Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Skkn tổ chức dạy tiết ôn tập (tổng kết) phần văn học trong chương trình ngữ văn thpt ở trung tâm gdtx mường khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.09 KB, 26 trang )

Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI

SỞTHƯỜNG
GIÁO XUYÊN MƯỜNG KHƯƠNG
TRUNG TÂM GIÁO DỤC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương
trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung tâm Giáo
dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động của học viên.

 
Họ và tên: Nguyễn Thị Thuý
Chức vụ : Giáo viên
Tổ chun mơn: Văn hố
Đơn vị cơng tác:
Trung tâm Giáo dục thường xuyên Mường Khương

Ngày 28 tháng 4 năm 2014

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

1




Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Mục lục
NỘI DÙNG

TRANG

A. Đặt vấn đề
B. Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
III. Các biện pháp tổ chức ôn tập phần Văn học trong chương trình Ngữ
văn Trung học phổ thơng ở Trung tâm Giáo dục thường xuyên Mường
Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên
1. Vài nét về nội dung ôn tập (tổng kết) văn học trong chương trình Ngữ
văn Trung học phổ thơng
2. Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hướng phát huy tính tích
cực chủ động của học viên.
2.1. Phương pháp tổ chức ôn tập (tổng kết) Văn học hiện nay
2.2. Cách thức tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động của học viên.
2.3.Cách tiến hành
2.4. Tạo khơng khí văn chương trong tổ chức hoạt động ôn tập (tổng
kết) Văn học
2.5. Hệ thống câu hỏi
2.6. Đánh giá tổng kết
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

C. Kết luận

3
5
5
6

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

13
13
13
14
14
15
16
17
20
20
23

2


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

A. ĐẶT VẤN ĐỂ

Việc nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ Văn luôn là nỗi trăn trở của mỗi một
giáo viên tâm huyết, yêu nghề. Nỗi trăn trở đó xuất phát từ đặc thù của môn học
cũng như từ thực tiễn đối tượng của hoạt động dạy học là học viên đang học tại các
Trung tâm Giáo dục thường xuyên, nhất là học viên ở vùng cao, vùng sâu vùng xa.
Ngữ Văn là mơn học khơng những có khả năng cung cấp những tri thức khoa học
mà cịn có khả năng rèn luyện sự sáng tạo, hình thành nhân cách, lối sống và cả
những kỹ năng cho học viên. Dạy Văn là dạy làm người với ý nghĩa trọn vẹn nhất.
Ngày nay nhân loại loài người đang ở trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Thế kỷ của khoa học và công nghệ, với sự bùng nổ mạnh mẽ của tất cả các ngành
khoa học. Thế kỷ được đánh giá thành công rực rỡ về cải tiến đời sống nhân loại.
Việt Nam chúng ta đang trên con đường phát triển và hội nhập, đất nước chúng ta
cũng đã có khơng ít những nhà khoa học thành công trong nhiều lĩnh vực nghiên
cứu các cơng trình để phục vụ cho sự phát triển của nước nhà, đồng thời gây được
ấn tượng sâu sắc trong lịng bạn bè quốc tế. Có được sự thành công xuất sắc ấy, các
nhà khoa học của chúng ta đã từng phải "dùi mài kinh sử" dưới mái trường phổ
thơng, và chính những mái trường đó đã ni dưỡng ước mơ, hồi bão, cơng trình
nghiên cứu của họ. Có thể khẳng định rằng: họ đã hồn thiện về nhân cách cơ bản
về trí tuệ trong những chiếc nơi ấy mà lời ru chính là những bài học đầu tiên. Như
vậy ngành giáo dục nói chung, giáo dục trong nhà trường phổ thơng nói riêng có vị
trí, vai trị đặc biệt quan trọng quyết định đến sự thành công đó đóng góp một phần
khơng nhỏ trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá được vai trị đó,
Đại hội Đảng VIII đã quyết định đưa giáo dục lên mặt trận hàng đầu trong q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước địi hỏi phải có những con người, có phẩm
chất, có kiến thức khoa học để đưa đất nước tiến lên “Sánh vai với các cường quốc
năm châu”. Thực hiện niềm mong mỏi tha thiết của Bác Hồ kính u.
Các mơn khoa học nói chung, mơn Ngữ văn nói riêng có vị trí quan trọng
trong sự phát triển tiến bộ của đời sống xã hội. Nó là cơ sở cho các mơn khoa học
khác...Với tầm quan trọng như vậy nên nó cần phải được quan tâm về cả nội dung
hình thức và phương pháp giảng dạy. Thấm nhuần được điều đó, bản thân tơi là
giáo viên trực tiếp giảng dạy luôn trăn trở làm thế nào để có phương pháp dạy học

phù hợp với đối tượng học viên, giúp học viên nắm được kiến thức và tạo được nền
móng vững chắc cho thế hệ tương lai. Vậy thiết nghĩ việc lớn phải bắt đầu từ việc
nhỏ, rất nhỏ thì mới hy vọng thành cơng.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

