Luận văn
TÍNH TỐN THIẾT KẾ
NỒI ĐƯỜNG HỐ SẢN
XUẤT BIA
1
PHẦN 1:
CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA
CHƯƠNG 1
NGUYÊN LIỆU SẢN XUẤT BIA
1.1 Malt đại mạch, nguyên liệu chính trong sản xuất bia
1.1.1 Đặc tính thực vật
Đại mạch thuộc nhóm thực vật có hạt, thuộc họ lúa mì. Đại mạch có hai
loại là đại mạch mùa đông và đại mạch mùa xuân, chu kỳ sinh trưởng của đại
mạch là khoảng 100-120 ngày, tất cả các giống đại mạch chia ra làm hai
nhóm chính là đại mạch hai hàng và đại mạch nhiều hàng. Trong công nghiệp
sản xuất bia nghười ta chủ yếu dùng đại mạch hai hàng vì loại đại mạch này
cho chất lượng bia cao, vị bia thơm ngon hơn loại bia được sản xuất từ đại
mạch nhiều hàng.
1.1.1 Thành phần hoá học của đại mạch
Thành phần hoá học của đại mạch rất phức tạp. Nó phụ thuộc vào
giống đại mạch, điều kiện đất đai, khí hậu từng vùng, kỹ thuật canh tác và
điều kiện bảo quản. Các chỉ số về thành phần hoá học của đại mạch là nhân tố
quyết định đến chất lượng bia và để kiểm tra xem đại mạch có đủ u cầu về
sản xuất bia khơng ta kiểm tra một số thành phần sau:
1.1.2.a Thành phần nước trong đại mạch
Nước của đại mạch có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình vận chuyển và
bảo quản hạt. Hàm ẩm cao sẽ kích thích q trình tự hơ hấp và tự nóng lên
của hạt. Hai q trình này là nhân tố quan trọng nhất làm hao tổn chất khơ.
Bên cạnh đó thủy phần cao q mức sẽ cho phép vi sinh vật phát triển mạnh
đặc biệt là các loại sinh vật gây thối rửa hạt.Vì vậy để dễ dàng có các biện
pháp bảo quản tốt đại mạch tránh bị vi sinh vật xâm nhập thì ta cần phân loại
đại mạch theo hàm ẩm như sau:
Đại mạch khô: hàm ẩm W<14%
Đại mạch trung bình: hàm ẩm W=14,5%-15%
2
Đại mạch ẩm: hàm ẩm W=15,5%-17%
Đại mạch ướt: hàm ẩm W>=17%
Để tránh hiện tượng thối rửa hạt do hàm ẩm quá cao gây nên trước khi
nhập kho đại mạch cần sấy sơ bộ bằng cách thổi luồng khí nóng với nhiệt độ
khoảng 380C - 400C. Cần lưu ý khơng để nhiệt độ lên q cao vì vậy sẽ hạn
chế khả năng nảy mầm của hạt đại mạch.
1.1.2.b Thành phần tinh bột trong đại mạch
Tinh bột là thành phần chiếm vị trí số một về khối lượng cũng như về
tầm quan trọng trong công nghệ sản xuất bia. Hơn một nửa lượng chất khô
của đại mạch là tinh bột. Trong sản xuất bia tinh bột có hai chức năng là :
-Là nguồn thức ăn dự trữ cho phôi
-Là nguồn cung cấp chất hoà tan cho dịch đường trước khi lên men
Tinh bột có các kích thước khác nhau và chia ra làm hai loại, loại hạt có
kích thước to, chúng có đường kính 20-30 m , cịnloại hạt bé có kích thước
khoảng 2-10 m . Trọng lượng riêng tinh bột khá cao khoảng 1,5-1,6; nhiệt
lượng khoảng 0,27Kcal/kg.0C. Vì vậy trong dung dịch chúng lắng xuống rất
nhanh. Tính chất này rất quan trọng trong quá trình chế biến dịch đường. Một
đặc điểm khác của tinh bột là khi hòa vào nước và nâng nhiệt độ lên thì tinh
bột sẽ hút nước và nở ra vì vậy thể tích tinh bột tăng lên rất nhanh đến một
thời điểm nhất định hạt tinh bột bị phá vỡ ra và bắt đầu hình thành dung dịch
keo, hiện tượng này gọi là hiện tượng hồ hố tinh bột. Tinh bột sau khi hồ hố
thì sẽ đường hóa nhanh hơn và triệt để hơn.
1.1.2.c Thành phần Xenlulo trong đại mạch
Xenlulo chủ yếu nằm trong vỏ trấu của đại mạch và chiếm khoảng 20%
chất khô của vỏ. Phân tử xenlulo bao gồm 2000-10000 gốc đường đơn
glucoza xếp thành mạch dài xoắn lại từng chùm. Do cấu trúc như vậy nên
xenluloza đóng vai trị đặc biệt quan trong quá trình lọc dịch đường vì lớp vỏ
trấu sẽ tạo lớp màng lọc lý tưởng.
1.1.2.d Thành phần Polyphenol và chất đắng
3
Polyphenol và chất đắng tập trung chủ yếu trong lớp vỏ đại mạch. Phần
lớn những hợp chất hoà tan trong bia đều là những dẫn xuất của Catechin.
Những hợp chất này có những tính chất có lợi cho sản xuất bia vì nó dễ dàng
kết hợp với Protit cao phân tử để tạo thành phức chất có khả năng dễ kết lắng
làm tăng độ bền của keo sản phẩm. Mặt khác sự hoà tan của Polyphenol vào
dung dịch đường lại là nhân tố không tốt làm xấu đi hương vị của bia. Để loại
bỏ các chất chát Polyphenol thì ta ngâm hạt trong môi trường kiềm nhẹ.
1.1.2.e Thành phần Vitamin và chất khống
Đại mạch chứa trong thành phần của nó các loại Vitamin B1,B2,B6,C và
các tiền vị Vitamin khác. Tuy hàm lượng Vitamin rất ít nhưng hệ Vitamin
trong đại mạch đóng vai trị quan trọng trong cơng nghệ sản xuất bia vì
Vitamin đóng vai trị là nhân tố điều hồ sinh trưởng của mầm.
Ngồi ra trong đại mạch cịn có rất nhiều các chất khoáng như
P2O 5,SiO2, MgO, CaO, Na2O, Fe2O3....chất khống đóng vai trị quan trọng
trong q trình sản xuất bia đặc biệt là nguyên tố Phốt pho đóng vai trò chủ
yếu trong hệ hống đệm của dịch đường.
