Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận quản lý hành chính nhà nước và quản lý ngành giáo dục và đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.98 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

GIẢNG VIÊN: TH.S. TRẦN THỊ THANH HÀ
SINH VIÊN: TRẦN TUẤN ANH
MSSV: 21010309
MHP: EDM2001 4


1

Mục Lục

A. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BẬC PHỔ THÔNG SAU 9 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 29-NQ/TW
VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO....................2
Lời mở đầu................................................................................................................3
CHƯƠNG I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT SỐ 29-NQ/TW VỀ ĐỔI
MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO...................................4
1.1 Quan điểm chỉ đạo.....................................................................................4
1.2. Mục tiêu....................................................................................................5
1.2.1 Mục tiêu chung...........................................................................................5
1.2.2 Mục tiêu cụ thể...........................................................................................6
CHƯƠNG II. NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT
TRIỂN GIÁO DỤC...................................................................................................7
CHƯƠNG III. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO.........................................................................................................................13


CHƯƠNG IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐỂ TIẾP TỤC THỰC HIỆN
TỐT CÔNG TÁC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC...............................................................17
KẾT LUẬN.............................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................20
B. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY...22
I. ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................23
II. MƠ TẢ TÌNH HUỐNG......................................................................................23
III. NHẬN ĐỊNH TÌNH HUỐNG...........................................................................23
IV. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG............................................................................24
V. KẾT LUẬN TÌNH HUỐNG..............................................................................26
VI. BÀI HỌC BẢN THÂN.....................................................................................27


2

A. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO BẬC PHỔ THÔNG SAU 9 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 29NQ/TW VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.


3

LỜI MỞ ĐẦU
Từ lúc thống nhất đất nước cho đến nay, nước ta đã trải qua nhiều cuộc cải cách
giáo dục lớn và nhỏ. Sự thay đổi một phần lớn bộ mắt bối cảnh của tình hình kinh tế
chính trị xã hội trong và ngoài nước làm thay đổi cách tiếp cận giáo dục khác nhau.
Nhưng có một điểm chung là giáo dục ngày nay dù bất cứ ở đâu ln được xem là “quốc
sách hàng đầu”. Điều đó đã được ghi rõ trong Điều 4 bộ luật Giáo dục Việt Nam
43/2019/QH14. Vì vậy giáo dục trong mọi hồn cảnh phải phù hợp với sứ mệnh của
mình.
Hơn 10 năm qua, cùng với sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0, khoa

học công nghệ dần dần chi phối hoạt động tự nhiên và hoạt động của con người. Con
người ngày càng phụ thuộc vào máy móc và cơng nghệ. Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc máy móc có thể thay thế hay chia sẻ cho con người một phần cơng việc. Cùng với đó
là một lượng kiến thức mới được cập nhật hàng ngày. Điều này bắt buộc các nhà quản lý
giáo dục và đào tạo ở Việt Nam phải có sự đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào
tạo.
Tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 29NQ/TW, ngày 4/11/2013 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết là: Giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội.
Sau 35 năm đổi mới, và chuẩn bị bước qua năm thứ 10 thực thi Nghị quyết số 29NQ/TW ngành giáo dục Việt Nam đã được được nhiều thành tựu quan trọng, giáo dục
nước ta đã hình thành được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống


4

nhất và đa dạng hoá với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại
học.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiển đổi mới đó, cơng tác quản lý giáo dục và đào
tạo vẫn còn những bất cập, hạn chế nhất định chưa xứng đáng với “quốc sách hàng đầu”
và có bước phát triển bền vững, động lực chính của phát triển đất nước.
Chính vì vậy, Những nhà quản lý giáo dục và đào tạo cần phải có những chính
sách khắc phục và qn triệt tư tưởng đổi mới trong đất nước dựa trên các cơ sở khoa
học.