3


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Với học viên, dù sau này họ có chọn văn chương làm bộ mơn gắn bó của đời
mình hay khơng thì những hiểu biết về văn học dân tộc và văn học nhân loại (ở bất
kì thời đại nào) sẽ là hành trang đi suốt cuộc đời để làm nên cái gọi là “trình độ
văn hố” của mỗi người. Trong dịng chảy bất tận của văn học dân tộc và nhân
loại, có lẽ mọi người khơng thể nào qn những đỉnh cao văn học như Bình Ngơ
đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
của Nguyễn Đình Chiểu, Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, Những người khốn
khổ của V. Huy- Gơ, Lão Gơ- ri- ơ của Ban- Dắc… và sẽ cịn rất nhiều những đỉnh
cao có khả năng tạo ra sự đối thoại . Để có thể cũng có sâu sắc hơn về vốn tri thức
ấy, việc tổ chức cho học viên ôn tập phần văn học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nhà trường Trung học phổ thơng có vai trị hết sức quan trọng trong việc
dạy văn học vì số lương tiết dạy khá nhiều, và vì thế việc ơn tập phần văn học càng
trở nên quan trọng. Hoà nhập với việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa,
phương pháp kiểm tra đánh giá, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Ngữ
văn hiện nay, rút kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp và bằng thực tế giảng dạy
của mình, tơi xin giới thiệu sáng kiến kinh nghiệm: Tổ chức ơn tập (tổng kết)
phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông ở Trung tâm

Giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động của học viên.

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

4


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Chúng ta biết rằng, bộ mơn Ngữ văn có vai trị rất quan trọng trong chương
trình THPT, bởi nó là yếu tố quyết định đối với việc hình thành phẩm chất và nhân
cách đạo đức cho học viên. Ta vẫn thường nói “Văn học là nhân học”, và càng đi
sâu vào phân tích và tìm hiểu chức năng của văn học thì ta càng thấy được tính cần
thiết của bộ mơn này trong đời sống của mỗi con người nói chung và học viên nói
riêng. Đó là chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ, chức năng giáo dục.
Điều đáng nói hơn là văn học ngày càng đóng vai trị quan trọng khi đời sống
con người càng được nâng cao, nó khơng chỉ giúp cho chúng ta những điều đã nói
ở trên mà cịn giúp cho cuộc sống càng thêm phần ý nghĩa, nhất là tạo cho tâm hồn
con người càng trở nên tươi mới, khơng cịn sự khơ cứng và héo úa.
Tuy nhiên, hiện nay điều làm cho tất cả giáo chức nói riêng và tồn xã hội nói
chung đang rất quan tâm đó là việc một bộ phận khơng nhỏ học viên có thái độ
khơng quan tâm hay khơng cịn mặn mà với bộ mơn học này. Điều đó cũng đang
đặt ra một bài tốn khó giải cho những nhà quản lý giáo dục và đội ngũ giáo chức
dạy học bộ môn này.

Nếu để trả lời cho câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó thì có rất nhiều lý do
khác nhau: nguyên nhân khách quan có, chủ quan có… nhưng điều mà tơi quan
tâm ở đây là khơng phải đi sâu vào phân tích, tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân của
nó như một nhà xã hội học mà chỉ nhìn nhận nó ở trên góc độ là một giáo viên
giảng dạy bộ môn Ngữ Văn Trung học phổ thông với những suy tư, trăn trở, lo lắng
và tâm huyết với bộ môn để khắc phục phần nào tình trạng trên.
Chúng ta vẫn thường quan tâm rất nhiều đến chất lượng các bộ môn học trong
nhà trường. Đây là vấn đề đang được sự quan tâm của toàn ngành giáo dục cũng
như toàn xã hội hiện nay. Do vậy, trong nhiều năm trở lại đây việc cố gắng tìm ra
một số phương pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn hữu hiệu để nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục nói chung và tạo sự hứng thú cho các em học viên nói riêng là một
vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên cũng như toàn ngành giáo dục.
Đến nay có rất nhiều giải pháp hữu hiệu mà tơi cho rằng nó mang lại hiệu quả
cao như việc cải cách sách giáo khoa đến việc thay đổi phương pháp giáo dục theo
hướng tích cực, chủ động của học viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong
xu thế mới hiện nay.

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

5


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Điều đáng quan tâm nhất là chất lượng học viên của trường tơi đang giảng dạy
rất thấp, điều đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, khách quan có, chủ quan có.
Nhưng theo tơi, một phần khơng nhỏ là do chính đội ngũ giáo viên chưa thực sự đặt

