhiệm từ lớp 10 đến lớp 12. Tuỳ theo

từng khối chủ nhiệm, đặc điểm từng lớp HS để bố trí GV đảm bảo đồng bộ ở các tổ nhóm
chun mơn. Việc quy hoạch này phải tiến hành dân chủ, công khai, minh bạch. Phải tiến
hành từ các tổ chuyên môn, các khối chủ nhiệm và phối hợp để cân đối chung trong phạm
vi toàn trường. Cấp uỷ, Ban giám Hiệu, lãnh đạo nhà trường xem xét cụ thể và quyết định
công khai các phương án quy hoạch, làm cho mỗi tổ nhóm chun mơn, các tổ chức và
mỗi CB,GV thấy rõ nhiệm vụ của mình phải đảm nhiệm hiện tại và trong tương lai. Trên
cơ sở đó, CB,GV định hình được những biện pháp cần thực hiện để đáp ứng yêu cầu thực
tiễn đặt ra.
Việc quy hoạch cũng phải đảm bảo đồng bộ về cơ cấu giữa các tổ nhóm, về lứa tuổi, giới
tính. Muốn quy hoạch tốt cần phải đánh giá đúng thực trạng đội ngũ, về năng lực sở trường,
về ý thức thái độ, về điều kiện. Từng học kỳ và năm học, phải có đánh giá về các mức độ hồn
thành nhiệm vụ của mỗi người. Quy hoạch để nhằm bồi dưỡng và sử dụng, nếu đánh giá đúng
mặt mạnh, mặt yếu của mỗi người thì sẽ có cách thức để bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả,
phát huy sở trường và khắc phục sở đoản.
Trong 3 năm qua, nhà trường đã quy hoạch được đội ngũ giáo viên hiện có, trong đó có
50/75 đồng chí giáo viên được quy hoạch làm chủ nhiệm ở hầu hết các tổ nhóm chun
mơn, trong đó có 45 đảng viên, có 30% trên 50 tuổi và 30% dưới 35 tuổi; có 28 nữ và 22
nam.

skkn


3.2) Lựa chọn đội ngũ GVCN vào đầu mỗi năm học.
- Rà sốt đội ngũ hiện có trong năm học, dự kiến lao động cho mỗi thành viên:
Đầu mỗi năm học, trên cơ sở tình hình thực tế, Ban giám Hiệu, các tổ nhóm chun mơn
căn cứ quy hoạch để lựa chọn đội ngũ GVCN. Việc lựa chọn đảm bảo tính khách quan, phù
hợp năng lực sở trường, điều kiện và xu thế phát triển của mỗi người, tránh việc lắp ghép
chủ nhiệm cho đủ số lượng. Trên cơ sở đó, Hiệu trưởng ra Quyết định phân cơng, giao
nhiệm vụ cho GVCN, thành lập khối chủ nhiệm và bổ nhiệm khối trưởng, khối phó. Đây là
cơ sở pháp lý trong cơng tác quản lý để các tổ nhóm, các khối, các tổ chức chủ động trong

