Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận Quản lý hành chính Nhà nước Xử lý tình huống công nhân đình công tại doanh nghiệp nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.31 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................1
I. MƠ TẢ NỘI DUNG TÌNH HUỐNG..................................................................4
II. MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:.................................................................8
III- PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG...........................................................................8
IV. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.........................16
V. KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐÃ LỰA CHỌN.........18
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................................21
1.Kiến nghị..........................................................................................................21
2.Kết luận............................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................25

LỜI MỞ ĐẦU
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân
ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu rất quan trọng để đi lên mục
1


tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh". Kinh tế tiếp tục
tăng trưởng khá cao, đời sống nhân dân khơng ngừng được cải thiện; chính
trị - xã hội ổn định, văn hố xã hội có nhiều mặt tiến bộ; quốc phòng an ninh
được tăng cường; vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng cao. Thành
tựu to lớn đó có sự đóng góp quan trọng của giai cấp cơng nhân, người lao
động.
Cùng với q trình phát triển của đất nước, giai cấp công nhân Việt
Nam đã có những bước trưởng thành cả về số lượng và chất lượng; giác ngộ
chính trị, trình độ học vấn chun môn, nghề nghiệp được nâng lên. Công
nhân, viên chức, lao động nước ta đã năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh
với cơ chế thị trường, tiếp cận nhanh với công nghệ tiên tiến, hiện đại, từng
bước đảm đương và làm chủ những cơng việc có trình độ khoa học kỹ thuật
và cơng nghệ cao, bước đầu hình thành ngày càng đơng đội ngũ cơng nhân


trí thức, đã và đang có nhiều đóng góp quan trọng vào việc hoạch định và tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
trong thời kỳ mới
Hơn 20 năm qua, từ khi nước ta tiến hành đổi mới đã thu được những
kết quả to lớn từ việc xây dựng, phát triển ổn định và bền vững nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
vật chất và tinh thần của nhân dân; củng cố các mối quan hệ quốc tế về mọi
mặt trên nguyên tắc “hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi. Khơng can thiệp
vào cơng việc nội bộ của nhau”. Điều này, ngày càng được khẳng định và
đã trở thành nguyên tắc cơ bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên con
đường vừa xây dựng phát triển ổn định, bền vững nền kinh tế, vừa mở rộng
và khuyến khích các tổ chức phi chính phủ, tổ chức, cá nhân nước ngoài đến
Việt Nam phát triển sản xuất, kinh doanh.

2


Song, thực trạng những năm qua cho thấy, một số những biểu hiện
của các doanh nghiệp nước ngoài hay doanh nghiệp liên doanh lợi dụng
những chính sách động viên, ưu đãi của Nhà nước Việt Nam để có những
hoạt động, những hành vi đi ngược lại chuẩn mực của Pháp luật Việt Nam,
giá trị, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chẳng hạn như: Công ty Wax Jean
Vina (quận 12 - TPHCM) sau 4 tháng được cấp phép, giám đốc người Hàn
Quốc âm thầm bán công ty cho đối tác khác, không làm thủ tục điều chỉnh
giấy phép đầu tư. Chủ mới vẫn sử dụng tên công ty cũ để hoạt động nhưng
lại sa thải toàn bộ gần 200 CN đang làm việc và cho rằng họ không liên
quan đến nợ nần giữa chủ cũ và CN. Vụ việc đến nay vẫn chưa được giải
quyết; năm 2003, Công ty Vinh Hoa được Sở Kế hoạch - Đầu tư TPHCM
cấp phép hoạt động nhưng không đăng ký lao động với Sở LĐ-TB-XH theo
quy định. Trong hơn 3 năm hoạt động, công ty không ký hợp đồng lao động

với CN. Qua xác minh tại Cơ quan BHXH TPHCM, chúng tôi phát hiện,
công ty khơng đóng BHXH cho hơn 130 CN cuối tháng 7-2006, bà Hwa đã
bỏ về nước, để lại món nợ lương hơn 2 tháng của 130 lao động; Công ty
Karos (100% vốn Đài Loan, quận 2 - TPHCM) hoạt động từ năm 2001, sử
dụng 1.200 lao động. Đến tháng 10-2004, do sản xuất khó khăn, cơng ty cho
800 CN ngừng việc. Tháng 9-2004, ông Cho Tae Huyn, giám đốc công ty,
về nước nhưng không quay lại để giải quyết trợ cấp thơi việc, truy đóng
BHXH... với tổng số tiền khoảng 4 tỉ đồng cho người lao động.
Việc giám đốc công ty nước ngoài làm ăn thua lỗ rồi bỏ trốn ngày
càng phổ biến. Điển hình như Cơng ty Stylis (100% vốn đầu tư của Đài
Loan, huyện Củ Chi - TPHCM) giám đốc bỏ trốn, CN mất quyền lợi. Còn
600 CN Cơng ty Hangvietco (100% vốn Đài Loan, quận Tân Bình TPHCM), bị nợ lương và BHXH mà khơng biết địi ai vì trước đó, giám đốc
cũng đã... một đi khơng trở lại; Cơng ty giáo dục nước ngồi (AITI) thành
3


lập năm thu học phí rồi “biến mất”; các vụ ngược đãi công nhân; xúc phạm
danh dự, nhân phẩm; hay thậm chí tình trạng chậm trả hay khơng trả lương
kéo dài đã xảy ra ở nhiều công ty 100% vốn nước ngồi tại Việt Nam;…
gây ảnh hưởng khơng nhỏ đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơng nhân Việt
Nam và trật tự, kỷ cương pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực tế này, địi hỏi
Nhà nước Việt Nam nói chung và các cơ quan quản lý nhà nước nói riêng
phải tích cực, chủ động,… thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền
của mình nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể
(thành phần kinh tế) nói chung; thành phần kinh tế có yếu tố nước ngồi nói
riêng tn thủ nghiêm minh và thống nhất các quy định của pháp luật Việt
Nam. Đồng thời, đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng nhân phù
hợp với quy định của pháp luật trong nước và thông lệ quốc tế.
Theo tinh thần của Nghị quyết số 17-NQ/TW 1 về đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, với

những khả năng hạn chế của bản thân, để áp dụng các kiến thức đã được học
và để rèn luyện các kỹ năng quản lý phát huy tính chủ động, sáng tạo và độc
lập của bản thân. Chính vì những lý do trên nên em mạnh dạn chọn đề tài về
lĩnh vực: “Xử lý tình huống cơng nhân đình cơng tại doanh nghiệp nước
ngồi” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu.
I. MƠ TẢ NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
Quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về lao động nói riêng
có nhiều cách tiếp cận theo đó cho thấy tính đa dạng trong hoạt động quản
lý nhà nước về lao động cả về mặt lý luận và thực tiễn. Chẳng hạn như: vấn
đề tiền lương; vấn đề việc làm, thất nghiệp; dạy nghề; an toàn lao động; các
chế độ đãi ngộ đối với người lao động;… là những lĩnh vực cơ bản nhằm
đảm bảo mối quan hệ giữa chủ sử dụng lao động với người lao động và với
Nghị quyết sô 17-NQ/TW ngày 1/8/2007 (tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
X) về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
1