mình vào đối tượng học viên, chưa thu hút và tác động được sự yêu thích học tập
cho các em. Chưa tạo cho các em một sự hứng thú, yêu thích việc học và chưa kịp
thời động viên khích lệ để các em có một sự tự tin nào đó trong q trình học tập.
Cho nên có nhiều học viên mang tâm lý chán nản với việc học.
Đặc biệt đối với bộ môn Ngữ Văn cũng nằm trong hoàn cảnh tương tự như
thế. Qua nhiều năm giảng dạy tại Trung tâm Giáo dục thường xun Mường
Khương, tơi nhận thấy rằng, có một bộ phận không nhỏ học viên thiếu sự mặn mà
và không yêu thích bộ mơn văn. Chính vì thế có nhiều lúc các em lên lớp lại tỏ ra
thái độ không quan tâm, không muốn học hoặc không chú ý nghe giảng, thậm chí
có nhiều học viên nằm ngủ hoặc nói chuyện riêng, hoặc có một số học viên chế
giễu, chọc ghẹo những bạn chăm chỉ học bộ mơn này.
Do đó, làm thế nào để giáo dục các em học viên có thái độ học tập đúng đắn
và u thích bộ mơn học này đó là vấn đề mà tơi ln suy nghĩ, trăn trở để tìm ra
những giải pháp tối ưu nhất nhằm phần nào khắc phục được tình trạng trên. Đặc
biệt không chỉ giúp các em đạt kết quả học tập tốt hơn mà cịn giúp sự hồn thiện
về nhân cách của một con người vừa hồng vừa chuyên.
Những vấn đề nêu trên vừa là cơ sở thực tiễn, vừa là cơ sở lí luận để mỗi
người giáo viên văn trong nhà trường phổ thơng phải có trách nhiệm tìm ra con
đường hướng dẫn học viên củng cố, khắc sâu kiến thức một cách tích cực sáng tạo
theo đặc điểm tình hình xã hội cũng như phong tục tập quán địa phương và trình
độ cá nhân. Đặc biệt hiện nay toàn ngành đang hướng đến mục tiêu Dạy thực chất,
Học thực chất, Thi thực chất thì điều đó càng có ý nghĩa. Vấn đề tưởng chừng
đơn giản nhưng khá phức tạp nếu người giáo viên Ngữ văn khơng tự hình thành
những kĩ năng tổ chức các hoạt động dạy học, hệ thống hoá vấn đề một cách dễ
hiểu.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Nói đến phương pháp dạy học ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện
nay không thể không nhắc tới các hiện tượng rất phổ biến trong các giờ học
văn hiện nay.
  

 Dạy học đọc chép. Hiện tượng dạy học đọc chép trong môn văn trước
đây và môn ngữ văn  rất phổ biến ở các trường phổ thông hiện nay. Đọc
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

6


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

chép trong giờ chính khóa và trong các lị luyện thi. Thầy cô đọc trước, học
viên chép sau, hay thầy cô vừa đọc vừa ghi bảng rồi học viên chép theo.
Đối với các bài khái quát về giai đoạn văn học hay khái qt về tác gia thầy
cơ cũng thường tóm tắt rồi đọc cho học viên chép. Đối với bài “giảng văn”
thầy cô cũng thường nêu “câu hỏi thu từ”, rồi giảng, sau đó đọc chậm cho
học viên chép các kết luận, nhận định. Trong cách dạy này học viên tiếp thu
hoàn toàn thụ động, một chiều.
 
Dạy nhồi nhét. Dạy nhồi nhét cũng là hiện tượng phổ biến do thầy cô
sợ dạy không kĩ, ảnh hưởng đến kết quả làm bài thi của học viên, cho nên
dạy từ a đến z, khơng lựa chọn trọng tâm, khơng có thì giờ nêu vấn đề cho
học viên trao đổi, sợ “cháy” giáo án. Kết quả của lối dạy này cũng là làm
cho học viên tiếp thu một cách thụ động, một chiều.
 
 Dạy học văn như nhà nghiên cứu văn học. Một hiện tượng thường
thấy là cách giảng văn trên lớp như cách nghiên cứu văn học của các học
giả, như cách học của sinh viên văn học. Đó là cách phân tích sâu về tâm lí,
về kĩ thuật ngơn từ, về phương pháp sáng tác… Trong khi đố đối với học

viên môn ngữ văn chỉ cần dạy cho học viên đọc hiểu, tiếp nhận tác phẩm  
như một độc giả bình thường là đủ, nghĩa là chỉ cần nắm bắt đúng ý nghĩa,
tư tưởng của tác phẩm, một vài nét đặc sắc về nghệ thuật  đủ để thưởng
thức và gây hứng thú.
 
 Học viên học thụ động, thiếu sáng tạo. Tương ứng với cách dạy học
như trên học viên tất nhiên chỉ tiếp thu một cách thụ động mà thơi. Tính
chất thụ động thể hiện ở việc học thiếu hứng thú, học đối phó, và về nhà chỉ
còn biết học thuộc để trả bài và làm bài. Cách học đó tất nhiên cũng khơng
có điều kiện tìm tịi, suy nghĩ, sáng tạo, cũng khơng được khuyến khích
sáng tạo.
 Học viên khơng biết tự học. Cách học thụ động chứng tỏ học viên
không biết tự học, khơng có nhu cầu tự tìm hiểu, nghiên cứu, khơng biết
cách chủ động tự đọc sách giáo khoa để tìm hiểu kiến thức, khơng biết cách
phân biệt cái chính và cái phụ, khơng biết tìm kiến thức trọng tâm để học,
không biết từ cái đã biết mà suy ra cái chưa biết. Nói tóm lại là chưa biết
cách tự học.
 
Học tập thiếu sự hợp tác giữa trò và thầy, giữa trị với trị . Mỗi cá
nhân trong q trình học tập đều có hạn chế, bởi mỗi người thường chỉ chú
ý vào một số điểm, bỏ qua hoặc không đánh giá hết ý nghĩa của các kiến
thức khác. Trong điều kiện đó, nếu biết cách hợp tác trong học tập, giữa
thầy giáo và học viên, học viên với học viên có thể nhắc nhở nhau, bổ sung
cho nhau, làm cho kiến thức được toàn diện và sâu sắc.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

7



Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

 
Học thiếu hứng thú, đam mê. Kết quả củ việc học thụ động là học tập
thiếu cảm hứng, thiếu lửa, thiếu niềm ham mê, mà thiếu những động cơ nội
tại ấy việc học tập thường là ít có kết quả.
Về ngun nhân xã hội của thực trạng.
 