triển khai và phối hợp thực hiện nhiệm vụ.
- Tổ chức hội nghị công tác chủ nhiệm đầu năm :
Sau khi ổn định năm học, tổ chức hội nghị khối chủ nhiệm, rút kinh nghiệm công tác
năm trước, triển khai nhiệm vụ năm học mới, triển khai các SKKN được xếp loại cấp tỉnh
về công tác chủ nhiệm, triển khai các văn bản quy định. Hội nghị bàn bạc, thống nhất kế
hoạch, biện pháp quản lý, giáo dục HS, thống nhất các tiêu chí đánh giá thi đua, xếp loại
HS và các lớp, xếp loại GVCN, phát động các phong trào thi đua và ký cam kết thi đua
giữa các khối và các lớp.
Căn cứ kế hoạch chung, GVCN xây dựng kế hoạch chủ nhiệm cho lớp và kế hoạch 3 năm học
đối với khối 10, điều chỉnh kế hoạch đối với khối 11,12 và hồn thiện các hồ sơ, kiện tồn cơng
tác tổ chức lớp học, kiện toàn Ban đại diện cha mẹ HS của lớp, xây dựng nội quy. Sau khai
giảng năm học, Ban giám hiệu kiểm tra và duyệt hồ sơ của các lớp.
3.3) Bồi dưỡng đội ngũ
3.3.3) Nội dung bồi dưỡng
* Bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức và ý thức trách nhiệm
GVCN như người mẹ hiền thứ 2 của HS, để lại dấu ấn sâu sắc trong nhân cách của các
em. Vì vậy, để giáo dục tồn diện các em, mỗi thầy cơ giáo cũng phải tồn diện, phải là
tấm gương sáng cho HS noi theo.
Quan điểm giáo dục của GVCN phải thống nhất quan điểm giáo dục của nhà trường và
phù hợp quan điểm giáo dục của Đảng. Dạy chữ gắn với dạy người, dạy nghề, rèn luyện
kỹ năng sống cho HS với thái độ tích cực, ý thức trách nhiệm trước cộng đồng. Để làm
được điều đó, nhà trường đã thường xuyên quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách,
Nghị quyết của Đảng các cấp; Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về thực hiện cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phong trào “xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực”, cuộc vận động “Mỗi thầy cơ giáo là tấm gương đạo
đức, tự học và sáng tạo”... đến đội ngũ GV thông qua sinh hoạt cơ quan, quan sinh hoạt tổ
nhóm, khối chủ nhiệm, các tổ chức đồn thể, sinh hoạt chuyên đề. Định kỳ hàng tháng và

skkn



học kỳ, khối chủ nhiệm họp để đánh giá kết quả quản lý và chất lượng của các lớp. Thông
qua đó để điều chỉnh và tăng cường ý thức trách nhiệm đối với GVCNcủa các lớp.
- Bồi dưỡng nghiệp vụ:
+ Nắm tình hình đặc điểm HS: Để làm tốt cơng tác chủ nhiệm, GVCN phải tìm
hiểu, nắm vững đặ điểm tình hình của lớp: số HS nam, nữ, dân tộc, tơn giáo, hồn cảnh gia
đình, năng lực học tập và hạnh kiểm, tâm lý của từng đối tượng. Thường xuyên theo dõi
diễn biến tâm lý, tư tưởng tình cảm, kết quả phấn đấu học tập rèn luyện của các em. Tất cả
thông tin về HS được cập nhật hàng ngày, tổng hợp hàng tuần và tháng, định kỳ báo cáo
những vấn đề đột xuất cho Ban giám hiệu
+ Lập kế hoạch: Kế hoạch chủ nhiệm là chương trình hành động trong tương lai
của lớp chủ nhiệm, nhằm xác định một cách chính xác lớp học của chúng ta muốn đi đến
đâu và cần phải làm gì, làm như thế nào để đạt được điều đó.
Kế hoạch chủ nhiệm được xây dựng cho 3 năm học (gọi là kế hoạch chiến lược) và
xây dựng cho 1 năm học (gọi là kế hoạch năm học). Trong kế hoạch năm học có kế
hoạch công tác cho từng tháng, từng tuần gọi chung là Kế hoạch tháng, Kế hoạch tuần.
Trong quá trình điều hành hoạt động lớp học, GVCN phải hướng tới đạt những mục
tiêu nhất định nên cịn có kế hoạch mục tiêu hoặc kế hoạch chun mơn của lớp chủ
nhiệm.
Trong q trình lập kế hoạch, các câu hỏi cơ bản sau sẽ được trả lời:Lớp chúng ta
đang ở đâu?Lớp chúng ta sẽ đi tới đâu?Lớp chúng ta sẽ làm gì? làm như thế nào? bằng
phương tiện nào để tới được đó?Làm thế nào để biết lớp chúng ta đi đúng hướng và tới
đích?
Kế hoạch cơng tác tháng cần xác định:Nguồn thơng tin lập kế hoạch tháng bao gồm:
Các công việc trong kế hoạch năm; Các cơng việc tháng trước cịn tồn lại; Các công
việc mới phát sinh do trường giao thêm cho lớp, cho Chi đồn.
Nội dung kế hoạch tháng: Các cơng việc quan trọng trong tháng; Phần các công việc
cụ thể gồm: nội dung công việc, thời gian thực hiện, người thực hiện; Các công việc
chưa xác định được lịch cụ thể (nhưng phải làm trong tháng hoặc làm trong tháng sau)
Kế hoạch công tác tuần cần xác định: Nguồn thông tin để lập kế hoạch tuần: Các công

việc trong kế hoạch tháng; Các công việc trong tuần trước chưa thực hiện xong; Các công
việc mới phát sinh do Trường giao thêm cho Lớp, cho Chi đoàn.
Nội dung kế hoạch tuần: Các công việc quan trọng trong tuần Phần các công việc cụ
thể gồm: nội dung công việc, thời gian thực hiện, người thực hiện, ghi chú (yêu cầu
kết quả); Các công việc chưa xác định được lịch (nhưng phải làm trong tuần hoặc làm
trong tuần sau).