CHƯƠNG I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT SỐ 29-NQ/TW VỀ
ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.
 1.1 Quan điểm chỉ đạo

1- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
2- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi,
cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế,
chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia
đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành
học.Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những
nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh
những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài
hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có
trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.


5

3- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn;
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
4- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ
Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát
triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả,
đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
5- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thơng giữa các bậc học,
trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và
đào tạo.
6- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hịa, hỗ

trợ giữa giáo dục cơng lập và ngồi cơng lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát
triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã
hội hóa giáo dục và đào tạo.
7- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo
dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
 1.2. Mục tiêu
1.2.1 Mục tiêu chung
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp
ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân
dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng,
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và
làm việc hiệu quả.


6

Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có
cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các
điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội
nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản
sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Đối với giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ,
hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1. Hoàn
thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ
cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020.
Từng bước chuẩn hóa hệ thống các trường mầm non. Phát triển giáo dục mầm non dưới 5
tuổi có chất lượng phù hợp với điều kiện của từng địa phương và cơ sở giáo dục.

- Đối với giáo dục phổ thơng, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất,
năng lực cơng dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống,
đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hồn
thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm
cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thơng nền tảng, đáp
ứng u cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận
nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thơng có chất lượng. Nâng cao chất
lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học
phổ thơng và tương đương.
- Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách
nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và


7

trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng
nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.
- Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài,
phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học.
Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo
phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành
đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu
cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
và hội nhập quốc tế.
- Đối với giáo dục thường xuyên, bảo đảm cơ hội cho mọi người, nhất là ở vùng nông
thôn, vùng khó khăn, các đối tượng chính sách được học tập nâng cao kiến thức, trình độ,
kỹ năng chun mơn nghiệp vụ và chất lượng cuộc sống; tạo điều kiện thuận lợi để người

lao động chuyển đổi nghề; bảo đảm xóa mù chữ bền vững. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở
giáo dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi
trọng tự học và giáo dục từ xa.
- Đối với việc dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước
ngồi, có chương trình hỗ trợ tích cực việc giảng dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân
tộc cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi, góp phần phát huy sức mạnh của văn
hóa Việt Nam, gắn bó với q hương, đồng thời xây dựng tình đồn kết, hữu nghị với
nhân dân các nước.

CHƯƠNG II. NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU CỦA ĐỔI MỚI VÀ PHÁT
TRIỂN GIÁO DỤC.
gần 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; giáo dục – đào tạo ở Việt
Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, góp phần tơ đậm


8

những thành tựu chung của cơng cuộc đổi mới nói chung, sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước nói riêng.
Đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục - đào tạo được triển khai tích cực theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Những
thành tựu nổi bật về giáo dục – đào tạo trong suốt gần 10 năm qua có thể khái quát trong
những nội dung cơ bản sau:
Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học, trình độ
đào tạo, các loại hình và phương thức giáo dục.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo ở Việt Nam tiếp
tục được mở rộng về quy mô. Xây dựng và triển khai hệ thống giáo dục quốc dân và
khung trình độ quốc gia mới. Mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp tục được mở rộng ở

tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Quy mô giáo dục tăng nhanh, nhất là bậc đại học
và đào tạo nghề. Mạng lưới cơ sở giáo dục được mở rộng đến hầu hết các xã, phường, thị
trấn trong cả nước. Số lượng các trường đại học, cao đẳng có hơn 440 trường. Mạng lưới
dạy nghề có khoảng 2.000 cơ sở.
Tháng 8/2018, Chính phủ đã thống nhất chủ trương thực hiện chính sách hỗ trợ
miễn học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi và hỗ trợ đóng học phí cơ sở ngồi cơng lập
đối với trẻ em diện phổ cập, nhất là đối với các thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên, được
quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Các bảng xếp hạng đại học quốc tế của các cơ sở GDĐH Việt Nam ngày càng
được cải thiện. Nếu như trước năm 2014, cả Việt Nam chỉ có duy nhất Đại học Quốc gia
Hà Nội lọt vào bảng xếp hạng đại học châu Á của Tổ chức xếp hạng đại học QS với vị trí
trong nhóm 250 trường hàng đầu thì đến năm 2022 có 10 trường đại học của Việt Nam
trên Bảng Xếp hạng URAP, đó là các trường: Trường ĐH Tơn Đức Thắng, Trường ĐH