1.1.2.f Thành phần Enzim
Enzim là hợp chất hữu cơ có hoạt tính sinh học rất cao, có cấu tạo phân
tử rất phức tạp và giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong cơng nghệ sản xuất
bia, trong giai đoạn hình thành hạt, hoạt lực của nhóm Enzim rất cao, đến giai
đoạn hạt chín hoạt lực của Enzim giảm một cách đáng kể và đến lúc sấy hạt
đến hàm ẩm 13% thì hầu hết các hệ Enzim trở thành trạng thái liên kết, đến
giai đoạn ngâm hạt thì hạt hút nước lúc này hệ Enzim được giải phóng khỏi
trạng thái liên kết và chuyển thành trạng thái tự do, đến giai đoạn ươm mầm
thì hoạt lực của Enzim đạt đến mức tối đa nhờ đó mà đến lúc đường hóa
chúng có khả năng thuỷ phần hầu như toàn bộ các hợp chất cao phân tử trong
nội nhũ của hạt thành chất chiết của dịch đường.
4
Ngồi ra trong đại mạch cịn có chứa rất nhiều chất khác có ảnh hưởng
đến cơng nghệ sản xuất bia cũng như chất lượng bia như các hợp chất của
Fitin, các hợp chất khơng có chứa N2 và các hợp chất có chứa N2.
Trong cơng nghiệp sản xuất bia, đại mạch dùng để sản xuất Malt phải
có tỷ lệ nảy mầm và cường độ nảy mầm cao (thường tỷ lệ này chiếm khoảng
90%-95%). Malt đại mạch là hạt đại mạch được nảy mầm trong những điều
kiện nhân tạo có nhiệt độ và độ ẩm thích hợp. Nhiệm vụ của qúa trình nảy
mầm là tích luỹ và làm giàu hệ Enzim trong đại mạch mà không làm tiêu hao
nhiều tinh bột. Sau quá trình nảy mầm, trong những điều kiện tiêu chuẩn của
cơng nghệ, hạt đại mạch có nhiều thay đổi về thành phần hoá học. Dưới tác
dụng của Enzim, Hemilluloza, một số Polisacarit bị thuỷ phân tạo nên Hexoza
và Pentoza để xây dựng mô và rễ lá mầm. Các Enzim Amilaza phân huỷ tinh
bột (thường có từ 5%-10% tinh bột bị thuỷ phân ở giai đoạn này) tạo nên
Glucoza, Malttoza, Maltodetim và một lượng lớn sacaroza, phần lớn các loại
đường được tạo nên dần dần bị tiêu hao bởi quá trình hơ hấp và xây dựng tế
bào mới cho mầm.Số đường còn lại bị giữ trong Malt ở dạng tự do, hàm
lượng loại đường này rất lớn gấp 3-4 lần so với hàm lượng của chúng trong
đại mạch. Vì vậy hạt malt có vị ngọt cịn hạt đại mạch khơng có vị ngọt.
Đồng thời với hoạt động của các Enzim trên, nhóm Enzim Proteinnaza
cũng tăng cường hoạt động, chúng thuỷ phân chất đạm dữ trữ trong hạt, các
chất cao phân tử và các hợp chất thấp phân tử như Pepton, Peptit, các axít
Amin và được chuyển đến mầm dưới dạng chất hoà tan trong nước, song song
với hiện tượng thuỷ phân chất đạm dữ trữ trong hạt cịn có hiện tượng ngược
lại là tổng hợp chất đạm mới. Đến cuối giai đoạn nảy mầm trong hạt đại mạch
có khoảng 35%-41% đạm hồ tan, lượng Nitơ Amin sau thời kì nảy mầm có
khi lên tới sáu lần so với lúc ban đầu. Như vậy Malt đại mạch dùng trong sản
xuất bia có nhiều ưu điểm như đã qua q trình nảy mầm, nên một phần tinh
bột trong đại mạch đã được thuỷ phân và cắt ngắn bớt mạch tạo điều kiện
thuận lợi cho q trình nấu đường hố sau này. Đặc biệt là quá trình nảy mầm
5
khơng chỉ đưa các Enzim có sẵn trong hạt đại mạch từ trạng thái tự do, có
hoạt tính cao mà tạo nên hàng loạt các Enzim mới .
1.2 Tiểu mạch
Hạt tiểu mạch gần giống hạt đại mạch về thành phần chất, chỉ một điều
khác là hạt tiểu mạch khơng có lớp vỏ trấu. Hạt tiểu mạch chiếm 60%-65%
tinh bột; 2,5%-3% Saccaroza; 2,5% Glucoza; 12%-13%Protein;1,5%-2% chất
béo..., khi bột tiểu mạch tiếp xúc với nước thì protein của chúng dễ dàng tham
gia vào q trình Hydrat hố tạo thành phức chất keo tụ. Phức chất này rất dai
dẻo và có thể chuyển thành dạng sợimột cách dễ dàng.
1.3 Ngô
Trong công nghệ sản xuất bia, ngô dùng để thay thế Malt đại mạch chủ
yếu là loại trắng đục và sử dụng dưới dạng bột đã nghiền nhỏ. Nhưng có một
trở ngại lớn khi đưa ngô vào sản xuất bia là phôi của chúng quá lớn, hàm
lượng chất béo nhiều,nên làm cản trở quá trình lọc và làm giảm độ bền keo
cũng như tăng khả năng tạo bọt của bia, vì vậy để sử dụng loại cốc này một
cách có hiệu quả thì trước lúc đưa vào chế biến dịch đường, ngô phải qua một
giai đoạn tách phôi và vỏ, để làm được việc này ta ngâm ngơ vào trong nước
ấm 500C có chứa SO2 ở nồng độ 0,1-0,2%. Thời gian ngâm khoảng 30giờ50giờ với mục đích làm hạt ngơ mềm ra để khi tách phơi hạt ngơ được
ngun vẹn. Khí SO2 là tác nhân vừa ngăn ngừa sự phát triển của vi sinh vật,
vừa có tác dụng làm cho màng Protein bị trương lên, phân rã ra và khuếch tán
vào dung dịch.