4


cơ quan quản lý nhà nước. Trong đó, vấn đề đảm bảo quyền, lợi cho người
lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế nhằm tránh các
tình trạng vi phạm của chủ sử dụng lao động đối với cơng nhân làm nảy sinh
các cuộc đình cơng hợp pháp, bất hợp pháp, tự phát,…của công nhân Việt
Nam. Do vậy, tiểu luận giới hạn phạm vi nghiên cứu về “Tính chất pháp lý
của đình cơng và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương
đối với công nhân Việt Nam làm việc ở các khu chế xuất, khu công nghiệp
và khu kinh tế” thông qua tình huống được đăng trên Báo điện tử
ngày 30 tháng 4 năm 2009: “Khoảng 1.000 công nhân
Công ty trách nhiệm hữu hạn KIA Vina (Đài Loan) đã tập trung trước
phịng giám đốc đình cơng u cầu tăng lương, phụ cấp. Theo ghi nhận ban

đầu, nữ công nhân Tạ Thị Trang đã bị đánh đến mức phải nhập viện, nghi
chấn thương sọ não.
Sự việc bắt đầu từ đêm 29/4, khi một nhóm cơng nhân làm ca đêm đã
tổ chức đình cơng để địi quyền lợi. Đến sáng nay, con số này đã tăng lên
khoảng 1.000 người đứng, ngồi trước khu vực Ban giám đốc, đồng thanh hơ
địi tăng lương, phụ cấp. Mãi đến hơn 12 giờ trưa nay, cuộc đình công vẫn
tiếp tục và một số công nhân quả quyết: nếu Ban giám đốc khơng có câu trả
lời thỏa đáng, họ sẽ tiếp tục đình cơng.

Hình 1: Cơng nhân Cơng ty KIA Vina (Đài Loan)
đã tập trung trước phòng giám đốc
Theo tìm hiểu của chúng tơi, cơng nhân làm việc tại KIA VINA theo
2 chế độ: làm ca và làm hành chính. Lương bình qn của cơng nhân KIA
5


VINA là 1.050.000 đồng/người/tháng. Sau khi trừ các khoản bảo hiểm xã
hội, y tế, cơng đồn... thì thực nhận chỉ còn dưới 1 triệu đồng. Nếu làm ca,
mức thu nhập có cao hơn chút ít, nhưng khơng q 1,2 triệu đồng thực nhận.
Tuy nhiên nếu làm không đủ sản lượng quy định, công nhân sẽ bị trừ lương
thậm tệ, trong 26 ngày (làm ca) và 24 ngày (làm hành chính), nếu nghỉ
khơng có lý do sẽ bị trừ lương gấp 3 lần số ngày nghỉ.

Hình 2: Cơng nhân Cơng ty KIA Vina (Đài Loan) đình cơng
Một nữ cơng nhân đề nghị giấu tên bức xúc: “Chúng em vào đây làm
việc đã được gần 2 năm, nhưng qua các đợt tăng lương cơ bản, thu nhập đều
không được cải thiện là bao, tiền lương thấp, khơng có tiền tăng ca, khơng
được tăng lương đúng thời hạn, chế độ phụ cấp độc hại quá thấp là nguyên
nhân cơ bản dẫn tới đình công. Bộ phận quản lý là người Đài Loan thường
xuyên xúc phạm, chửi mắng, thậm chí đánh đập người lao động. Công ty

luôn yêu cầu tăng sản lượng, nhưng với mức chế độ quá thấp thế này làm
sao yên tâm làm việc được”.

6


Một công nhân khác cho biết, tập thể công nhân đã nhiều lần kiến nghị
lên Ban giám đốc, yêu cầu tăng lương, phụ cấp nhưng không nhận được câu
trả lời.
Được biết, phần lớn công nhân của KIA VINA xuất thân từ các tỉnh
lân cận, phải thuê nhà quanh khu vực công ty để ở. Thời gian gần đây, giá
thuê nhà tăng bình quân khoảng 30 - 40%, cộng với các chi phí thiết yếu
cũng khơng ngừng tăng lên khiến các công nhân cho rằng “rơi vào cảnh
lương không đủ sống”.
Trong sáng nay, chị Tạ Thị Trang, cơng nhân nữ phịng IQT, đã bị
đánh vào đầu, khiến chị phải vào Bệnh viện để kiểm tra chấn thương sọ não.
Theo phản ánh của các nhân chứng, người đánh chị Trang là một người tên
Linh, là leader (tạm hiểu là trưởng công đoạn) của phịng ép nhựa.
Cùng ngày, cơ quan chức năng Cơng an tỉnh Bắc Ninh, Sở Lao độngThương binh và Xã hội, Ban quản lý Khu Công nghiệp Tiên Sơn đã có buổi
làm việc với cơng Cơng ty trách nhiệm hữu hạn KIA Vina về người lao
động đình cơng. Tuy nhiên, theo Công an tỉnh Bắc Ninh cho biết Công ty
trách nhiệm hữu hạn KIA Vina chưa thành lập tổ chức cơng đồn, lãnh đạo
mới chỉ dừng lại ở những lời hứa vòng vo, chưa quan tâm giải quyết những
yêu cầu, địi hỏi chính đáng của người lao động. Liên quan đến sự việc này,
Công an huyện Từ Sơn đã cho gọi 2 người của công ty KIA VINA lên trụ sở
làm việc, nhưng do sự việc đang trong quá trình điều tra nên các cán bộ
phòng CSND đã từ chối cung cấp thơng tin cho báo chí. Khi bài báo này lên
trang, số cơng nhân đình cơng tại KIA VINA vẫn chưa quay lại làm việc.
Được biết, trong chiều 30/4, nhóm cơng nhân đình cơng đã gửi một kiến
nghị chính thức lên lãnh đạo công ty, yêu cầu một số quyền lợi như lương,