 Có nhiều nguyên nhân tạo nên tình trạng học tập trì trệ, thụ động,
thiếu hào hứng của học viên Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường
Khương nói riêng và học sinh phổ thơng trung học nói chung. Xét về xã
hội, thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học công nghệ, dễ hiểu là
đại đa số học viên chỉ muốn học các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật,
kinh tế…ít có học viên hứng thú học văn, bởi phần đông học viên nghĩ rằng
năng lực văn là năng lực tự nhiên của con người xã hội, khơng học vẫn biết
đọc, biết nói; học văn  khơng thiết thực. Văn có kém một chút, ra đời vẫn
khơng sao, vẫn nói và viết được, cịn khơng học ngoại ngữ, khơng học khoa
học, kĩ thuật thì coi như chịu phép. Có thể đó là lí do làm cho đa số học
viên không cố gắng học ngữ văn. Thực tế học sinh một số trường chuyên
khoa học tự nhiên coi nhẹ học văn vẫn được lên lớp. Rõ ràng tâm lí cá
nhân, mơi trường học tập, nếp sống, quan niệm sống của đơng đảo dân cư
đã có nhiều  thay đổi. Đó là một vấn đề rộng lớn, ngồi tầm kiểm sốt của
nhà trường và bộ mơn mà chúng ta phải chấp nhận. Tuy nhiên ở đây cịn có
vấn đề thuộc phương pháp dạy học ngữ văn và chúng ta chỉ có thể nói
nguyên nhân về phương pháp dạy học văn mà thơi.
 
Về phía thầy giáo, xã hội ta là xã hội tư duy theo kiểu giáo điều đã lâu
năm, khơng biết đối thoại, khơng cho đối thoại, thậm chí theo lối phong

kiến xưa, coi đối thoại là hỗn, là láo, thầy bảo gì chỉ biết cắm đầu nghe. Xã
hội như thế thì nhà trường như thế khơng sao khác được. Nếu trong giờ học
mà tổ chức đối thoại, thảo luận thì cũng là thảo luận vờ vịt. Xã hội sao thì
nhà trường như vậy. Nếu khơng thay đổi xã hội khó mà thay đổi giáo dục.
Về nguyên nhân ở phương pháp dạy học văn
Theo tôi, thực trạng dạy học văn như trên khơng phải do một lí do cục
bộ nào, khơng phải do giáo viên thiếu nhiệt tình dạy học, không cố gắng,
mà chủ yếu là do trên tổng thể ở nước ta cho đến nay nói chung vẫn tồn tại
một quan niệm sai lầm, cũ kĩ, lạc hậu về việc dạy học nói chúng và dạy học
văn nói riêng. Nói một cách khác cho đến nay lí luận dạy học đặc biệt là lí
luận dạy học ngữ văn ở ta vẫn còn chưa hề đổi mới hoặc chỉ mới là hơ hào
mà chưa thực sự có quan niệm mới về dạy học. Sơ bộ tập hợp, có mấy
nguyên nhân chủ yếu sau.
Trước hết là phương pháp dạy học cũ, chỉ dựa vào giảng, bình, diễn
giảng. Thật vậy, cách dạy học ngữ văn từ trước tới nay có mấy lệch lạc
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

8


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

như: Đối với bài học tác phẩm văn học thì  chú trọng cái gọi là “giảng
văn”. Bao nhiêu sách giáo khoa trước nay đều gọi đó là mơn “Văn học trích
giảng”, “Văn học giảng bình”, “Giảng văn”, “Văn học giảng luận”, “Phân
tích tác phẩm văn học”. Dạy văn hầu như chỉ có một đường là “giảng”,
“bình”, “luận”, “phân tích”. Giáo án soạn ra là để cho giáo viên “giảng”,

biểu diễn trên lớp. Giáo viên nào tham giảng thì thường “cháy” giáo án.
Quan niệm Giảng văn như thế có phần sai tận gốc. Một là, văn học sáng tác
ra cho người đọc đọc, do đó mơn học tác phẩm văn học phải là mơn dạy
học viên đọc văn, giúp học viên hình thành kĩ năng đọc văn, trưởng thành
thành người đọc có văn hố, chứ không phải là người biết thưởng thức việc
giảng bài của thầy. Chính vì vậy sai lầm thứ hai là mơn học văn hiện
nay thiếu khái niệm khoa học về đọc văn.  Khái niệm “đọc” chỉ được hiểu là
đọc thành tiếng, đọc diễn cảm, mà khơng thấy nói là đọc – hiểu. Đối với
phân mơn Làm văn thì chỉ dạy lí thuyết rồi ra đề cho học viên tập làm   theo
những đề yêu cầu học viên viết lại những điều đã học mà ít nêu yêu cầu
khám phá, phát hiện những cái mới trên cơ sở những điều đã biết. Ở đây bộ
đề thi của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trước đây và của Bộ
Giáo dục và Đào tạo sau này cũng như phần lớn cách ra đề trong các kì thi
tuyển sinh Đại học và Cao đẳng có vai trị tiêu cực trong việc tạo ra một lối
làm văn thiên về học thuộc, sao chép và thiếu sức sáng tạo của học viên.
Đó cũng là lối dạy làm văn sai tận gốc. Việc đó lại càng thúc đẩy lối học
thuộc, học tủ và thí sinh chỉ loanh quanh học thuộc một số bài văn trong
chương trình đủ đối phó với các kì thi làm văn.
 