1.4 Thóc ngun lỉệu thay thế chính trong cơng nghệ sản xuất bia
1.4.1 Đặc trưng chung của thóc
Cây lúa là cây lương thực chính của gần nửa dân số thế giới, đặc biệt
được trồng nhiều ở các nước vùng Đông Nam Á. Sản lượng thóc trên tồn thế
giới tập trung chủ yếu ở Châu Á . Năm 1991 tổng sản lượng thóc trên tồn thế
giới là 521,4 triệu tấn thì sản xuất 478,6 triệu tấn, Châu Phi 12,3 triệu tấn và
châu đại dương 0,8 triệu tấn. Việt nam mấy năm gần đây sản lượng lúa tăng
6
lên đáng kể và sản lượng xuất khẩu ngày càng tăng. Lúa là cây ưa ẩm và ấm
nên trồng nhiều ở châu thổ, các vùng nhiệt đới và ôn đới.
1.4.2 Cấu tạo và tính chất của hạt thóc
Cấu tạo của hạt thóc bao gồm vỏ trấu, vỏ quả, vỏ hạt,lớp Alơrông,nội
nhũ và phôi. Tuỳ thuộc vào giống lúa và điều kiện phát triển của cây lương
thực mà vỏ trấu của hạt thóc dao động trong khoảng lớn 10%-33% trọng
lượng tồn hạt. bình thường thành phần vỏ trấu chiếm 17%-22%. Vỏ quả của
hạt thóc rất mỏng gồm nhiều các tế bào vàng đục và nâu hồng. Nội nhũ của
hạt thóc phụ thuộc vào loại giống và điều kiện phát triển mà có màu trắng
hoặc màu đục. Độ trắng trong của hạt khơng phụ thuộc vào thành phần hố
học của nó. Hạt thóc có kích thước nhỏ hơn hạt đại mạch, trọng lượng của hạt
thóc khoảng 15-35 g, cịn trọng lượng hạt đại mạch 30-35 g. Lớp Alơrơng của
hạt thóc chỉ là một lớp tế bào cịn lớp Alơrơng của đại mạch có 4 lớp tế bào.
1.4.3 Thành phần hố học của hạt thóc
1.4.3.a Các chất Gluxit
Gluxit ở trong gạo chủ yếu dưới dạng tinh bột và chiếm khoảng70%80% trọng lượng gạo. Tinh bột gạo tẻ chứa 17% Amilaza và 83%
amilopectin. Tinh bột gạo có kích thước nhỏ nhất so với các loại tinh bột của
các câykhác.Nhiệt độ hồ hoá tinh bột thay đổi từ 75-850C phụ thuộc vào loại
gạo và điều kiện canh tác.
1.4.3.b Các chất chứa Nitơ
Hàm lượng protein trong gạo là 6%-8%. Thành phần protein của gạo
chủ yếu là Gluxit, Protein, trong gạo chứa 18 axit Amin mà trong đó có nhiều
axit Amin khơng thay thế.
1.4.3.c Các chất tro, Vitamin và Lipit trong gạo
Chất tro chủ yếu tập trung ở vỏ quả và vỏ hạt và chủ yếu là Phốtpho,
thường ở dạng liên kết của phitin, Nucleprotein. Ở trấu chất tro chủ yếu là
Oxit Silic. Ngồi ra,trong thóc có chứa nhiều Vitamin nhóm B, chủ yếu ở
7
phôi và vỏ. So với các loại ngũ cốc khác thì thì chất béo trong thóc rất ít chỉ
khoảng 1%-2%.
Những đặc tính của gạo khác với đại mạch có tá dụng đến quá trình nấu
bia là tinh bột của gạo bền hơn tinh bột của đại mạch khi bị Amilaza tác dụng.
Trong thời gian thuỷ phân 4 giờ ở nhiệt độ 65 0C dưới tác dụng của Amilaza
tinh bột gạo thuỷ phân 31,3% còn tinh bột đại mạch thuỷ phân 96,3%. Để
thuỷ phân được tốt thì tinh bột gạo cần được hồ hoá và đường hoá tốt. Về
thành phần hoá học, gạo có hàm lượng tinh bột lớn nên dịch chiết nhiều.
Nhưng trong gạo hàm lượng hợp chất Nitơri nhiều nên trong nấu bia cần có
những biện pháp thích hợp.
1.5 Hoa Hublông
Hoa Hublông là nguyên liệu cơ bản, rất quan trọng trong công nghệ sản
xuất bia. Hoa Hublông làm bia có vị đắng dịu, hương thơm rất đặc trưng, làm
tăng khả năng tạo bọt và giữ bọt, làm tăng độ bền keo và làm ổn định độ bền
sinh học của sản phẩm, do những đặc tính đặc biệt như vậy nên hoa Hublơng
ln giữ vai trị duy nhất về tạo mùi cho bia trong cơng sản xuất bia.
Thành phần hố học của hoa Hublông phụ thuộc vào chủng loại giống ,
điều kiện khí hậu, đất gieo trồng, kỹ thuật canh tác.... Thành phần hố học của
hoa Hublơng bao gồm:
Nước :
11%-13%;
Protêin:
15%-21%;
Xenlulơza:
12%-14%;
Chất khống: 5%-8%;
Tinh dầu thơm: 0,3%0-1%;
Hợp chất khác: 26%-28%;
Trong các phành phần chính được nêu ra ở trên có trị nhất là chất đắng và
tiếp theo là tinh dầu thơm.
8
CHƯƠNG 2
QUY TRÌNH CƠNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA
Bia là sản phẩm thực phẩm, thuộc loại đồ uống có độ cồn thấp, là sản
phẩm của quá trình lên men rượu ở nhiệt độ thấp dịch đường lấy từ Malt, gạo
và các loại hạt giàu tinh bột và protein... như Ngô, Tiểu mạch. Bia có hàm
lượng cồn từ 1,7%-7% và khoảng 0,3%-0,5% khí CO2 tính theo trọng lượng,
đây là hai sản phẩm thường trực của hai quá trình lên men dịch đường đã
Hublơng hố.