trợ cấp, bữa ăn, điều kiện sinh hoạt, nước uống…

7


II. MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:
Qua phân tích một số cuộc đình cơng, tơi thấy có khá nhiều trong số
này là đình cơng do chủ doanh nghiệp vi phạm về quyền của người công
nhân, cụ thể là không thực hiện tăng lương cho người lao động, chế độ
chăm sóc sức khoẻ, y tế, chế độ thai sản đối với lao động nữ chưa được
quan tâm đúng mức, điều kiện làm việc ở một số doanh nghiệp chưa đảm
bảo vệ sinh, an toàn lao động… nhưng trong số các vụ đình cơng cũng có
rất nhiều các cuộc đình cơng tự phát trái với pháp luật. Để giải quyết tốt tình
huống đình cơng tại cơng ty cơng ty KIA VINA cần phải đạt được một số
mục tiêu sau:
− Giải quyết dứt điểm vụ việc, sớm khôi phục lại sản xuất, đảm bảo lợi ích
cho cơng ty, người lao động,
− Làm rõ về quyền, nghĩa vụ của người lao động trong việc chấp hành pháp
luật, nội qui và kỷ luật trong lao động; về trình tự thực hiện phản ánh,
kiến nghị và bảo vệ quyền lợi của người lao động theo đúng quy định
pháp luật; đảm bảo trật tự xã hội; xử lý nghiêm các đối tượng lợi dụng vụ
việc để kích động, lôi kéo người lao động, gây mất an ninh chính trị, trật
tự xã hội.
− Trả lại lợi ích cho người lao động Xử lý nếu chủ sử dụng lao động chưa
thực hiện đúng và đầy đủ tất cả những quy định pháp luật về lao động.
Tức là vi phạm pháp luật về lao động đối với người lao động làm thiệt hại
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động.
III- PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Từ khi đình cơng được đưa vào Bộ luật Lao động, người lao động với
đại diện của mình là tổ chức cơng đồn, đã tổ chức nhiều cuộc đình cơng

theo quy định của pháp luật, đấu tranh địi quyền lợi chính đáng của mình
một cách hợp pháp. Tuy nhiên, gần đây, các vụ đình cơng tự phát của công
8


nhân, đặc biệt là ở các khu công nghiệp, xuất hiện ngày càng nhiều gây ảnh
hưởng lớn đến kết quả lao động.
Để làm sáng tỏ bản chất của tình huống “Khoảng 1.000 công nhân
Công ty trách nhiệm hữu hạn KIA Vina (Đài Loan) đã tập trung trước
phịng giám đốc đình công yêu cầu tăng lương, phụ cấp” , việc phân tích
đánh giá các hành vi của người lao động, chủ sử dụng lao động, đặc biệt là
của cơ quan quản lý nhà nước nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân thực trạng
chung về lao động và quản lý nhà nước về lao động ở nước ta hiện nay. Đây
là vấn đề lớn, phức tạp có liên quan đến nhiều văn bản quy phạm pháp luật
của Nhà nước và năng lực, đạo đức của cán bộ, cơng chức có thẩm quyền ở
địa phương. Với khả năng và trình độ có hạn, bản thân tôi nhận thấy cần
phải làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản như:
Thứ nhất, tính pháp lý của vấn đề đình cơng ở các cơng ty trong khu
chế xuất, khu cơng nghiệp ở Việt Nam.
Tình huống trên cho thấy, cuộc đình cơng của hơn 1000 kỹ sư, cơng
nhân làm việc ở Công ty KIA-Khu Công nghiệp Tiên Sơn khi chưa có sự
tham gia của tổ chức cơng đồn cơ sở (Cơng ty KIA chưa thành lập tổ chức
cơng đồn cơ sở). Vậy, vấn đề đặt ra về tính hợp pháp của cuộc đình cơng ?
hậu quả pháp lý mà người lao động phải gánh chịu khi đình cơng khơng hợp
pháp ? và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong vấn đề này như
thế nào ?... Đó là các vấn đề đặt ra đòi hỏi phải được giải quyết triệt để
nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng nhân trong q
trình đình cơng, sau khi đình cơng và giải quyết những mâu thuẫn do đình
cơng.
Quả thực, những sai sót bắt đầu từ việc không thực hiện đúng chức

năng của cơ quan quản lý nhà nước về lao động của Sở Lao động-Thương
binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh trong việc thanh tra, kiểm tra và kịp thời tham
9


mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh, chỉ đạo các ngành chức năng bắt buộc thành lập
cơng đồn cơ sở ở Công ty KIA-Khu Công nghiệp Tiên Sơn. Theo Thông tư
liên tịch số 01 năm 2007 về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về
lao động: “(1) Phối hợp với cơng đồn cùng cấp kiểm tra, giám sát việc thi
hành pháp luật lao động và việc thi hành Nghị định 96/NĐ-CP ngày
14/9/2006 của Chính phủ và Thơng tư này; (2) Chỉ đạo Thanh tra lao động
các cấp tăng cường thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động, kịp thời phát
hiện và xử lý các hành vi cản trở hoạt động cơng đồn trong doanh nghiệp
theo đúng quy định của pháp luật” 2. Như vậy, khi 1000 kỹ sư, cơng nhân
Cơng ty đình cơng, Cơng ty vẫn chưa có tổ chức cơng đồn cơ sở. Điều này
vơ hình dung đã đẩy những quyền, lợi ích hợp pháp của các công nhân từ
hợp pháp sang bất hợp pháp theo quy định của pháp luật về Lao động ở Việt
Nam. Nếu Sở Lao động thương binh và Xã hội tỉnh làm đúng chức năng,
thanh tra và xử lý khi Công ty khơng thành lập cơng đồn trong thời hạn 6
tháng khi đi vào hoạt động sản xuất-kinh doanh thì việc đình công của hơn
1000 kỹ sư, công nhân được coi là cuộc đình cơng hợp pháp và quyền lợi
của họ trong q trình đình cơng như: lương và cơng việc sau khi đình cơng
sẽ được đảm bảo theo quy định của pháp luật. Đồng thời, vấn đề giải quyết
mâu thuẫn của cuộc đình cơng giữa chủ sử dụng lao động và tập thể người
lao động sẽ được bảo vệ theo trình tự thủ tục tố tụng giải quyết các tranh
chấp lao động.
Đây cũng là thực trạng “buông lỏng” quản lý của Sở Lao độngThương binh và xã hội nói chung ở nước ta hiện nay. Điều này dẫn đến tình
trạng, đình cơng khơng hợp pháp hoặc khơng được đình cơng khi khơng có
tổ chức cơng đồn cơ sở. Xét trong các quy định hiện hành của Việt Nam,
chỉ những công ty thuộc danh mục quy định tại Nghị định số 51 năm 1996