9

Duy Tân, ĐH Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh (HCM), ĐH Quốc gia Hà Nội, Trường ĐH Y
Hà Nội, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, ĐH Huế,
Trường ĐH Bách khoa - ĐH Quốc gia Tp. HCM, ĐH Cần Thơ.
Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5 tuổi đã
hoàn thành ngay từ đầu năm 2017 với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98%. Bên
cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2, trong đó có 18/63
tỉnh, thành phố đạt mức độ; cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ
1, trong đó có 19/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ 2, mức độ 3. Các mức độ phổ cập được
quy định ở Nghị định 20/2014/NĐ-CP về phổ cập và xóa nạn mù chữ.

Các mức độ của phổ cập giáo dục tiểu học

Sau 5 năm thực hiện, lộ trình đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông đã đạt
mục tiêu của Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đề ra. Nội dung thi, kiểm tra, đánh giá
được quan tâm, bảo đảm thực chất và hiệu quả. Trong đó, kiểm tra đánh giá được triển
khai theo hướng phát triển năng lực người học; kết hợp giữa đánh giá kết quả và đánh giá
quá trình; khắc phục được cơ bản tình trạng học lệch, học tủ. Riêng các năm 2019-2021,
ngành Giáo dục đã hoàn thành mục tiêu kép, vừa đảm bảo an toàn sức khoẻ của học sinh,
giáo viên trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, vừa hoàn thành kế hoạch năm


10

học. Trong lĩnh vực giáo dục xuất hiện các phương pháp, hình thức mới sáng tạp, linh
hoạt nhất là hình thức học tập trực tuyến, góp phần mạnh mẽ thực hiện quá trình chuyển
đổi số trong giáo dục. Các kì thi quan trọng như kì thi Tốt nghiệp THPT Quốc gia được
tổ chức hợp lý, chia thành nhiều đợt bảo đảm sức khỏe và kế hoạch kiểm tra – đánh giá
của ngành.
Phát triển nguồn nhân lực gắn với khoa học, cơng nghệ đạt được kết quả tích cực.
Ðối với giáo dục phổ thơng góp phần tăng cao chỉ số vốn nhân lực. Ngày 16/9/2020,
Ngân hàng Thế giới công bố chỉ số vốn nhân lực khảo sát ở 174 nước trên thế giới. Theo
đó, chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên 0,69 trong vòng 10 năm (2010 2020); trong đó, tiêu chí về kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với
các nước như Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển.... Cụ thể, 98/100 trẻ em sinh ra ở Việt
Nam sống được đến 5 tuổi. Một đứa trẻ bắt đầu đi học từ năm 4 tuổi có thể hồn thành
12,9 năm học lúc 18 tuổi. Khi quy đổi sang chất lượng học, số năm học thực chất giảm
xuống chỉ cịn 10,7 năm. Ngồi ra, theo Báo cáo Phát triển Con người toàn cầu năm
2020, chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2019 của Việt Nam là 0,704, xếp vị trí
117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Từ năm 1990 - 2019, giá trị HDI của Việt Nam đã
tăng hơn 48%, từ 0,475 lên 0,704, thuộc các nước có tốc độ tăng HDI cao nhất trên thế
giới. Chỉ số HDI của Việt Nam năm 2019 là 0,704, cao hơn mức trung bình 0,689 của các

quốc gia đang phát triển và dưới mức trung bình 0,753 của nhóm Phát triển con người
cao và mức trung bình 0,747 cho các quốc gia ở Đơng Á và Thái Bình Dương.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, có bước phát triển cả về số lượng
và chất lượng.
Trong những năm qua, công tác xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD đã
bám sát quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD
phát triển nhanh về số lượng, hợp lý về cơ cấu và phân bố khá toàn diện trong các cấp
bậc học với gần 1,5 triệu người, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cơ chế, chính sách đối với đội