Cơng đoạn sản bia nói chung đi theo những bc chớnh sau:
Malt
Nấu dịch Malt(Đường hoá)
Lọc
Hoa hu lông
Nấu dịch Malt với hoa hulông
Lọc
Lên men và tàng trữ
Lọc
Bia hơi
Chiết chai
Thanh trùng
Bia chai thµnh phÈm
Hình 1: Sơ đồ dây chuyền cơng nghệ sản xuất bia
Quy trình sản xuất bia
Ban đầu Malt đem đi nghiền nhằm tạo những điều kiện thuận lợi cho sự
tiến triển các biến đổi lí, sinh hố trong q trình đường hố, nhằm làm thế
nào để thu được lượng chất hồ tan lớn nhất. Vì thế thiết lập một diều kiện
thích hợp về mối quan hệ giữa nước và những thành phần của hạt Malt là một
điều rất quan trọng và thực hiện được quá trình này thì sẽ giúp cho quá trình
lên men xảy ra tốt hơn đồng thời q trình hình thành chất hồ tan có hiệu quả
nhất.Với ý nghĩa như vậy Malt cần thiết phải nghiền mịn. Mức độ nghiền
9
thích hợp của Malt phụ thuộc vào cấu trúc của nó tức là phụ thuộc vào độ
nhuyễn của hạt. Nếu Malt kém nhuyễn thì chế độ nghiền mịn với nội nhũ là
cần thiết để thu nhận được hàm lượng chất chiết lớn nhất. Cịn nếu Malt có độ
nhuyễn tốt thì mức độ nghiền có thể thơ hơn. Mức độ nghiền còn phụ thuộc
vào thiết bị và phương pháp lọc bã. Nếu lọc bã bằng phương pháp dùng máy
lọc ép khung bản thì ta có thể nghiền ở mức độ mịn hơn, cịn nếu lọc bã bằng
thùng lọc đáy bằng thì mức độ nghiền Malt phải thô hơn.
Malt sau khi được nghiền được chuyển đến cơng đoạn đường hố
ngun liệu nghiền. Mục đích của q trình đường hố là nhằm chuyển về
dạng hồ tan tất cả những chất có phân tử lượng cao nằm dưới dạng khơng
hồ tan của bột Malt, chúng sẽ cùng với chất hoà tan trong tinh bột tạo thành
chất chiết của dịch đường. Trong trong Malt thường có sẵn 15% chất khơng
hồ tan điều này nói lên rằng phần lớn chất trong Malt ở dạng khơng hồ tan.
Thơng thường hiệu suất chất hồ tan trong dịch đường là từ 75%- 78% chất
khô của Malt, nghĩa là trong q trình đường hố hàm lượng chất hồ tan sẽ
tăng từ 60%-63%. Sự phân cắt các chất hữu cơ phức tạp trong Malt là kết quả
của sự tác dụng của hệ thống men sẵn có trong Malt. Thực chất của các quá
trình ở giai đoạn này là sự thủy phân các hợp chất cao phân tử dưới xúc tác
của Enzim, trong thành phần sản phẩm thuỷ phân chiếm nhiều nhất về khối
lượng là là đường và Dextrim. Vì lý do này mà ta gọi tồn bộ q trình thuỷ
phân ở giai đoạn này là bằng tên gọi đơn giản là q trình đường hố. Cháo
Malt sau khi nấu xong được đưa sang công đoạn lọc dịch đường.
Cháo Malt sau khi đường hố xong gồm hai phần: Phần đặc và phần
lỗng. Phần đặc bao gồm tất cả những phần tử nhỏ khơng hồ tan của bột và
phần lỗng là dung dịch nước chức năng tất cả những chất hoà tan của Malt,
ta gọi là dịch đường. Mục đích của q trình lọc là nhằm tách phần lỏng riêng
ra khỏi phần đặc. Đặc trưng của cháo Malt là trong đó có rất nhiều phần tử
rắn.Trong quá trình lọc những phần tử rắn này sẽ tạo thành một lớp nguyên
liệu lọc phụ. điều này có ý nghĩa khá lớn trong khi lọc.
10
Quá trình lọc cháo Malt tiến triển theo hai giai đoạn. Giai đoạn tách phần
dịch đường ra khỏi phần đặc, và giai đoạn thu hồi những phần hồ tan cịn
bám ở phần bã lọc bằng nước rửa bã. Lúc đầu lớp màng lọc không giữ lại
được tất cả những phần tử rắn rất nhỏ nằm trong dung dịch đường, những
phần tử này đi qua lớp màng lọc và làm cho dịch đường ban đường bị đục,
nhưng sau đó những phần tử rắn rất nhỏ này dần dần tụ lại trên màng lọc, tạo
lên một lớp màng lọc phụ, do vậy càng về sau dịch đường lọc được càng
trong.
Tốc độ lọc phụ thuộc vào mức độ nghiền Malt, mức độ phân huỷ Malt,
cấu tạo màng lọc,đồng thời phụ thuộc vào một số yếu tố lý học như nhiệt độ,
áp suất v..v...Để đảm bảo tốc độ lọc điều hoà và nhanh ta cần phải tạo điều
kiện cho sự phân bố đều các phần tử rắn trên toàn bộ bề mặt của lớp màng
lọc. Muốn vậy trong khi lọc ta phải liên tục khuấy trộn lớp cháo Malt. Nếu ta
dùng máy lọc ép thì cháo Malt được khuấy trộn đều bằng một máy khuấy đặc
biệt trước khi vào máy lọc.Nếu dùng thùng lọc thì có cánh khuấy đặt ngay
trong thùng. Nhiệt độ thích hợp của quá trình lọc là 70-750C. Người ta đã
chứng minh rằng nồng độ axit cũng gây ảnh hưởng đến tốc độ lọc, ví dụ nếu
rửa bã bằng nước lã sau 5 phút thì thu được 190ml nước lọc, nhưng nếu rửa
bã bằng nước lã đã được axit hố thì lượng nước lọc thu được là 355 ml,
ngược lại nếu rửa bằng nước đã kiềm hoá-chỉ thu được 90 ml nước lọc. độ
axit thích hợp của cháo Malt trong khi lọc là PH=5,5.
Trong khi lọc có thể xảy ra hiện tượng oxy hoá chất Tamin của vỏ
Malt, muốn tránh hiện tượng này cần giữ cho bã Malt luôn luôn ngập dưới
nước, Thành phần muối của nước dùng để rửa bã cũng gây ảnh hưởng nhiều
đến thành phần và tính chất cuả dịch đường sau khi lọc và của bia sau này.