Ttích mục IV khoản 1,2 Thơng tư liên tịch số 01/2007/TTLT-TLĐLĐVN-BLĐTBXH của Tổng Liên đoàn
lao động Việt Nam-Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ngày 20/4/2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định số 96/2006/NĐ-CP về Ban chấp hành cơng đồn lâm thời tại doanh nghiệp.
2

10


mới khơng được tiến hành đình cơng3, mà trong Cơng ty TNHH KIA Vina
không thuộc danh sách này. Điều này khẳng định, từ khi cấp phép, đăng ký
hoạt động sản xuất-kinh doanh ở Khu Công nghiệp Tiên Sơn, các cơ quan
quản lý nhà nước về lao động; cơng đồn tỉnh,… phải có trách nhiệm trao
đổi với lãnh đạo cơng ty, gặp gỡ người lao động để tuyên truyền, phổ biến
pháp luật; hướng dẫn họ làm các thủ tục cần thiết để trở thành cơng đồn
viên theo Điều lệ Cơng đồn Việt Nam và tiến hành thành lập cơng đồn cơ
sở. Nhưng, chỉ đến khi cuộc đình cơng của hơn 1000 kỹ sư, công nhân xảy
ra, người ta mới biết ở Cơng ty này chưa thành lập cơng đồn cơ sở. Phải
chăng, Sở Lao động; Thanh tra lao động; Cơng đồn tỉnh,… khơng có chức
năng và trách nhiệm trong việc phải thành lập cơng đồn cơ sở cho người
lao động ở các doanh nghiệp nói chung và ở Cơng ty TNHH KIA Vina nói
riêng ?
Như vậy, việc Sở Lao động khơng thực hiện trách nhiệm, phối hợp
với Cơng đồn tỉnh, Ban Quản lý khu kinh tế và người lao động, chủ sử
dụng lao động để bắt buộc tổ chức thành lập cơng đồn cơ sở ngay khi cơng
ty đi vào hoạt động sản xuất-kinh doanh nên đã để lại hậu quả to lớn về
pháp lý cho quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động do tính chất pháp lý
đình cơng khơng được coi là đình cơng hợp pháp. Chẳng hạn như: Nếu là
đình cơng hợp pháp thì hơn 1000 kỹ sư, cơng nhân đình cơng trên vẫn được
hưởng các chế độ về lương, và các quyền đòi hỏi các cơ quan giải quyết
theo quy định của pháp luật. Ngược lại, nếu đình cơng khơng hợp pháp-tức

cuộc đình cơng khơng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, người lao động
tham gia đình cơng phải bắt buộc dừng cuộc đình cơng; khơng được hưởng
các quyền, lợi ích trong q trình đình công; không được quyền khởi kiện

Nghị định số 51/CP ngày 29/8/1996 về việc giải quyết yêu cầu của tập thể lao động tại doanh nghiệp khơng
được đình cơng
3

11


theo thủ tục tố tụng về giải quyết tranh chấp lao động và phải bồi thường
cho chủ sử dụng lao động theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, trách nhiệm quản lý và cách thức giải quyết vụ việc đình
cơng của cơ quan quản lý nhà nước đối với cuộc đình cơng của cơng nhân
Việt Nam tại Cơng ty TNHH KIA Vina ở tỉnh Bắc Ninh.
Ở tình huống trên nêu sự “dè dặt” của Sở Lao động-Thương binh và
Xã hội tỉnh Bắc Ninh và thái độ “thờ ơ” của lãnh đạo Cơng ty TNHH KIA
Vina là có lý do khi giải quyết những yêu cầu của hơn 1000 kỹ sư, công
nhân làm việc cho Công ty. Lý giải hiện tượng này, theo quy định của pháp
luật hiện hành có thể thấy:
Một là, trách nhiệm quản lý của Sở Lao động, Ban Quản lý các khu
công nghiệp, khu chế xuất. Trách nhiệm quản lý của Sở Lao động ở các khu
chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế được xác định rõ trong Điều 23,
khoản 3 Nghị định số 29 năm 2008: “Các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn có trách nhiệm thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực và hành chính lãnh thổ
đối với khu cơng nghiệp, khu kinh tế; hướng dẫn hoặc uỷ quyền cho Ban
quản lý thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước thuộc thẩm quyền theo
quy định của Nghị định này và của pháp luật liên quan” và Điều 35 xác định

quyền hạn, trách nhiệm quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh: “(11) Ban
hành và giám sát thực hiện Quy chế phối hợp giữa Ban quản lý với các cơ
quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; hướng dẫn, giao nhiệm vụ hoặc uỷ
quyền cho Ban quản lý thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về các
lĩnh vực xây dựng, bảo vệ môi trường theo quy định tại mục d và mục h
khoản 2 điều 37 Nghị định này; (14) Tổ chức, kiểm tra, thanh tra và giám
sát việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong q trình hình thành và phát
triển khu cơng nghiệp, khu kinh tế; đối với những những vấn đề vượt quá
12