Thứ hai là phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt,
học viên phải học thuộc kiến giải của thầy. Đây cũng là phương pháp phản
sư phạm, bởi vì bản chất học tập khơng phải là tiếp nhận những gì được
đưa trực tiếp từ ngoài vào, mà là sự kiến tạo tri thức mới dựa trên cơ sở
nhào nặn các dữ liệu mới và kinh nghiệm đã được tích luỹ.  Học tập thực
chất không phải là học thuộc mà là tự biến đổi tri thức của mình trên cơ sở
các tác động của bên ngoài và của hoạt động của người học. Do đó việc áp
đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời, học xong là quên ngay, không để lại
dấu ấn trong tâm khảm người học, không trở thành kiến thức hữu cơ của
một bộ óc biết suy nghĩ và phát triển.
Thứ ba, chưa xem học viên là chủ thể của hoạt động học văn, chưa

trao cho các em tính chủ động trong học tập. Coi học viên là chủ thể của
hoạt động học tập của mình thì học viên phải là người chủ thể trong các
hoạt động học tập, là người chủ động kiến tạo các kiến thức của mình mà
GV chỉ là người tổ chức các hoạt động học tập cho học viên. Giáo án của
giáo viên phải là kế hoạch hoạt động của học viên để tự kiến tạo kiến thức,
chứ không phải là Giáo án để giáo viên giảng và bình ở trên lớp.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

9


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

 
Thứ tư, chưa xem dạy học tác phẩm văn học là là dạy học đọc văn,
một hoạt động có quy luật riêng của nó. Nhiều tài liệu thường nói dạy học
văn là dạy cảm thụ văn học. Nói như vậy là chưa thật chính xác, bởi vì   học
viên khơng phải cảm thụ các dòng chữ in, mà trước hết phải đọc để biến
các kí hiệu chữ thành nghĩa, thành thế giới hình tượng, trên cơ sở đó mới
cảm thụ thế giới nghệ thuật bằng ngôn từ. Cảm thụ văn học khác hẳn cảm
thụ âm nhạc hay hội hoạ, là cảm thụ trực tiếp âm thanh và màu sắc, bố cục
bức tranh. Trong văn học chính người đọc phải tự kiến tạo bức tranh mà
mình sẽ thưởng thức. Đọc khơng hiểu thì khơng có gì để cảm thụ cả. Vì thế
khơng thể bỏ qua hoạt động đọc và khái niệm đọc. Có người nói dạy văn là
dạy học viên lặp lại, đi trở lại con đường của người sáng tạo văn, tức nhà
văn. Đó là nhầm lẫn giữa hoạt động sáng tạo của nhà văn và sáng tạo của
người đọc. Thực ra đó là hai hoạt động khác nhau. học viên trước hết phải

tiếp cận văn bản như một người đọc đã, sau đó, những ai có năng khiếu
sáng tác mới đi lại con đường của nghệ sĩ.
Do chưa có khái niệm đọc cho nên chưa có hệ thống biện pháp dạy đọc
văn hữu hiệu và hoàn chỉnh. Ngoài việc đọc thành tiếng và đọc diễn cảm,
chúng ta hầu như chỉ có các khái niệm giảng, bình, phân tích, bình chú, nêu
câu hỏi…
Có thể là chưa hồn tồn chính xác, song  những điều nói trên có thể
coi là bức tranh chung về phương pháp dạy học ngữ văn hiện nay. Một số
băng hình “dạy mẫu” do một số chuyên viên Bộ tổ chức quay, tuy có chỉ
đạo, gợi ý, bàn bạc trước đã phản ánh rất trung thành tính chất lạc hậu, cũ
kĩ về phương pháp dạy học văn ở các trường Trung học phổ thông của
chúng ta. Một số sách giáo án mẫu của nhiều chuyên viên, tác giả do viết
vội vàng cũng thể hiện sự lạc hậu cũ kĩ so với phương pháp mới.
Tất cả những biểu hiện nêu trên của dạy học tiêu cực không chỉ là sản
phẩm tiêu cực, thiếu hiệu quả cục bộ của hoạt động dạy học của một số giáo viên
hoặc địa phương nào đó, mà là hệ quả của sự lạc hậu về phương pháp tổng thể, kéo
dài, chậm khắc phục. Hậu quả của nó khơng chỉ làm giảm sút hiệu quả giáo dục,
mà hơn thế, cịn có phản tác dụng là nó làm cho trí óc học viên trơ lì, chán học, làm
mịn mỏi trí tuệ, phá hoại tư duy. Hệ quả của nó là một hệ quả kép, vừa giảm thiểu
kết quả giáo dục vừa phá hoại bản thân giáo dục. Phải thấy rõ điều đó thì mới thấy
nhu cầu đổi mới.
Do đó muốn đổi mới phương pháp dạy học văn thật sự, vấn đề không chỉ là
gợi ra một vài phương pháp, một vài biện pháp kĩ thuật, mà phải xây dựng lại một
cách cơ bản quan niệm dạy học mới, vũ trang các khái niệm mới mới mong có sự
đổi mới đích thực về phương pháp dạy học ngữ văn.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