Bicacbonat và cacbonat thường gây ra ảnh hưởng xấu đến chất lượng của dịch
đường, ngược lại độ cứng cacbonat không bé hơn 2,1 thì kết quả vẫn tốt. Ta
cần chú ý rằng khi rửa bã không nên tránh tổn thất chất hoà tan mà rửa quá
lâu, như vậy lượng Tamin hoà tan sẽ tăng lên gây cho bia đắng. Mặt khác
11
nhiệt độ trong khi lọc được quá 780C vì trong q trình lọc bia vẫn cịn một
lượng tinh bột khơng hồ tan,ở nhiệt độ cao này có thể xảy ra hiện tượng hồ
hố tinh bột nhưng khơng đường hố kịp và do đó làm cho bia đục.
Cháo Malt sau khi đường hố xong được chuyển sang cơng đoạn đun
sơi với hoa Hublơng. Mục đích của q trình đun sơi dịch đường với hoa
Hublông là nhằm làm ổn định thành phần và tạo cho bia có mùi thơm, vị đắng
đặc trưng của hoa Hublông. Đồng thời trong lúc này cũng xảy ra một số quá
trình khác như sự khử hay độ nhớt hạ xuống... Một số trong những quá trình
ấy đã làm thoả mãn những yêu cầu về kỹ thuật song bên cạnh đó có một số
q trình lại gây tác dụng ngược lại mà ta không mong muốn. Nước đường
sau khi lọc cùng với nước rửa bã thường bị đục và trong nước thường có chứa
một số chất keo khơng ổn định hoặc các vi sinh vật cịn sót vì thế qua q
trình đun sơi này ta loại trừ được những yếu điểm trên, làm ổn định thành
phần hoá học của dịch đường và tạo điều kiện cho bia có thành phần và chất
lượng đạt yêu cầu. Ngoài ra quá trình đun sơi dịch đường với hoa Hublơng
cịn giúp cho bia có độ bền sinh học và khả năng tạo bọt tốt. Một trong những
biện pháp thông dụng nhất hiện nay là đun sơi trực tiếp dịch đường với ha
Hublơng.
Tồn bộ sản phẩm của quá trình nấu dịch đường với hoa Hulbông
chuyển sang công đoạn làm lạnh và lắng trong dịch đường. Dịch đường sau
khi đun sôi với hoa Hublông cần làm nguội đến nhiệt độ thích hợp cho từng
loại bia trước khi lên men. Đồng thời quá trình này sẽ tạo thuận lợi cho q
trình bão hồ thêm một lượng Oxi đối với nước đường và trên cơ sở đó có
những phương án làm nguội dịch lên men. Trong q trình đun sơi nước
đường với hoa Hublơng lượng oxi trong nước đường bị giải phóng hầu hết và
để bảo đảm mức độ bảo hồ Oxi thích hợp với nước đường thì ta phải có
những phương án làm nguội dịch lên men thích hợp. Mức độ trong của dịch
đường trước khi cho lên men là một trong những yếu tố quan trọng để thu
được bia có chất lượng cao. Trong q trình làm lạnh thì một số chất hồ tan
12
sẽ dần sần bị lắng xuống và bị kết tủa hiện tượng này gọi là kết tủa lạnh.
Thành phần của kết tủa lạnh bao gồm những phức chất của protit, chất chát và
chất đắng của hoa Hublơng và vì thế khi thực hiện quá trình làm lạnh dịch
đường đạt yêu cầu về kỹ thuật thì bia sẽ có mùi vị dễ chịu, mặt khác, kết tủa
lạnh trong rất nhiều trường hợp sẽ làm hạn chế một số loại nấm men khơng có
lợi cho q trình lên men sau này
Sau cơng đoạn làm lạnh thì đến cơng đoạn lên men dịch đường. Trong
q trình lên men chính phần lớn các chất đường dưới tác dụng của nấm men
chúng chuyển thành rượu Etilíc, CO2 và một số loại sản phẩm phụ khác.
Ngồi các Gluxit ra, một số thành phần quan trọng của nước đường cũng chịu
tác dụng của nấm men và tạo ra những thành phần mới. Trong quá trình lên
men một số chất không bay hơi như các axit hữu cơ, Glixerin trở thành chất
hồ tan trong bia. Qua đó ta nhận thấy rằng hàm lượng chất hoà tan của bia
nhỏ hơn của dịch đường. Nguyên nhân của sự khác nhau này là do q trình
sinh hố và do cả q trình kết tủa và lắng. Độ lên men của bia phụ thuộc vào
một số yếu tố như tỷ lệ khối lượng giữa thành phần chất hoà tan, điều kiện lên
men. Như vậy công đoạn len men đã kết thúc quá trình sản xuất bia tuy nhiên
cịn một số cơng đoạn phụ khác như tàng trữ bia và vận chuyển bia mà ta
không đề cập đến.
13
CHƯƠNG 3
TÍNH TỐN THIẾT KẾ NỒI ĐƯỜNG HỐ
3.1 Q trình đường hố
Ngun liệu sau khi nghiền nhỏ sẽ được hồ trộn với nước trong thiết
bị đường hoá. Nước sẽ được cung cấp vào nồi đường hoá với một lượng vừa
đủ tuỳ thuộc vào chủng loại bia và đặc tính kỹ thuật của thiết bị. Trong môi
trường giàu nước các hợp chất thấp phân tử có sẵn trong nguyên liệu sẽ hoà
tan vào nước và trở thành chất chiết của dịch đường sau này. Các hợp chất
chứa Phốtpho sẽ bị tác động bởi nhóm enzim và khi nhiệt độ của khối dịch
tăng lên đến nhiệt độ thích hợp thì dưới sự tác động của hệ enzim thuỷ phân
các hợp chất cao phân tử bị phân cắt thành sản phẩm thấp phân tử và hoà tan
vào nước để trở thành chất chiết của dịch đường, thực chất các quá trình ở
giai đoạn này là sự thuỷ phân các hợp chất cao phân tử dưới sự xúc tác của
enzim
3.2 Thiết bị đường hoá
Chức năng của nồi đường hoá là để đường hoá và đun sôi từng phần
khối cháo Malt, kết cấu của nồi đường hố khơng phức tạp, nồi đường hố là
một nồi hình trụ đáy lồi , bên ngồi có sử dụng áo hơi để gia nhiệt, áp suất hơi
trong lớp áo hơi thường phải đạt 2,5-3 kg/cm2 . Hệ thống truyền động và cánh
khuấy của nồi được sử dụng là cánh khuấy hình mỏ neo vì phù hợp với yêu
cầu làm việc của nồi. Tất cả các chi tiết thiết bị phụ kiện như van an tồn áp
kế, chng báo mức,ký đồ nhiệt đều trang bị đầy đủ trong nồi đường hoá.