thẩm quyền thì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang bộ giải quyết hoặc trình
Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định”; và Điều 36 quy định về chức
năng của Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế: “(1) Ban
Quản lý là cơ quan trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức
năng quản lý nhà nước trực tiếp đối với khu công nghiệp, khu kinh tế trên
địa bàn tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định tại Nghị
định này và pháp luật có liên quan; quản lý và tổ chức thực hiện chức năng
cung ứng dịch vụ hành chính cơng và dịch vụ hỗ trợ khác có liên quan đến
hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư trong khu công
nghiệp, khu kinh tế;…”4. Điều này khẳng định, trách nhiệm về quản lý nhà
nước như: thực hiện các quy định quản lý nhà nước về lao động theo chức
năng, nhiệm vụ được pháp luật xác định trong vấn đề thanh tra, kiểm tra
việc chấp hành các quy định, các chế độ đối với người lao động và các thủ
tục hành chính bắt buộc khác của Sở Lao động và Ban Quản lý Khu Công
nghiệp Tiên Sơn khơng được tiến hành theo đúng trình tự, quy định của
pháp luật. Nên, các vấn đề như: chủ lao động trả tiền lương thấp hơn so với
hợp đồng lao động; cắt tiền tăng ca; không tăng lương đúng thời hạn; chế độ
phụ cấp độc hại thấp;… mà Bản Quản lý cũng như Sở, Thanh tra Sở Lao
động không hề biết (chỉ đến khi cuộc đình cơng xảy ra mới biết). Điều này

cho thấy sự thiếu trách nhiệm trong quản lý và thiếu cương quyết trong ban
hành các quyết định xử lý hành chính khi cần thiết của Uỷ ban nhân dân tỉnh
và các cơ quan chun mơn có liên quan. Nếu như, Ban quản lý, Sở Lao
động, Thanh tra Lao động tiến hành đúng chức năng, nhiệm vụ và thẩm
quyền của mình thì những vấn đề nảy sinh trong việc chủ sử dụng lao động
lợi dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật của công dân, tâm lý lo sợ mất việc làm
của cơng nhân,… để có những hành vi thái quá ảnh hưởng trực tiếp đến
Trích Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/3/2008 quy định về khu công nghiệp, khu chế
xuất và khu kinh tế.
4

13


quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động sẽ khơng xảy ra, thậm chí nếu
có xảy ra thì cũng được ngăn chặn và giải quyết kịp thời.
Hai là, phương thức giải quyết của Sở Lao động-Thương binh và Xã
hội tỉnh Quảng Nghãi chưa đảm bảo theo đúng các yêu cầu của pháp luật.
Từ khi cuộc đình cơng nổ ra, Công an tỉnh phải vào cuộc với chức
năng bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội; Sở Lao động tiến
hành thoả hiệp với lãnh đạo Công ty TNHH KIA Vina;… ? là những động
thái mang tính “chữa cháy” của Uỷ ban nhân dân và Sở Lao động tỉnh Bắc
Ninh. Bởi lẽ, cũng xuất phát từ thiếu trách nhiệm trong tổ chức các điều
kiện cần thiết cho quyền lợi của cơng nhân (khơng tổ chức cơng đồn cơ sở)
nên cuộc đình cơng trên bị coi là bất hợp pháp. Điều này đồng nghĩa với
việc người lao động không được bảo vệ theo đúng quy định pháp luật hiện
hành nên Sở Lao động chỉ giám đến “thương lượng” và “thoả hiệp” với lãnh
đạo công ty về quyền lợi của công dân bị vi phạm. Nên những “thoả hiệp”
này khơng có tính khả thi, khơng được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước.
Mặt khác, việc chữa cháy bằng cách “yêu cầu” Công ty TNHH KIA Vina

phải thành lập công đoàn cơ sở vào giữa tháng 5 năm 2009 là việc làm quá
muộn để hậu quả xảy ra là đình công bất hợp của công nhân mới tiến hành
“yêu cầu” Cơng ty thành lập cơng đồn. Việc Cơng ty TNHH KIA Vina có
chấp nhận và giải quyết như họ đã “cam kết” với Sở Lao động hay khơng
cịn khá “mong manh” khi những sai phạm thuộc về cơ quan quản lý nhà
nước về lao động chứ không phải chủ sử dụng lao động.
Khi Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh có Cơng văn u cầu các cơ quan
chức năng giải quyết dứt điểm trường hợp trên, thì ơng Trần Hải Dương, đại
diện sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh cho biết “…lãnh
đạo Công ty TNHH KIA Vina đã thống nhất nhiều vấn đề công nhận yêu
cầu và cam kết bao gồm việc thành lập cơng đồn cơ sở vào giữa tháng 5,
14


…”, điều này khẳng định sự lúng túng của cơ quan chức năng trong việc lựa
chọn hình thức và biện pháp xử lý. Trong khi đó, Ban Quản khu Cơng
nghiệp Tiên Sơn dường như không liên quan trách nhiệm đến vấn đề này.
Điều này cho thấy, sự thiếu hiểu biết của cán bộ, cơng chức có thẩm quyền
về các quy định của pháp luật hiện hành và năng lực giải quyết các tình
huống nảy sinh trong lĩnh vực lao động trên địa bàn tỉnh. Theo đó, hậu quả
trực tiếp là người lao động phải gánh chịu khi bị chủ sử dụng lao động vi
phạm. Đồng thời, còn tạo ra tiền lệ xấu trong cách “hành xử” của đội ngũ
cán bộ, công chức Nhà nước khi xử lý các vấn đề có liên quan.
Các vấn đề trên, xuất phát từ những nguyên nhân căn bản: Trước hết,
do các quy định về đình cơng và giải quyết đình cơng ở Việt Nam hiện hành
chủ yếu được quy định trong Bộ luật Lao động và phần II của Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, thậm chí cả ở nhiều
văn bản dưới luật khác nhau, nên đã tạo ra tính manh mún, tản mạn về các
quy định liên quan đến xác định điều kiện để trở thành đình cơng hợp pháp
và bất hợp pháp; trình tự bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động khi đình

cơng và thủ tục giải quyết quyết tranh chấp trong đình cơng. Chính các quy
định của luật như vậy, là lý do để nhiều người lao động, chủ sử dụng lao
động và ngay cơ quan quản lý nhà nước về lao động khơng biết hoặc cố tình
khơng thực hiện các điều kiện cần và đủ mang tính pháp lý bắt buộc. Tiếp
theo, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước được phân cấp theo lãnh
thổ là Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh chưa làm tròn trách nhiệm để yêu cầu
Sở Lao động thực hiện công tác quản lý chuyên môn của mình (phân cấp
nhiệm vụ, chun mơn). Mẫu thuẫn giữa phân cấp lãnh thổ và phân cấp
chức năng đã là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm,
vô trách nhiệm, không thực hiện trách nhiệm hoặc thực hiện theo kiểu “làm
cho xong” của các cơ quan quản lý nhà nước. Thực tiễn đã đặt ra nhiều vấn
15