11

ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD từng bước được bổ sung, hồn thiện, góp phần hỗ trợ,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, động viên, khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán
bộ QLGD yên tâm, tận tâm cống hiến cho sự nghiệp phát triển GD-ĐT nước nhà.
Cụ thể, Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 29/NQ-TW, tính đến năm 2018 tồn quốc
có 1.161.143 giáo viên mầm non, phổ thơng (cơng lập 858.772, ngồi cơng lập 23.691).
Trong đó, mầm non: 309.770 người (cơng lập 262.155, ngồi cơng lập 47.615); tiểu học:
395.848 người (cơng lập 390.873, ngồi cơng lập 4.975); trung học cơ sở: 305.815 người
(cơng lập 300.990, ngồi công lập 4825; trung học phổ thông: 149.710 người (công lập
135.819, ngồi cơng lập 13.891). Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục tăng mạnh
về số lượng, đồng thời đạt chuẩn, trên chuẩn trình độ đào tạo. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn,
trên chuẩn với mầm non là 96,6%; tiểu học: 99,7%; trung học cơ sở: 99%; trung học phổ
thông: 99,6%; đại học: 82,7%, tạo tiền đề để Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất nâng chuẩn
trình độ đào tạo cho giáo viên trong sửa đổi Luật Giáo dục.
Chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD cơ bản đáp ứng yêu cầu thực hiện
đổi mới chương trình GD-ĐT. Hầu hết đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ, viên chức
giáo dục các cấp học, bậc học có lịng u nghề, phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần trách
nhiệm cao trong cơng việc, có ý chí vươn lên, tích cực học tập, tự học tập, bồi dưỡng

nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ; thực hiện đổi mới sáng tạo, vận dụng các
phương pháp giảng dạy mới theo hướng chuẩn hóa để tổ chức các hoạt động giáo dục
ngày càng thiết thực, hiệu quả.
Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số đáp ứng yêu cầu của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
Giáo dục đại học Việt Nam đang tích cực chuyển đổi số; bên cạnh đó, đã có sự
chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nhanh, phù hợp. Sự thay đổi này đòi hỏi giáo dục - đào
tạo phải đem lại cho người học cả tư duy những kiến thức kỹ năng mới, khả năng sáng
tạo, thích ứng với thách thức và những yêu cầu mới mà các phương pháp giáo dục truyền
thống không thể đáp ứng.


12

Toàn ngành giáo dục đã xây dựng và chia sẻ dùng chung với hơn 5.000 bài giảng
e-learning, hơn 2.000 bài giảng trên truyền hình. Cơ sở dữ liệu trực tuyến toàn quốc về
giáo dục được bổ sung, hoàn thiện. 100% số trường học được kết nối internet, 80% số
trường học đã dùng phần mềm quản trị trường học, sổ điểm điện tử, giúp giảm tải hồ sơ,
giấy tờ trong nhà trường. Lần đầu tiên, ngành giáo dục đã xây dựng được cơ sở dữ liệu
đầy đủ thông tin của gần 53.000 trường học, 1,5 triệu giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
và gần 23 triệu hồ sơ học sinh, sinh viên. Theo báo cáo của OECD, Việt Nam có 79,7%
học sinh phổ thơng được học trực tuyến để phịng, chống Covid-19 trong năm 2020, cao
hơn nhiều so với trung bình chung của các nước OECD, là 67,5%. Kết quả trên đã tạo
tiền đề quan trọng thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành giáo dục trong những năm tiếp
theo.

Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới.
Ngày 3/8/2022, Bộ GDĐT đã ban hành Thông tư số 13/2022/TT-BGDĐT sửa đổi,
bổ sung một số nội dung trong Chương trình giáo dục phổ thơng ban hành kèm theo
Thơng tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 (gọi tắt là Chương trình

GDPT 2018) của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa lớp 1, với
tổng số 46 quyển của 9 môn học và hoạt động giáo dục cho phép sử dụng trong năm học
2020-2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa phương thực hiện cơ bản nghiêm
túc, công khai, minh bạch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành giáo dục nước ta thực
hiện chủ trương này và đã có kết quả bước đầu đáng khích lệ.
Cơng tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực
chất, hiệu quả hơn.


13

Đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng đối với giáo dục tiểu học, trung học
cơ sở và trung học phổ thông được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết
quả quá trình với kết quả cuối năm học.
Các bậc học sau phổ thông đã chuyển việc tổ chức đào tạo theo niên chế sang tích
lũy mơ đun hoặc tín chỉ. Việc kiểm tra, đánh giá trình độ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ được
thực hiện chặt chẽ hơn; chất lượng các luận văn, luận án từng bước theo tiêu chuẩn quốc
tế.
Công tác đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh đại học, cao đẳng
được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối
năm học, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội.
Điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được cải thiện.
Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục là 20% tổng chi ngân sách Nhà nước, chiếm
5% GDP cả nước. Đây là sự quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục. Nhiều
địa phương, bên cạnh ngân sách trung ương, cịn có thêm từ ngân sách địa phương đầu tư
cho giáo dục và đã có nhiều cố gắng cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đồng
thời huy động nguồn lực của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường,
bảo đảm chất lượng dạy và học.
Chính sách hỗ trợ học phí, sinh hoạt phí cho sinh viên sư phạm được quy định tại

Nghị định 116 năm 2020 của Chính phủ, áp dụng từ khóa tuyển sinh năm 2021. Theo đó,
sinh viên sư phạm được nhà nước hỗ trợ tiền đóng học phí bằng mức thu của cơ sở đào
tạo và 3,63 triệu đồng một tháng chi phí sinh hoạt trong thời gian học. Với chính sách
này, chất lượng đầu vào của ngành sư phạm đang dần được cải thiện và đảm bảo chất
lượng.


14

CHƯƠNG III. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG QUẢN LÝ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận
những mặt cịn hạn chế, những vấn đề cần khắc phục của giáo dục - đào tạo sau hơn 9
năm triển khai nghị định 29 để thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng về giáo dục đào tạo trong thời gian tới nhằm hiện thực hóa quan điểm của Đảng, phấn đấu đến năm
2030 nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Chất lượng đội ngũ giáo viên khơng đồng đều, giáo viên cịn thừa, thiếu cục bộ
tại một số địa phương; chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao
chưa

đáp

ứng

yêu

cầu

phát

triển


Trong tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, Người ln đánh giá cao vai trị của đội
ngũ giáo viên, Người ln xem giáo viên là “những người vẻ vang nhất, là những người
anh hùng vơ danh”. Trong thời đại mới giáo viên đóng vai trị nhân tố quyết định đến sự
thành cơng của việc đổi mới giáo dục.
Tuy nhiên, tình trạng giáo viên thừa, thiếu còn diễn ra cục bộ tại một số địa
phương. năm học 2021 - 2022, khi triển khai giảng dạy chương trình giáo dục phổ thơng
mới ở lớp 2 và lớp 6 thì tổng số giáo viên vẫn cịn thiếu hụt khoảng 70.000 người. Theo
thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bậc mầm non thiếu hơn 45.000 giáo viên, bậc tiểu
học thiếu hơn 20.000, bậc Trung học cơ sở thiếu hơn 13.000 và bậc Trung học phổ thông
thiếu hơn 9.000 giáo viên.
Chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp
ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, gây bức
xúc xã hội. Mặc dù tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo cao, nhưng năng lực ứng
dụng những phương pháp dạy học và giáo dục mới, năng lực thực hiện các phương pháp
kiểm tra đánh giá mới, năng lực ngoại ngữ và ứng dụng cơng nghệ thơng tin cịn kém.
Đội ngũ giảng viên cốt cán, đầu ngành và cán bộ quản lý của một số cơ sở đào tạo giáo