10



Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Muốn xác lập hệ thống các phương pháp dạy học ngữ văn trước tiên chúng ta
cần xác định nội dung môn học, xác định các hoạt động cơ bản để đạt được kết quả
của mơn học, rồi từ đó mà xác định các phương pháp cụ thể đặc thù của bộ môn.
Phương pháp dạy học ngữ văn phụ thuộc vào đặc trưng của bộ mơn.
Hơn nữa trong q trình giảng dạy, tơi nhận thấy những mặt thuận lợi và khó
khăn đối với việc giảng dạy bộ môn này như sau:
Trung tâm giáo dục thường xun Mường Khương cịn gặp nhiều khó khăn về
cơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc dạy học còn hạn chế hơn so với các trường
cùng cấp trong tỉnh. Mặt khác, các em đều là trụ cột gia đình đi học cịn vướng bận
việc gia đình và địa phương, điều kiện xã hội hết sức khó khăn như từ việc tiếp cận
thơng tin văn hóa thường ngày đến việc đường giao thơng đi lại rất khó khăn cũng
như điều kiện sống của nhân dân nơi đây là rất thấp nên đã ảnh hưởng không nhỏ
đến việc học tập của các em học viên.
Phần nhiều học viên là con em của nhiều dân tộc thiểu số (chiếm hơn 90%),
mặt khác các em học viên thuộc nhiều dân tộc khác nhau (gồm dân tộc H.Mơng,
Nùng, Tày, Pa Dí, Dao…), độ tuổi lại không đồng đều cho nên năng lực học tập
của các em cũng không đồng nhất. Do đó gặp rất nhiều hạn chế trong tiếp thu bài
giảng, và tất nhiên cũng khó khăn hơn nhiều cho giáo viên khi tiếp cận và giảng
dạy đối với những học viên này so với các em học viên khác.
Hơn nữa phần lớn học viên đến từ nhiều xã khác nhau trên khắp cả huyện, đặc
biệt phần lớn lại là con em làm nghề nông nghiệp, điều kiện sống hết sức khó khăn.
Có nhiều em khơng có điều kiện đến trường, chưa kể đến việc có nhiều phụ huynh
chưa quan tâm đến việc học hành của con em mình mà chỉ lo làm ăn cho đủ qua
ngày, qua tháng.
Bên cạnh những khó khăn trên cũng có những thuận lợi nhất định: Phần lớn

các em có ý thức chấp hành các quy định của Trung tâm và của lớp, biết nghe lời
thầy cô giáo và đặc biệt điều đáng mừng nhất là chưa phát hiện học viên có dấu
hiệu vi phạm các tệ nạn xã hội như nghiệm ma túy... Hơn nữa, với sự nỗ lực của
nhà trường trong việc dạy học phụ đạo yếu kém nên tơi có điều kiện thuận lợi về
mặt thời gian để giảng dạy và rèn luyện thêm cho các em trong việc học bộ
môn này được tốt hơn.
Trong thực tế, tình hình ngại học các bộ mơn khoa học xã hội nhân văn, trong
đó có bộ môn Ngữ văn đang khá phổ biến ở học viên Trung tâm giáo dục thường
xuyên Mường Khương nói riêng và học sinh Trung học phổ thơng nói chung: kiến
thức học xong vội quên, nhất là những kiến thức cơ bản cần phải ghi nhớ; trên lớp
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

11


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

học viên ngại thảo luận, tranh luận; một khơng khí buồn tẻ bao bọc nhiều giờ văn.
Sự ngại học, coi nhẹ đó dẫn đến thực tế đáng buồn là kết quả thi tốt nghiệp, Đại
học, Cao đẳng còn thấp. Nguyên nhân trước hết là do một số giáo viên Ngữ văn
chưa tích cực tìm giải pháp nâng cao chất lượng giờ học, quá nặng nề đến việc
trang bị kiến thức mà không thấy kiến thức ấy phải được tổ chức thế nào để giúp
học viên tiếp nhận một cách hứng thú. Việc ôn tập phần văn học - việc mà nhiều
người cho rằng dễ vì đã có trong sách giáo khoa, lại càng phải chú ý. Việc ôn tập
phần văn học hiện nay, bên cạnh những điều đã làm được vẫn còn một số vấn đề
phải bàn.
Qua những lần dự giờ thăm lớp theo kế hoạch chuyên môn của tổ, nhà trường,