đề với những hậu quả do cơ quan quản lý gây ra, song sự bế tắc vẫn là tính
xác định trách nhiệm và chịu trách nhiệm cụ thể của cơ quan quản lý cụ thể
trong điều kiện nền hành chính công truyền thống như Việt Nam hiện nay.
IV. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Qua phân tích tình huống, để xử lý tình huống vừa đảm bảo quyền, lợi
ích hợp pháp của người lao động, vừa đảm bảo đúng các quy định của pháp
luật hiện hành, theo tơi có nhiều phương án khác nhau. Trên cơ sở năng lực
của bản thân và những kinh nghiệm có được từ việc học tập lý luận quản lý
nhà nước và thực tiễn công tác, tôi mạnh dạn nêu lên một số phương án xử
lý cơ bản như sau:
Phương án 1: Ra quyết định hành chính u cầu Cơng ty TNHH KIA
Vina phải thành lập cơng đồn cơ sở theo quy định của pháp luật. Đây là
phương án giải quyết có nhiều ưu điểm, song cũng tồn tại những hạn chế
nhất định.
- Ưu điểm: Bảo đảm giữ nghiêm được kỷ cương pháp luật và trật tự
quản lý hành chính nhà nước. Thơng qua quyết định hành chính mang tính

mệnh lệnh cưỡng chế buộc Công ty TNHH KIA Vina phải cho tiến hành
thành lập cơng đồn cơ sở nhằm đảm bảo cho tiếng nói của người lao động
ở cơ sở và nhất là khi thực hiện biện pháp đình cơng thì cơng nhân sẽ được
pháp luật công nhận và bảo vệ.
- Nhược điểm: Phụ thuộc vào năng lực và trình độ hiểu biết của cơ
quan chuyên môn là Sở Lao động-Thương binh và Xã hội trong tham mưu
và trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành các quyết định hành chính phù hợp.
Mặt khác, sự ưu đãi của Nhà nước ta đối với khu kinh tế cịn nhiều nên phần
nào cũng làm giảm tính “cứng rắn” khi ban hành các quyết định hành chính
đối với các cơng ty, trong đó có Cơng ty TNHH KIA Vina.
16


- Kế hoạch thực hiện: Thực hiện phương án này cần phải tiến hành:
Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Ninh căn cứ vào các quy định
của pháp luật hiện hành, tiến hành các bước cần thiết để đảm bảo cho Cơng
ty TNHH KIA Vina nhanh chóng thành lập cơng đồn cơ sở ở Cơng ty.
Phương án 2: Nghiêm khắc ra quyết định xử lý hành chính đối với
các hành vi của chủ sử dụng lao động vi phạm các quy định về lao động đối
với người lao động ở Khu Công nghiệp Tiên Sơn. Phương án này cũng có
những ưu điểm và có hạn chế như:
- Ưu điểm: Bảo đảm giữ nghiêm được kỷ cương pháp luật và trật tự
quản lý hành chính nhà nước. Thơng qua các quyết định xử phạt hành chính
là biện pháp nhằm “chấn chỉnh” tình trạng vi phạm pháp luật lao động của
chủ sử dụng lao động, kịp thời ngăn ngừa những hành vi có thể xảy ra xâm
hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người lao
động đang lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
- Nhược điểm: Nhược điểm cơ bản vẫn phụ thuộc vào năng lực và sự
“công tâm” của cán bộ, cơng chức có thẩm quyền của các cơ quan như:
Thanh tra Lao động, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội; Chủ tịch Uỷ ban

nhân dân tỉnh Bắc Ninh.
- Kế hoạch thực hiện: Để giải quyết được phương án này, cần phải
tiến hành các bước cơ bản như:
+ Bước 1: Tiến hành Thanh tra xác định vi phạm, mức độ vi phạm và
xây dựng biện pháp xử lý.
+ Bước 2: Tiến hành tổ chức thực hiện theo kết luận thanh tra và
quyết định xử phạt hành chính của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh, nếu
không thực hiện sẽ tiến hành cưỡng chế.

17


Phương án 3: Kết hợp cả phương án 1 và phương án 2 trong giải
quyết tình huống này. Sự kết hợp hai phương án trên là cơ sở để xây dựng
một phương án giải quyết tối ưu cho tình huống trên. Thực hiện tốt phương
án này sẽ có những ưu điểm và nhược điểm như:
- Ưu điểm: Phương án này có nhiều ưu điểm trong việc phát huy các
ưu điểm của cả phương án 1 và phương án 2.
- Nhược điểm: Phụ thuộc vào thái độ “kiên quyết” của cơ quan chức
năng; cán bộ, cơng chức có thẩm quyền. Mặt khác, vấn đề năng lực, phẩm
chất đạo đức cũng sẽ trở thành hạn chế nếu không được quán triệt đầy đủ.
- Kế hoạch thực hiện: Tiến hành các bước theo trình tự, thủ tục đã
được các văn bản quy phạm pháp luật quy định theo yêu cầu của mỗi nội
dung mà phương án đề ra. Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện đối với
từng nội dung cụ thể.
V. KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐÃ LỰA
CHỌN
Như đã nêu ở trên, tiểu luận lựa chọn phương án tối ưu là sự kết hợp
cả hai phương án 1 và phương 2 là vì: Nếu chỉ thực hiện phương án 1 sẽ chỉ
giải quyết được vấn đề nảy sinh các cuộc đình cơng của cơng ty và những

mâu thuẫn nảy sinh giữa người lao động và chủ sử dụng lao động. Mặt khác,
các công ty trong Khu Công nghiệp Tiên Sơn nói chung và Cơng ty TNHH
KIA Vina nói riêng sẽ có cơ sở để tiếp tục vi phạm như: cúp lương công
nhân; cắt xén lương, thưởng; chậm trả lương; thậm chí có thể xúc phạm
danh dự, sức khoẻ của người lao động;… Do vậy, cần thiết phải thực hiện
cả phương án 2.
Để xử lý kế hoạch thực hiện phương án 3 (kết hợp phương án 1 và
phương án 2) các cơ quan chức năng, người có thẩm quyền cần tiến hành
theo các bước cụ thể sau:
18