3.3 Các phương pháp đường hoá
14
Có nhiều phương pháp đường hố nhưng chia thành hai phương pháp
chính sau:
Phương pháp đun sơi từng phần.
Phương pháp ngâm.
Trong đó phương pháp đun sơi từng phần là phương pháp cổ điển
nhưng vẫn hay được sử dụng hơn cả, và đến nay một số nước ở Trung Âu có
truyền thống nấu bia vẫn sử phương pháp này. Phụ thuộc vào thành phần của
hồ malt chia ra để đường hoá người ta chia ra làm ba phương pháp khác nhau
là:
1. Phương pháp đun sôi ba phần .
2. Phương pháp đun sôi hai phần.
3. Phương pháp đun sôi một phần.
3.3.1 Phương pháp đun sôi ba phần
Phương pháp tiến hành như sau:
Khoảng 1/3 lượng nước cần thiết đổ vào nồi hồ hố, cịn lại 2/3 thì trộn
với bột Malt ở thùng trộn sơ bộ sau đó đưa vào nồi hồ hố. Nhiệt độ nước
dùng trộn bột Malt khoảng 38-400C. Nhiệt độ nước cần phải điều chỉnh sao
cho khi trộn thì một hỗn hợp có nhiệt độ 35-370C . Sau khi trộn đều toàn bộ
bột Malt với nước ta để như vậy một thời gian ngắn để cho các thành phần rắn
lắng xuống dưới. Sau đó khoảng 1/3 khối lượng hồ Malt bơm sang nồi đường
hoá, phần hồ Malt này ta gọi là thứ 1. Ta bắt đầu từ từ tăng nhiệt độ lên đến
50-550C và ta giữ ở nhiệt độ này khoảng 5-10 phút. Khoảng thời gian nghỉ
này người ta gọi là thời gian nghỉ Protit bởi vì trong thời gian này men
protaza sẽ hoạt động và tạo thành sản phẩm protit có phân tử lượng thấp. Sau
khi nghỉ nhiệt độ tăng lên đến 70-730C ở nhiệt độ này sẽ kết thúc sự đường
hố của Malt. Bình thường phần hồ Malt thứ nhất sẽ đường hố trong 15-20
phút sau đó tăng nhiệt độ lên để đun sôi cháo malt trong khoảng 20 phút, do
đun sơi mà các hạt tinh bột cịn lại sẽ bị nát ra và bắt đầu tạo thành hồ tinh
bột. Cả quá trình nấu phần thứ một mất khoảng 2 giờ. Sau khi cháo Malt của
15
phần 1 được đun sôi, ta bơm ngược vào nồi hồ hoá lúc này cánh khuấy trong
nồi hoạt động với tốc độ lớn nhất, đồng thời bơm từ từ như vậy sẽ hạ thấp
nhiệt độ của cháo Malt xuống, nếu không làm như vậy men sẽ bị phá huỷ hay
ngừng hoạt động. Sau khi trộn đều phần Malt thứ 1 đã đun sơi với tồn bộ hồ
Malt ta có được hỗn hợp có nhiệt độ từ 50-52 0 ta để yên hỗn hợp này trong
một thơì gian ngắn và sau đó tiếp tục bơm 1/3 khối lượng hỗn hợp này sang
nồi đường hoá. Phần này ta gọi là phần hồ Malt thứ hai. Nhiệt độ phần hồ
Malt thứ hai tăng lên đến 70-72 0C. Sau khi đường hoá ta lại tăng nhanh nhiệt
độ và đun sôi nếu malt phân hủy tốt ta không cần nghỉ ở 70-720C. Đun sôi
khoảng 20 phút, sau đó cháo Malt lại bơm ngược trở về nồi hồ hoá, ta cần giữ
đúng yêu cầu như lần bơm trước. Sau khi trộn đều phần thứ hai với toàn bộ
khối hồ Malt nhiệt độ hỗn hợp tăng lên đến 62-630C. Cả quá trình nấu phần
thứ hai mất khoảng 1giờ 30phút. Sau đó bơm phần thứ ba sang nồi hồ hoá và
tăng nhiệt độ lên đến 75-770C nhằm đường hố lần cuối cùng, cả q trình
nấu phần thứ ba hết khoảng 1 giờ.Lúc này toàn bộ nhiệt độ phần cháo Malt hạ
xuống 750Cvà toàn bộ phần cháo Malt sẽ bị đường hoá và bơm sang bộ phận
lọc. Nhiệt độ cuối cùng của cháo Malt không được tăng lên quá 77 0C,vì ở
nhiệt độ cao hơn nhịêt độ này sẽ gây ra hiện tượng hồ hoá tinh bột của những
phần tinh bột khơng bị phân huỷ. Tồn bộ thời gian nấu của phương pháp này
mất khoảng 5giờ.
16
110
1
100
90
80
70
60
50
2
40
30
20
10
1
2
3
4
5
6
7
8
h
Hình 2: Đồ thị phương pháp đun sơi ba phần
1. Nhiệt độ từng phần cháo Malt
2. Nhiệt độ những phần cịn lại trong nồi hồ hố
3.3.2 Phương pháp đun sơi hai phần
Đây là phương pháp thông dụng nhất đặc biệt là đối với sản xuất bia
vàng. Phương pháp này tiến hành như sau: Hoà lẫn bột malt với nước ở nhệt
độ 50-520C và để yên trong khoảng 30 phút cho các phần tử rắn lắng xuống.
Trong khoảng thời gian này các men protoza có điều kiện thuận lợi để hoạt
động. Sau đó khoảng 2/3 hồ malt được bơm vào nồi đường hố và bắt đầu
đun nóng để nâng nhiệt độ lên đến 70-720C. Q trình đường hố sau 15-20
phút lại tiếp tục được đun nóng đến nhiệt độ sơi. Cháo Malt được đun sôi
trong 15-30 phút. Thời gian đun sôi phụ thuộc vào mức độ phân huỷ Malt và
loại bia cần sản xuất .nếu Malt phân huỷ kém và bia sản xuất là loại bia đen
thì thời gian đun sơi dài. Sau khi trộn phần thứ một đã đun sôi với phần cịn
lại trong nồi hồ hố ta điều chỉnh nhiệt độ này khoảng 650C và giữ ở nhiệt độ
này 15-20 phút trong thời gian này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho men
Amilaza hoạt động. Sau đó ta bơm tất cả sang nồi đường hoá và nâng nhiệt độ
lên đến 70-720C. sau khi đường hố xong ta đun sơi trong khoảng 15-20 phút.