skkn


+ Thiết lập ban cán bộ lớp: Ban cán bộ lớp là xương sống của lớp. Ban cán bộ lớp
gồm lớp trưởng, các lớp phó, tổ trưởng, các tổ phó, cán sự bộ mơn, BCH chi đồn, chi hội.
Nhiệm vụ của GVCN là nghiên cứu kỹ HS trong lớp và định hướng cho lớp bầu dân chủ,
công khai cán bộ của mình trong từng học kỳ và năm học. GVCN phải thường xuyên bồi
dưỡng năng lực cán bộ cho đội ngũ quản lý của lớp để chuyển từ vai trò quản lý sang tự
quản lý, xây dựng phong trào tự quản tốt. Ở cấp độ chung, nhà trường tổ chức gặp gỡ, tập
huấn các kỹ năng cơ bản cho Lớp trưởng và Bí thư chi đồn của các lớp.
+ Bầu Ban đại diện CMHS: Cũng như Ban cán sự lớp, Ban đại diện CMHS là
người đại diện quyền lợi và trách nhiệm của phụ huynh của lớp, trực tiếp làm việc với lớp
và phối hợp với nhà trường và Ban đại diện CMHS của trường để giải quyết các vấn đề
thường ngày. Ban đại diện CMHS năng động, sáng tạo và trách nhiệm sẽ trợ giúp rất nhiều
cho GVCN. Vì vậy, GVCN phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ để có đủ thông tin nhằm tư vấn
cho hội nghị phụ huynh chọn lựa những phụ huynh có điều kiện, đủ năng lực, tâm huyết,
am hiểu về giáo dục tham gia Ban đại diện, đồng thời cũng phải tạo cơ chế phối hợp đồng
bộ, ăn ý giữa GVCN với Ban đại diện và giữa Ban đại diện với toàn thể phụ huynh của lớp.
+ Xây dựng nội quy: Nội quy là những quy định do tập thể lớp định ra theo mục
đích nhất định nhằm quy định quyền lợi và trách nhiệm của mỗi thành viên. Nội quy lớp
căn cứ theo nội quy nhà trường và đặc điểm, yêu cầu ,mục tiêu của lớp cần đạt được trong
năm học và khoá học. Nội quy được xây dựng một cách dân chủ, công khai, được đa số thành
viên trong tập thể nhất trí và được phụ huynh của lớp tán thành. Nhà trường hướng dẫn

GVCN cách thức, nội dung xây dựng. Nội quy lớp học có thể thay đổi, điều chỉnh theo từng
học kỳ, năm học cho phù hợp yêu cầu chung.
+ Kiểm tra, theo dõi, đánh giá, điều chỉnh: GVCN không phải là cứ có Ban cán sự
lớp, Ban đại diện CMHS là xong mà phải thường xuyên bám sát lớp, theo dõi để xác lập
thông tin về lớp.Khâu yếu nhất của giáo dục hiện nay là ít thể hiện kết quả trên hồ sơ, từ đó
gây nên tình trạng thiếu thơng tin xác đáng về HS. Vì vậy, qua theo dõi, cập nhật liên tục
thông tin về diễn biến của lớp, của từng HS để có biện pháp kịp thời điều chỉnh những thiếu
sót, hạn chế và phát huy những kết quả đạt được, đánh giá đúng về HS, tạo sự cơng bằng, bình
đẳng trong giáo dục .
- Bồi dưỡng phương pháp:
3.1. Phương pháp nghiên cứu đối tượng: Điều tra nắm vững đặc điểm của các đối
tượng giáo dục, nắm vững tình hình kinh tế, văn hóa, giáo dục ở địa phương để phân
loại và có tác động thích hợp. Phân loại HS được tiến hành theo các mặt: học lực, hạnh
kiểm, sức khỏe, hứng thú, sở trường, năng khiếu…Qua đó định hướng giúp đỡ từng
HS phát triển theo năng lực và nguyện vọng.
3.2. Phương pháp vận động quần chúng: Xây dựng tập thể vững mạnh thực chất là
vận động, giáo dục đưa HS vào hoạt động có nề nếp, kỷ luật chặt chẽ, với các hoạt