15

viên chưa đủ mạnh. Học hàm, học vị của đội ngũ giảng viên sư phạm còn thấp so với mặt
bằng chung của giáo đại học cả nước và thế giới.
Một số địa phương chưa có giải pháp giải quyết chế độ, chính sách cho nhà giáo
và cán bộ QLGD, nhân viên dôi dư sau khi thực hiện sắp xếp, sáp nhập mạng lưới cơ sở
trường, lớp. Chính sách đối với nhà giáo giáo dục nghề nghiệp chậm được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với thực tiễn, chưa có chính sách ưu đãi đối với nhà giáo dạy trong các
sở dân tộc nội trú, bán trú, trường cao đẳng, trung cấp.
Cá biệt, có nhiều trường hợp đạo đức của nhiều người làm trong nghề giáo dục đi
xuống, vi phạm đạo đức trầm trọng. Đề cử như vụ gian lận thi cử xơn xao dư luận ở n

Bái, Hịa Bình, Sơn La, Hà Giang cho thấy chất lượng giáo dục ở một số địa phương
đang ở mức thấp. Câu chuyện về nữ giáo viên ở cùng một phòng trong nhà nghỉ với nam
học sinh; thầy giáo sàm sỡ học sinh; thầy cơ giáo quan hệ bất chính… nhan nhản trên các
mạng xã hội, thật sự là những vết nhơ của ngành giáo dục.
Hệ thống trường lớp, nhất là ở vùng sâu, vùng xa và các khu đơ thị lớn cịn
thiếu, xuống cấp; xã hội hóa trong giáo dục phổ thơng gặp nhiều khó khăn
Mặc dù chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam ưu tiên ngân sách nhà nước dành
cho phát triển giáo dục phổ cập và các đối tượng đặc thù, xây dựng xã hội học tập, tạo cơ
hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số,
người nghèo, con em diện chính sách. Tuy nhiên, Sau 10 năm thực hiện, quy hoạch mạng
lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thơng ở một số địa phương cịn khó khăn, cịn tình
trạng thiếu trường, lớp học ở một số khu đô thị, khu công nghiệp và một số địa phương
nhất là ở vùng sâu, vùng xa cịn bất cập vì trường, lớp xuống cấp, chưa hoàn thiện quy
hoạch tổng thể, thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy
hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm còn chậm. Công tác phân luồng,
giáo dục hướng nghiệp trong giáo dục phổ thông chưa hiệu quả do nhận thức của học
sinh, gia đình học sinh và xã hội đối với giáo dục nghề nghiệp còn hạn chế.


16

Xã hội hóa trong giáo dục phổ thơng nhiều khó khăn vì nguồn lực tài chính thực tế
cho đổi mới giáo dục - đào tạo cịn thiếu do quy mơ ngân sách ở Việt Nam cịn nhỏ, vì
vậy, chi thực tế cho giáo dục cịn ít so với nhu cầu của một nền giáo dục đang phát triển.
Vì vậy, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học còn thiếu, lạc hậu; tỷ lệ phòng
học kiên cố thấp; một số địa phương nguồn kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất trường, lớp
còn hạn hẹp, đầu tư dàn trải, hiệu quả chưa cao; Chính sách tiền lương cho giáo viên, đặc
biệt là giáo viên mầm non chưa phù hợp nên chưa thu hút được sinh viên giỏi vào ngành
sư phạm; việc huy động các nguồn lực khác cho giáo dục còn hạn chế.
Giáo dục và đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, giáo dục đạo đức,