Tồn bộ q trình này mất khoảng 4 giờ.
17
110
1
100
90
2
80
70
60
50
40
30
20
10
1
2
3
4
5
6
7
8
h
Hình 3: Đồ thị phương pháp đun sơi hai phần
1, Nhiệt độ từng phần cháo Malt
2, Nhiệt độ từng phần cịn lại trong nồi hồ hố
3.3.3 Phương pháp đun sơi một phần
Phương pháp này ứng dụng khi chế biến dịch đường có hàm lượng hồ
tan thấp. Phương án này tiến hành như sau: toàn bộ bột Malt được hoà lẫn với
nước và bơm tồn bộ vào nồi đường hố, đun nóng và nâng nhiệt độ lên đến
70 0C để cho Malt đường hoá. Sau khi đường hoá xong ta bơm dịch đường
hố này sang vào bộ phận lọc dịch đường.Tồn bộ phương pháp này mất
khoảng 3 giờ. Chú ý trong q trình đường hố các cánh khuấy phải hoạt
động liên tục để tránh sự quá nhiệt cục bộ và làm cho bột Malt và gạo khơng
bị bám dính vào đáy nồi gây khê cháy.
Ngồi ra cịn có rất nhiều phương pháp khác nhưng ứng dụng thực tế rất ít
như:
Phương pháp đường hoá rút ngắn thời gian.
Phương pháp đường hoá với sự gia tăng nhiệt độ.
Phương pháp đường hoá với sự giảm nhiệt độ.
Trên đây là các phương pháp đường hố mỗi một phương pháp đều có
những ưu nhược điểm khác nhau nên vì thế chọn phương án thiết kế ta cần
18
quan tâm đến yêu cầu về sản phẩm, nguyên liệu đầu vào và môi trường sản
xuất. Hiện nay ở nước ta do nhu cầu về bia và thu nhập bình quân đầu người
còn thấp nên trong sản xuất bia người ta chú ý nhiều đến giảm giá thành sản
phẩm nhằm thu hút khách hàng; chính vì vậy việc ứng dụng một phương pháp
sản xuất đơn giản , ít tốn kém mà chất lượng bia vẫn đạt yêu cầu là phương
pháp cần phải thực hiện để đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Chính vì thế
trong từng cơng đoạn sản xuất cần phải chú ý lựa chọn thiết bị và phương
pháp tiến hành phù hợp .Trong cơng đoạn đường hố này ta chọn phương
pháp đường hoá theo phương pháp đun sôi một phần. Phương pháp này tiến
hành đơn giản và ít tốn kém mà hiệu quả khá cao, chính vì thế nó đáp ứng
được yêu cầu của nhà sản xuất.
3.4 Tính tốn thơng số cơng nghệ q trình đường hố
Thành phần tinh bột chiếm khoảng 75% trong malt và chiếm khoảng 80%
trong gạo về khối lượng. Trong quá trình thuỷ phân gạo và Malt hoà tan hoàn
toàn vào nước tạo thành huyền phù. Phần cịn lại ở dạng khơng hồ tan trở
thành bã lọc trong quá trình lọc dịch đường.
BẢNG PHÂN PHỐI LIỆU
Năng suất 3000 lít/ngày
Nguyên liệu Khối lượng(Kg) Trọng lượng(Kg/m3)
Gạo
150
750
Malt
300
650
Đường
10
1130
Nước
2300
974.89
3.4.1 Khối lượng riêng bã khô
19
Khối lượng riêng bã khô là khối lượng của các chất sẽ tạo thành bã
trong quá trình lọc Khối lượng riêng bã khơ tính theo cơng thức:
1
1
1
.x1
.x2
bk
1
2
[Trang5-I]
Trong đó:
x1:Phần trăm Malt khơng hồ tan.
x2:Phần trăm gạo khơnng hồ tan.
3
1 :Khối lượng riêng của Malt,Kg/m .
3
2 :Khối lượng riêng của gạo,Kg/m .
Malt và gạo khơng hồ tan hồn tồn trong nước khi tham gia vào q
trình đường hố. Trong thực tế có 80% gạo và 75% Malt hồ tan, cịn lại là
phần khơng hồ tan. Từ đó ta tính được khối lượng Malt và gạo khơng hồ
tan.
Khối lượng Malt khơng hồ tan:
300.25
75 (Kg)
100
m 1=
Khối lượng gao khơng hoà tan.
m 2=
150.20
30( Kg )
100
Vậy ta suy ra phần trăm Malt khơng hồ tan.
x1=
75
71,4%
75 30
Phần trăm gạo khơng hồ tan:
X2=100%-71,4%=28,6%
Vậy:
1
71,4
28 ,6
-3
14 ,8.10
bk 100.650 100.750
bk
1
=676(kg/m3)
3
14.8.10
3.4.2 Khối lượng riêng huyền phù
Khối lượng riêng huyền phù tính theo cơng thức
20
1
1
C
750 C
1
hp H 2 O bk
Trong đó :
3
hp :Khối lượng riêng của huyền phù;Kg/m .
bk :Khối lượng bã khô;Kg/m
75
0
C
H 2O
3.
:khối lượng riêng của nước ở 750C;Kg/m3.
C1:Nồng độ pha rắn trong huyền phù.
Nhiệt độ nước lấy ở vì ở nhiệt độ 750C vì ở nhiệt độ này q trình
đường hố tinh bột xảy ra với hiệu suất cao nhất .
Tra sổ tay quá trình và thiết bị trong cơng nghiệp hố chất ta có:
75
0
C
H 2O
=974,9(Kg/m3)
Nồng độ pha rắn trong huyền phù:
C 1=
m1 m2
m1 m2
.100%=
.100%
mhp
mgao mMalt md êng mn íc
C 1=
75 30
.100% 3.8%
300 150 70 2300
1
1 0.038 0.038
10.43.10 4
hp
974 ,9
676
Vậy:
Suy ra :
hp
1
959( Kg / m 3 ) .