đặc biệt khi làm nhiệm vụ thanh tra hoạt động sư phạm nhà giáo theo quyết định
của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Lào Cai, tôi nhận thấy nhiều giáo viên dạy
Ngữ văn được thanh tra khi dạy phần ôn tập văn học đã không chú ý đến việc hình
thành kĩ năng khái qt hố từ những gì cụ thể. Giáo viên chủ yếu mới dừng lại ở
cấp độ tường thuật, mô tả thông tin chứ chưa hướng học viên tới tầng sâu của thơng
tin, ví như chỉ cho học viên nêu lại hoàn cảnh sáng tác, chủ đề tác phẩm… Cũng có
những giáo viên chủ động tìm tòi đưa thêm kiến thức, nhưng lại là những phần kiến
thức hầu như ít liên quan đến bài học khiến bài dàn trải. Những câu hỏi đưa ra miễn
cưỡng, gượng ép, chưa tiếp nối uyển chuyển giữa các phần kiến thức. Như thế, rõ
ràng giáo viên chưa nhận thức rõ vai trị quan trọng việc ơn tập, chưa xác định đúng
bản chất của đổi mới phương pháp, tâm lí sợ học viên khơng biết nên phải nói hết,
khả năng linh hoạt trong giờ dạy cịn hạn chế. Điều đó đã góp phần đưa đến thực
tế: người học ngại học, người dạy ngại dạy.
Ôn tập là để cũng cố những kiến thức đã học, mặt khác còn là dịp để tổng kết
quá trình học một học kì hay một năm. Việc tổng kết sẽ giúp chúng ta nâng cao
nhận thức, nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Thế nhưng, trong thực tế phần lớn
giờ ơn tập văn học cịn rất nhiều điều bất cập, chưa đạt được mục đích yêu cầu nêu
trên. Những người thầy tâm huyết với nghề, quan ngại trước thực tế dạy- học Ngữ
văn đã thấy vấn đề: cần tiếp tục chú trọng hơn nữa việc đổi mới phương pháp dạy
học Ngữ văn ở đây, tôi nhấn mạnh đến vấn đề rất cụ thể: đổi mới cách dạy phần ôn
tập (tổng kết) Văn học.
Để thực hiện tốt việc ôn tập văn học theo theo tinh thần đổi mới , phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên, bản thân tôi đã không ngừng đổi mới về
tư duy, nhận thức từ khâu soạn giáo án (Thiết kế bài học) cho đến cách sử dụng
thiết bị dạy học. Lập phiếu điều tra để nắm bắt tình hình học tập của học viên, từ đó
điều chỉnh cho phù hợp với thực tế ở Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường
Khương và địa phương.
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn


12


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

III. Các biện pháp tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương
trình Ngữ văn THPT ở Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên:
1. Vài nét về nội dung ôn tập (tổng kết) văn học trong chương trình Ngữ
văn Trung học phổ thơng:
Thời lượng dành cho Văn học Việt Nam, Văn học nước ngồi có nhiều nội
dung mới và hay đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá, khả năng hội nhập và giao lưu văn
hố. Dù cịn mới mẻ nhưng nội dung các bài như Thơ Hai- cư ( Văn học Nhật
Bản), Người trong bao ( Sê- Khốp, Văn học Nga ), Chuyện chức phán sự đền
Tản Viên ( Nguyễn Dữ ), Hầu trời ( Tản Đà ), Chiếc thuyền ngoài xa ( Nguyễn
Minh Châu)… của văn học Việt Nam . . . nhiều tác phẩm nhật dụng, nghị luận đã
góp phần đáng kể giúp học viên có cái nhìn tồn diện, hệ thống về tri thức văn học.
Kéo theo đó số tiết ơn tập, trong đó có phần ơn tập Văn học (Văn học Việt Nam và
Văn học nước ngồi) tăng lên, được bố trí ở cuối học kì, cuối năm học hay kết thúc
một bộ phận, giai đoạn, khuynh hướng văn học nào đó.
Bài ơn tập (tổng kết) Văn học được biên soạn có nhiều cải tiến so với trước
đây, cụ thể đó khơng chỉ là những câu hỏi thuần tuý mà còn là những định hướng
về nội dung và phương pháp ôn tập. Nội dung trong bài ôn tập Văn học gồm cả
văn học Việt Nam, Văn học nước ngồi, Lí luận văn học. Sự phân bố như vậy là
hợp lí, khơng chỉ về kiến thức mà cả về phương pháp.
2. Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hướng phát huy tính
tích cực chủ động của học viên.
Tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học

Ngữ văn nói riêng trong nhà trường phổ thơng đã được chứng minh trong thực tiễn
thời gian qua. Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện nhiều giải
pháp tích cực để nâng cao chất lượng đào tạo mà khâu then chốt là không ngừng
đổi mới phương pháp dạy học. Xét một cách tổng thể, nhiều vấn đề về lí thuyết
dạy học đã được phổ biến, rút kinh nghiệm, song đôi lúc chưa phù hợp ở một số
địa phương. Vì thế tơi mạnh dạn đưa ra phương pháp tổ chức ôn tập (tổng kết)
phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung tâm giáo
dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động
của học viên cụ thể như sau:
2.1. Phương pháp tổ chức ôn tập (tổng kết) Văn học hiện nay

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

13


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Phương pháp dạy phần ôn tập (tổng kết) Văn học đang được sử dụng rộng
rãi ở nhà trường phổ thơng nói chung và Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường
Khương nói riêng hiện nay là giáo viên hướng dẫn học viên làm việc bằng cách hệ
thống hoá những tác giả, tác phẩm đã học trong học kì, trong năm, khẳng định một
lần nữa những nét chính về nội dung tư tưởng và phong cách nghệ thuật dựa trên
sách giáo khoa. Có thầy cơ cịn khái qt hố kiến thức cho các em dựa tên mơ
hình khơng gian, ví như ở lớp 10 học Văn học dân gian, Văn học trung đại Việt
Nam, sử thi ấn Độ, Thơ Đường, tiểu thuyết Minh - Thanh của Văn học Trung
Quốc, Thơ Hai- Cư của Nhật Bản; hoặc theo mơ hình văn học dân tộc: Pháp có V.