lối sống, kỹ năng xã hội, kỹ năng sống, kỹ năng sáng tạo chưa quan tâm đúng mức.
Có thể nói rằng, giáo dục của nước ta trong thời gian qua đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Tuy nhiên, so với sự mong đợi của nhân dân và đặt trong nhu cầu phát triển
đất nước thì giáo dục vẫn còn rất nhiều việc phải làm, rất nhiều điều phải khắc phục.
Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải hướng tới các kiến thức, kỹ năng, giá trị
và năng lực hành động để thực hiện các mục tiêu quốc gia theo các trụ cột của phát triển
bền vững. Tuy nhiên, việc giáo dục kỹ năng sống trong các nhà trường còn một số hạn
chế như: đa phần là lồng ghép, tích hợp các mơn học, chưa được xây dựng thành mơn học
riêng trong chương trình phổ thơng nên việc thực hiện chưa thực sự mang lại hiệu quả
như mong muốn. Việc dạy theo hướng phát triển năng lực chỉ mới áp dụng ở các trường
có đủ điều kiện thực hiện đa số ở các thành phố lớn, cơ sở vật chất hiện đại và đầy đủ.
Vì lo sợ “không đúng ý thầy” nên đa số học sinh, sinh viên thường theo lối mịn
(nói lại những điều đã được mọi người nói hoặc mọi người đã biết) hoặc theo nội dung đã
được truyền đạt (lặp lại lời đã được giảng) mà mất tính sáng tạo, phản biện, thậm chí
khơng dám bộc lộ cái tôi cá nhân dù đã phát hiện ra có điều chưa ổn hoặc cần phải khẳng
định quan điểm riêng của mình.
Những hạn chế, yếu kém trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Việc
thực hiện quan điểm chính sách, chủ trường của nhà nước diễn ra chưa đồng bộ ở nhiều


17

nơi. Một số nhà quản lý giáo dục ở địa phương chưa hiểu rõ hay chưa biết cách thực hiện
các chương trình phát triển giáo dục – đào tạo. Kinh phí cho giáo dục cịn đang bị bỏ ngõ,
hoặc chưa xứng đáng với “quốc sách hàng đầu”. Quá trình kiểm tra, đánh giá cịn gặp
nhiều khó khăn do thiếu nhân lực, phương pháp, cách thức tiến hành.
Công tác truyền thông về giáo dục cịn hạn chế.
Truyền thơng là yếu tố quan trọng trong các lĩnh vực đối với xã hội ngày nay. Tuy
nhiên việc triển khai công tác truyền thông về đổi mới giáo dục chưa có được phương
pháp, cường độ cần thiết. Chúng ta chưa tạo được đồng thuận cao trong xã hội khi bắt

đầu triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới của ngành. Truyền thơng nội bộ ngành
chưa hiệu quả, còn những ý kiến trái chiều ngay trong đội ngũ giáo viên khi triển khai
chính sách mới. Các bậc phụ huynh cịn có những quan điểm sai lầm về các bộ sách giáo
khoa, về việc tích hợp môn học mà không phải bỏ đi. Nhiều thầy cô trong ban giám hiệu
không nắm chắc được chủ trương đổi mới của ngành nên khi nhận được những văn bản ở
trên gửi về thì triển khai cho giáo viên chưa thấu đáo. Giáo viên thực hiện, tập huấn gặp
khó khăn trong cơng tác giảng dạy theo chương trình mới. Vì sợ sai, hay không đúng ý
mà các giáo viên vẫn tiếp tục cách giảng dạy truyền thống.