4
10 ,43.10
3.4.3 Tính tốn thể tích huyền phù và thể tích nồi đường hố
Thể tích huyền phù và thể tích nồi đường hố được tính như sau:
V 1=Thể tích Malt+ Thể tích Gạo +Thể tích đường +Thể tích
nước
V 1=
mMalt mgao mduong
Thể tích nước.
Malt gao uong
V 1=
300 150
10
3
2 ,3 0 ,462 0 ,2 0 ,009 2 ,3 =3(m )
650 750 1129
Ta tính thể tích nồi đường hố nồi đường hố :
21
V Tb=
V1
3
5( m 3 )
0 ,6 0 ,6
3.4.4 Độ nhớt huyền phù
Độ nhớt huyền phù tính theo cơng thức:
[Trang 34-IV]
1( 1 4.5 X )
Trong đó :
X: Nồng độ pha rắn trong huyền phù tính theo phần thể tích.
2
1 : Độ nhớt pha liên tục,Ns/m .
Ta có:
Thể tích phần Malt khơng hồ tan :
V 1=
75
0.115( m 3 ) .
650
Thể tích phần gạo khơng hồ tan :
V 2=
30
0.04( m3 )
750
Nồng độ pha rắn trong huyền phù tính theo phần thể tích:
X h=
V1 V2
0 ,115 0 ,04
.100%
.100% 5 ,2%
Vhp
3
Vậy ta suy ra:
Giá trị độ nhớt của huyền phù:
2 ,2.10 3 ( 1 4 ,5.
5 ,2
) 2 ,7148.10 3 ( Ns / m 3 )
100
3.5 Tính cơ khí nồi đường hố
3.5.1 Tính đáy nồi
Để đảm bảo chất lượng bia và đảm bảo điều kiện vệ sinh an toàn thực
phẩm ta chọn vật liệu làm nồi là thép không rỉ.
Đặc tính của thép khơng rỉ:
+Giới hạn chảy : [ c ]=240.106(N/m2).
22
+Mơ đun đàn hồi:E=185.106(N/m2).
r
h
ht
Hình 4: Mơ hình đáy nồi
Theo kinh nghiệm ta chọn:
r=0.15.Dt=0,15.1,6=0,24(m).
R=0,8.Dt=0,8.1,6=1,28(m).
3.5.1.1 Chiều dày đáy nồi
S=
Dt .Pn
D
. t C
3,8 K .K .K 1 . h Pn 2.hb
,(m)
Trang 385 II
Trong đó
Pn:áp suất hơi giữa hai lớp áo hơi;N/m2.
Theo tài liệu VII thì ta chọn giá trị Pn=2.5-39(at).
D t:Đường kính thân nồi,m.
:ứng suất cho phép của vạt liệu, N/m2.
K:hệ số không thứ nguyên .
K 1:hệ số khi đáy có lỗ tăng cứng.
Theo Trang 368 II ta chọn:
+Hệ số K=0,91.
+Hệ số K1=0,74.
23
C:Đại lượng bổ xung, phụ thuộc vào độ ăn mòn độ bào mịn và
dung sai chiều dày nồi.
C=C1+C2+C3
Trong đó :
C1: Bổ sung do ăn mịn, với thép khơng rỉ thì giá trị này thường không
đáng kể nên lấy C1=0;
C2: Giá trị bổ xung cho hao mịn, vì mơi trường làm việc khơng ăn mịn
nên ta cũng bỏ qua giá trị C2.
C3: Dung sai do chiều dày, phụ thuộc vào chiều dày tấmvật liệu làm
nồi.
h : Hệ số bền hàn phụ thuộc vào dạng mối hàn, ta chọn phương
pháp hàn hồ quang tay, hệ số bền hàn tương ứng là h =0,95.
hb: hệ số kích thước, phụ thuộc vào đường kính thiết bị .
Chọn hb=400. .[Bảng XIII.13-Trang 388-II]
Vậy
S1=
1,6.0 ,3.106
1,62
.
C (m)
6
6
3 ,8.240.10 .0 ,91.0 ,74.0 ,95 0 ,3.10 2.0 ,4
S1=0,017+C (m)
S1=1,7+C
(mm)
Với giá trị này ta tra [Bảng XIII.9-Trang 364-II] ta lấy giá trị về độ dày
S1 theo dãy kích thước tiêu chuẩn :
+Chiều dày của đáy :S1=2(mm).
+Chiều cao gờ:h0=20(mm).
+Chiều cao phần đáy elíp:hb=400(mm).
+Chiều cao đáy:h=h0+hb=420(mm)
Ta chế tạo đáy và nắp cùng kích thước như nhau đễ dễ dàng gia công chế tạo .
3.5.1.2 Kiểm tra bền đáy nồi và nắp nồi
Ta có:
24
7 ,6.K . .P .( S
h
D 2 t 2.hb ( S1 C )
0
1
h
b
1
C )
Trang 378 II
Trong đó :
P0:áp suất thử thuỷ lực
(Tra bảng XIII.5 ta chọn
P0=0,4.106(N/m2))
Suy ra:
1,6
2.0 ,4.( 2 0 ,18 ).10 3 .0 ,4.106
7 ,6.0 ,906.0 ,95.0 ,4.( 2 0 ,18 ).10 3
2
196.106
(N/m2)
Mà
C 240.106
200.106
1,2
1,2
Vậy
<
C
1,2
(N/m2)
Nên đáy nồi đạt bền.
Biết kích thước của đáy nồi và nắp nồi ta suy ra thể tích nồi đường hố:
Thể tích nồi :
V=2Vđáy+VTrụ
(m3)
Trong đó
V đáy:Thể tích phần đáy Elíp.
V Trụ :Thể tích phần hình trụ.
Ta có:
4
D 3t . .Dt .H ,
.. .
3
8
4
V=
4
3
V= .3,14.
1,6 3 3,14.1,6 2
.H 5
8
4
Suy ra chiều cao phần hình trụ : H 1,5
Vậy chiều cao nồi đường hóa : H= H +2.1,6=1,5+3,2=4,7(m)
3.5.2 Tính vỏ nồi
3.5.2.1 Tính chiều dày thân nồi
Chiều dày thân nồi được tính theo cơng thức:
S2=0,5.Dt.(
.
. 1,73.Pn
1 )+C
[Trang370-II]
Trong đó:
25