Bước 1: Tiến hành ra Quyết định hành chính buộc Công ty
TNHH KIA Vina phải thành lập tổ chức công đoàn cơ sở.
Thực hiện kế hoạch này, trước hết Sở Lao động-Thương binh và Xã
Hội làm văn bản báo cáo tình hình khơng chấp hành quy định tại Nghị định
96 năm 2006 của Công ty TNHH KIA Vina về thành lập tổ chức cơng đồn
cơ sở. Trên cơ sở, đó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh ban hành
Cơng văn u cầu các cơ quan: Cơng đồn tỉnh; Thanh tra Lao động; Sở
Lao động;… tiến hành các thủ tục cần thiết để thành lập tổ chức cơng đồn
cơ sở tại Công ty TNHH KIA Vina. Cụ thể các trình tự cần tiến hành để
thành lập cơng đồn cơ sở như:
- Cơng đồn tỉnh tiến hành trao đổi, tham khảo ý kiến lãnh đạo Công
ty TNHH KIA Vina về phương thức thành lập cơng đồn cơ sở ở Cơng ty.
Tiến hành thông báo cho người sử dụng lao động tại Công ty về kế hoạch
tuyên truyền, vận động người lao động gia nhập cơng đồn; ra quyết định
kết nạp đồn viên theo quy định của Điều lệ Cơng đồn Việt Nam; lập danh
sách các công nhân đang lao động theo hợp đồng lao động có thời hạn từ 6
tháng trở lên của Công ty; ra Quyết định chỉ định Ban chấp hành Cơng đồn
lâm thời và Chủ tịch Ban chấp hành Cơng đồn lâm thời tại Cơng ty. Quyết

định Số lượng Phó chủ tịch và Uỷ viên Ban chấp hành lâm thời. Ban chấp
hành cơng đồn lâm thời này sẽ tiến hành đi vào hoạt động ngay theo thời
hạn mà Điều lệ Cơng đồn Việt Nam quy định. Ban chấp hành cơng đồn
lâm thời phải tiến hành thực hiện tun truyền phát triển đồn viên và đề
nghị Cơng đồn tỉnh ra quyết định thành lập cơng đồn cơ sở khi đủ điều
kiện theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam (chậm nhất là sau 6
tháng).
- Sở Lao động-Thương binh và Xã hội kết hợp với Cơng đồn tỉnh
kiểm tra, giám sát việc thi hành các nội dung trên. Đồng thời, Thanh tra lao
19


động tiến hành thanh tra trong thời hạn 6 tháng và các điều kiện khác nhằm
đảm bảo cho tổ chức cơng đồn cơ sở lâm thời chính thức được cơng nhận
và là tổ chức của người lao động ở Công ty.
Bước 2: Thanh tra và ra quyết định xử lý hành chính đối với các
hành vi của chủ sử dụng lao động vi phạm các quy định về lao động đối
với người lao động ở Công ty TNHH KIA Vina.
Để thực hiện kế hoạch này, cần phải tiến hành nhiều thủ tục, ban hành
nhiều quyết định cần thiết theo quy định của pháp luật.
- Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, Chánh thanh tra Lao động tỉnh
Bắc Ninh tiếp xúc với những người đình cơng (hơn 1000 kỹ sư, cơng nhân)
để nắm bắt các ngun nhân của việc đình cơng. Từ đó làm văn bản trình
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh về những sai phạm của Công ty TNHH KIA
Vina, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định thanh tra đột xuất
về những sai phạm nêu trên. Trong Quyết định thanh tra đột xuất cần xác
định đầy đủ các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan tham gia, trong đó
cơ quan chịu trách nhiệm chính là Thanh tra lao động tỉnh và thậm chí yêu
cầu cả những chuyên gia chuyên môn về các lĩnh vực cần thanh tra (trưng
tập chuyên gia tư vấn); thời gian, địa điểm và phương thức tiến hành thanh

tra, các cơ sở vật chất bảo bảo cho buổi thanh tra.
- Thanh tra lao động tỉnh tiến hành thanh tra gồm các thành phần như
đã được xác định theo Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh. Lập biên bản
thanh tra, yêu cầu lãnh đạo Công ty TNHH KIA Vina ký vào các vấn đề đã
được thanh tra và xác lập trong biên bản thanh tra. Mỗi nội dung trong biên
bản thanh tra là đều được xác định đề xuất phương án xử lý hành chính cụ
thể đối với những hành vi mà Công ty TNHH KIA Vina vi phạm với cơng
nhân theo các mức xử phạt hành chính quy định hiện hành của pháp luật.
20


- Biên bản thanh tra được gửi về cho Chánh thanh tra Sở Lao động,
trên cơ sở đó làm văn bản tường trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ra quyết
định xử phạt hành chính và buộc Cơng ty TNHH KIA Vina phải chấp hành
nghiêm các quy định của pháp luật về lao động. Khi có quyết định xử phạt,
tiến hành tổ chức thực hiện quyết định này bằng cách, Thanh tra viên gặp
trực tiếp lãnh đạo Công ty TNHH KIA Vina để công bố quyết định xử phạt,
yêu cầu công ty chấp hành nghiêm các quy định trong Quyết định. Trong
trường hợp Cơng ty TNHH KIA Vina cố tình khơng chấp hành Quyết định
xử phạt hành chính của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thì Chánh thanh tra
Lao động đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định
cưỡng chế áp dụng quyết định xử phạt hành chính. Việc tiến hành cưỡng
chế phải đảm bảo đúng trình tự, yêu cầu và nội dung cưỡng chế trong Quyết
định đã xác định.
Như vậy, rõ ràng Sở Lao động-Thương binh và Xã hội không cần
phải tiến hành các hành vi mang tính “thoả hiệp”, “chữa cháy”,… như trong
tình huống nêu trên. Đây cũng chính là bài học kinh nghiệm cần được rút ra
trong quá trình quản lý Nhà nước về các lĩnh vực khác ở địa phương.
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị

Để tránh những trường hợp vi phạm đến quyền, lợi ích của người lao
động Việt Nam ở khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế, tiểu luận nêu
lên một số kiến nghị cơ bản như:
Một là, cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thường xuyên các
doanh nghiệp trong việc chấp hành các quy định của Luật lao động. Tuy
nhiên, cơ chế vận hành hiện nay cịn nhiều bất cập. Chỉ có Ban Thanh tra Sở
Lao động-Thương binh và Xã hội mới có quyền kiểm tra, thanh tra về việc
thực hiện Bộ luật lao động tại các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu
21


cơng nghiệp. Mặt khác, phải kịp thời rà sốt các quy định, chấn chỉnh kịp
thời các sai phạm ở những cơ sở sản xuất-kinh doanh có sử dụng lao động
trên địa bàn tỉnh. Tránh tình trạng, để xảy ra sự việc như tình huống nêu
trên, Uỷ ban nhân dân, Sở Lao động,… mới tìm cách giải quyết.
Hai là, xây dựng đề án trao thẩm quyền hành chính cho cán bộ cơng
đồn cơ sở. Bởi lẽ, cán bộ cơng đồn cơ sở hiện vẫn mang hai tính chất, vừa
với tư cách đại diện cho người lao động ở công ty, vừa là người lao động
trực tiếp do công ty hợp đồng và trả lương. Như vậy, sẽ không tránh khỏi
những “e dè” trong hoạt động cơng đồn; có tâm lý “lo sợ” chủ sử dụng lao
động;… Do đó, hiệu quả của cơng đồn ở Cơng ty khơng cao, thậm trí
khơng giám đấu tranh trước những hành vi vi phạm của chủ sử dụng lao
động. Để đảm bảo cho cán bộ công đoàn cơ sở thực hiện được chức năng
được giao, tổ chức Cơng đồn các cấp cần tiến hành các hoạt động cần thiết
nhằm bảo đảm cho cán bộ cơng đồn cơ sở hiểu và nắm chắc các quy định,
quy chế liên quan đến hoạt động cơng đồn tại các đơn vị sản, xuất kinh
doanh trong khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế. Mặt khác, phối hợp
với chính quyền địa phương cơ sở và Ban quản lý khu chế xuất, khu cơng
nghiệp, khu kinh tế nhằm tạo ra tính phối hợp hoạt động trong thực hiện
nhiệm vụ được giao.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị-xã hội, nhất
là ở cơ sở trong việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật cho công nhân,
chủ sử dụng lao động trên địa bàn nhằm nâng cao khả năng nhận thức về các
quy định của pháp luật Việt Nam và các tập quán tốt đẹp của địa phương.
Bốn là, các cơ quan chức năng như Ban quản lý các khu chế xuất, khu
công nghiệp, khu kinh tế; cơng đồn, các cấp liên quan cần giám sát chặt chẽ
các doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định của Nhà nước về quyền
lợi của người lao động. Bản thân người lao động cũng cần có ý thức tìm hiểu
22


Luật lao động để tự bảo vệ quyền lợi của mình. Khi người lao động tạm thời
bị ngắt quãng thời gian làm việc hoặc chuyển sang cơ quan, đơn vị khác,
thường khơng đề nghị được chứng nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội trước
đó.
2. Kết luận
Quản lý nhà nước về lao động ở địa phương hiện nay là vấn đề nhảy
cảm, phức tạp liên quan đến nhiều quy định, nhiều cơ quan quản lý có liên
quan. Hiện nay, ngành lao động, thương binh và xã hội (LĐTB&XH), liên
đoàn lao động (LĐLĐ) và cơng an là những lực lượng chính tham gia giải
quyết các vụ đình cơng. Do vậy, việc thông báo và đề nghị bằng văn bản tới
các cơ quan nhà nước tại địa phương, cũng như thông báo cho cơng đồn
cấp trên được biết để có biện pháp can thiệp kịp thời là điều cần thiết và
thiết thực. Trong trường hợp doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu kinh tế mở thì việc liên hệ và thông báo cũng cần được làm
tương tự đối với các cơ quan có trách nhiệm trong khu vực đó.
Hầu hết các cuộc đình cơng xảy ra đều bắt nguồn từ những bức xúc có
thật của người lao động về một chính sách mà theo họ là chưa hợp lý, chưa
phù hợp với thực tế hay ít ra là chưa công bằng trong nội bộ doanh nghiệp.
Ban đầu những bức xúc, bất đồng này chỉ là suy nghĩ của một nhóm nhỏ

người lao động, nhưng theo “tâm lý lan truyền” nên khơng lâu sau đó, phần
lớn cơng nhân trong phân xưởng, nhà máy biết về việc này và dù muốn hay
khơng, bất đồng sẽ dễ có nguy cơ bùng phát thành một cuộc đình cơng. Vì
vậy, việc các cơ quan nhà nước tham gia vào quá trình giải quyết đình công
tại doanh nghiệp sẽ tạo một số cơ hội thuận tiện. Với sự tham gia và giải
thích của tổ chức cơng đồn trong cơ quan giúp cho người lao động hiểu rõ
tính pháp lý của cuộc đình cơng, sự việc có thể được giải quyết nhanh chóng
thơng qua con đường thương lượng.
23


Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động khơng chỉ là nghĩa
vụ của cơng đồn và chính quyền các cấp, của các cơ quan chức năng mà
còn là trách nhiệm của chính những người sử dụng lao động. Đây là nền
tảng vững chắc bảo đảm cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ổn định
và là yếu tố quan trọng để nền kinh tế nước ta phát triển bền vững.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử ngày 30 tháng 4 năm 2009.
2. Bộ luật lao động 1995; luật sửa đổi bổ sung một số điều Bộ luật lao
động 2003.
3. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 ngày 26
tháng 11 năm 2003.
4. Nghị quyết số 17 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X ngày 1 tháng 8 năm 2007 về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước trong những
năm tới.

5. Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động
về hợp đồng lao động.
6. Nghị định số 04/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2005 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao
động về khiếu nại, tố cáo lao động.
7. Nghị định số 51/CP ngày 29/8/1996 về việc giải quyết yêu cầu của tập
thể lao động tại doanh nghiệp không được đình cơng
8. Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/3/2008 quy định
về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
9. Nghị định số 99/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 8 năm 2003
về việc ban hành quy chế khu Công nghệ cao
10. Pháp lệnh thi hành án Dân sự ngày 14 tháng 01 năm 2004 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.
11. Thông tư liên tịch số 01/2007/TTLT-TLĐLĐVN-BLĐTBXH của Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam-Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội
ngày 20/4/2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
96/2006/NĐ-CP về Ban chấp hành cơng đồn lâm thời tại doanh nghiệp.
25


×