CHƯƠNG IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐỂ TIẾP TỤC THỰC
HIỆN TỐT CÔNG TÁC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC.
Đổi mới giáo dục luôn là bước đầu của việc phát triển giáo dục của bất kì cộng
đồng nào, dân tộc nào trên thế giới. Những quốc gia phát triển trên thế giới luôn đặt giáo
dục con người lên hàng đầu. Việt Nam muốn “vươn lên sánh ngang với các cường quốc
năm châu” thì việc ưu tiên giáo dục càng không được chậm trễ.
Đảng cũng đã xác định ở Đại hội XIII trong những năm tới cần: “Tạo đột phá
trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ thành
tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và


18

đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm chỉ đạo đến cơ chế,
chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện. Do vậy, để tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, theo chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đồng bộ, toàn diện
toàn các giải pháp sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về ngành giáo
dục, cán bộ quản lý giáo dục các cấp.
Đảng và nhà nước cần phải tinh giản bộ máy quản lý cồng kềnh trong quá khứ.

Đưa những người có năng lực vào các vị trí của bộ máy quản lý giáo dục. Cán bộ quản lý
giáo dục có vai trị của một người điều hành một hệ thống lớn và phức tạp, đồng thời sẽ
phải thực thi các chính sách giáo dục đa dạng và mềm dẻo để giải quyết chủ động và sáng
tạo các vấn đề mới nảy sinh như: Phân cấp quản lý, trách nhiệm xã hội, huy động nguồn
lực, dân chủ hóa giáo dục, tin học hóa quản lý giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục trong
giai đoạn hiện nay cần phải đóng vai trị nhà chính trị để tạo được sự đồng thuận trong
đội ngũ và tổ chức. Tư duy của người quản lý cũng dần thay đổi từ việc duy trì sang đổi
mới và cải tiến liên tục.
Thứ hai: Phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ nhà
giáo. Tiếp tục quán triệt quan điểm phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XIII và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định của Đảng và
Nhà nước xây dựng đội ngũ nhà giáo các cấp học, bậc học bảo đảm chất lượng, hợp lý về
cơ cấu, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT. Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về đội ngũ nhà giáo, xây dựng tiêu chí về phẩm chất,
năng lực của nhà giáo đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuẩn bị
nguồn nhân lực chất lượng cao cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số.
Đẩy mạnh việc chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo.
Tiến tới tất cả giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên cơ sở giáo dục nghề nghiệp
có năng lực sư phạm và trình độ từ đại học trở lên; giảng viên cao đẳng, đại học có trình


19

độ từ thạc sĩ trở lên và được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm; cán bộ quản lý giáo
dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý.
Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo
viên. Đổi mới tồn diện, tinh gọn nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong các cơ
sở đào tạo nhà giáo, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức, kiến thức
chuyên môn và kỹ năng sống, kỹ năng sư phạm, năng lực quản lý, quản trị hiện đại tiệm

cận các chuẩn mực khu vực và quốc tế; phát huy tính độc lập, sáng tạo, tự nghiên cứu,
học tập suốt đời của nhà giáo.
Nhà nước cần bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách đối với đội ngũ nhà giáo từng
cấp bậc học. Chính sách tiền lương, phụ cấp, ưu đãi, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng đối với
nhà giáo và cán bộ QLGD cũng như các điều kiện bảo đảm thực hiện các chế độ, chính
sách được đồng bộ với các quy định chung của cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ ba: Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ
năng sống của học sinh, sinh viên.
Giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ luôn được Đảng, Nhà
nước, gia đình, nhà trường và tồn xã hội quan tâm. Các hoạt động giáo dục, các cuộc
vận động, phong trào thi đua yêu nước đã tạo môi trường lành mạnh để thế hệ trẻ rèn
luyện, trưởng thành, góp phần hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức cao đẹp, lối sống
nghĩa tình, tuân thủ pháp luật, từng bước hoàn thiện nhân cách.
Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị cần đầu tư đúng mức cho cơng tác bồi
dưỡng, giáo dục thanh niên; triển khai nghiêm túc, đồng bộ các giải pháp đã được xác
định trong chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khố XI về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030”.
Xây dựng tổ chức Đoàn các cấp thực sự vững mạnh, tồn diện về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, mở rộng việc tập hợp, đoàn kết thanh niên, tăng cường giáo dục, bồi



×