skkn


động phong phú…..Vận động gia đình và các đồn thể xã hội cùng tham gia, thống
nhất mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục .
3.3. Phương pháp tổ chức sinh hoạt tập thể:
- Đa dạng hoá về nội dung và hình thức tổ chức tiết sinh hoạt lớp: Mỗi lứa tuổi HS
có những yêu cầu riêng, hứng thú riêng đối với hoạt động. Vì vậy, sự thay đổi nội dung
và các hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp cho phù hợp với lứa tuổi HS khác nhau là đòi
hỏi tất yếu đối với nhà trường. Sức hấp dẫn HS, sự lơi cuốn các em tham gia tích cực vào
hoạt động phụ thuộc nhiều vào sự thay đổi nội dung và các hình thức tổ chức. Do đó, nội
dung tiết sinh hoạt tập thể hàng tuần phải cụ thể, bổ ích, phải gắn với nhu cầu và hứng thú

của HS và chúng phải phù hợp với kinh nghiệm và trình độ hiểu biết của họ, huy động
đến mức cao nhất trí tuệ và tình cảm tập thể của HS….
- Thu hút tối đa sự tham gia của mọi HS dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ, cố vấn của
GV nhằm tăng cường vai trò tự quản của HS: Sự tham gia của HS vào các hoạt động,
công việc của lớp, của trường vừa là nhu cầu, vừa là quyền của mỗi HS. Việc tham gia
của tất cả HS vào giờ sinh hoạt lớp sẽ tạo ra môi trường chung để HS cùng trải nghiệm
những xúc cảm tích cực, tăng cường giao lưu giữa các em, tạo ra môi trường lớp học
mang bầu khơng khí tin tưởng, thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ và lắng nghe ý kiến
của nhau. Từ đó tình cảm gắn bó, chia sẻ giữa các em được hình thành và củng cố.
- Tăng cường những nội dung sinh hoạt có liên quan đến các cơng việc chung của
lớp, phù hợp với nhu cầu và sở thích của HS: Mỗi lớp, mỗi tập thể đều có những cơng
việc chung cần giải quyết, ví dụ như xây dựng các qui định riêng của lớp, xác định chỉ
tiêu thi đua, xử lí các tình huống nảy sinh trong tập thể lớp…., vì thế cần để cho HS tự
thảo luận, trao đổi và quyết định. Mục đích là nhằm nâng cao bầu khơng khí đồn kết,
tinh thần trách nhiệm …. của mỗi HS trong lớp. Một tập thể lớp đồn kết với từng
thành viên có tinh thần trách nhiệm cao sẽ là môi trường giáo dục tốt nhất cho từng
HS. Ngoài ra việc thường xuyên thu hút các em vào quá trình bàn bạc chung sẽ dần
dần tạo ra ở các em lịng tin vững chắc rằng chúng có vị trí nhất định trong lớp và
chúng sẽ cố gắng nỗ lực và hợp tác với mọi thành viên để hồn thành cơng việc được
giao.
- Khen chê HS: Thực tế hiện nay trong các buổi sinh hoạt lớp, các thầy cơ thường
chê học trị nhiều hơn là khen ngợi ( 60 - 70% là “chê” HS, đáng ra phải là ngược lại).
Thầy cô biết khen - chê đúng mực sẽ khiến học trò hứng thú trong học tập.Về nguyên
tắc, khen phải nhiều hơn chê để tạo tâm lý tích cực vì ai cũng thích khen. Khi khen chê
HS cần lưu ý: Khen ngợi phải cụ thể, gọi tên các phẩm chất; Khên ngợi phải chân thật,
gây được cảm xúc tích cực nơi người khen; Đối với những hành vi tích cực mới cần
khên ngay khi nó vừa xuất hiện nhất là với những em hay mắc khuyết điểm,những em
học yếu, nhút nhát….;Khi phê bình HS cũng cần lưu ý là phê bình hành vi cụ thể chứ

skkn




×