Huy- Gơ, H. Ban- Dắc; Nga có A. P u- Skin, Sê- Khốp; Văn học Việt Nam có
Thạch Lam, Nam Cao, Xuân Diệu…trong chương trình Văn học 11. Nội dung ơn
tập trong sách giáo khoa có những vấn đề lớn, sâu đòi hỏi độ tư duy cao nên trong
thực tế giáo viên chỉ chọn một số nội dung đơn giản, dễ dạy. Số câu hỏi, nội dung
còn lại hoặc là bị bỏ qua hoặc được giải thích một cách nơng cạn, đại khái. Nhìn
chung, so với bài đọc văn, bài ơn tập chưa có một cách thiết kế thống nhất (Sách
thiết kế của nhiều nhà nghiên cứu văn học, nhiều nhà giáo, sách giáo viên… cũng
thực hiện mỗi cách khác nhau). Tuy nhiên, một thực trạng như vậy khơng hồn
tồn là cái dở mà cũng có cái hay của nó, đó là sự đa dạng về phong cách và
phương pháp. Dĩ nhiên điều đó cũng gây nên sự lúng túng, thiếu tự tin, thiếu định
hướng cho nhiều giáo viên, kể cả giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy.
2.2. Cách thức tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học theo hướng phát
huy tính tích cực, chủ động của học viên.
Tôi rất tâm đắc với gợi ý thật cụ thể của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng:
“Người thầy phải suy nghĩ, phải chuẩn bị một cách sáng tạo, thầy và trị có thời
gian để đối thoại, thảo luận, tranh luận về tất cả cái gì có liên quan đến bài học. Trí
tuệ, tài năng, tác phong của người thầy được thể hiện ở đây như nguồn ánh sáng
soi vào bóng tối nhằm phát hiện những gì cịn ẩn núp ở đó ”. Đây cũng là cơ hội để
học viên phát huy những gì là sáng tạo, là độc đáo để góp vào cuộc thảo luận
chung.
Một trong những vấn đề then chốt trong việc nâng cao chất lượng dạy học
Ngữ văn là vấn đề chủ thể học viên. Học viên cần được xác định như là một chủ
thể có ý thức. Phát huy tính năng động của chủ thể, năng lực sáng tạo của mỗi
người cũng như phát huy chủ thể học viên chính là đáp ứng một phần quan trọng
của phương pháp dạy học thời đại bùng nổ thông tin và hội nhập tồn cầu (Điều đó
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

14



Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

gải thích tại sao nhiều chương trình giáo dục của nước ngồi hết sức linh hoạt, một
giờ học có khi cả thầy và trò cùng thảo luận và khám phá bài học).
Ở đây, tơi khơng có tham vọng đưa ra một cách dạy mới thay thế cách dạy
phong phú đa dạng mà lâu nay giáo viên vẫn thường sử dụng và cịn tiếp tục được
sử dụng. Tơi chỉ xin giới thiệu một cách dạy mà ở đó tính chủ động, tích cực của
học viên được phát huy.
Thời gian gần đây trên các chương trình phát sóng của Đài truyền hình Việt
Nam xuất hiện nhiều sân chơi tri thức bổ ích, thú vị, thu hút sự quan tâm u thích
khơng chỉ của học viên, sinh viên mà của toàn xã hội như: Ai thông minh hơn học
sinh lớp 5, Đấu trường 100, Ai là triệu phú, Đường lên đỉnh Olympia, … ở các nhà
trường, các lớp vẫn thường xuyên tổ chức những cuộc thi vui về hiểu biết xã hội,
kiến thức như: Em yêu khoa học, Tài trí tuổi trẻ… thu hút sự quan tâm của đông
đảo học viên. Tại sao chúng ta không biến việc ôn tập phần Văn học (cũng như ơn
tập tiếng Việt, Làm văn, Lí luận văn học và các bộ môn khác) thành một hoạt động
tương tự như thế? Thời gian cho hoạt động ôn tập theo phương pháp này được cân
đối cho phù hợp với tiết dạy và khả năng tiếp nhận của học viên.
2.3.Cách tiến hành
Để tiến hành hoạt động dạy- học theo yêu cầu trên ta chia lớp thành 4 đội
tham dự. Mỗi tổ thành một đội do tổ trưởng làm đội trưởng (hoặc một học viên khá
giỏi, nhanh trí, có khả năng thuyết phục người khác), các thành viên của đội được
bố trí chỗ ngồi sao cho thuận tiện khi trao đổi, đưa ra đáp án. Thay vì thuyết giảng
hoặc gọi học viên trả lời thì giáo viên soạn nội dung cần dạy dưới dạng câu hỏi và
tất cả đều có quyền trả lời. Việc tổ chức hoạt động ôn tập này, giáo viên nên dùng
giáo án điện tử để thuận tiện cho sử dụng câu hỏi sinh động hơn trong tiết học và
nhất là thu hút được học viên.

Trong quá trình tổ chức hoạt động dạy học theo hình thức này cần chú ý đến
vấn đề thời gian, cần tránh tối đa thời gian “chết” do phải ổn định tổ chức. Vì vậy
khâu tổ chức lớp học hết sức quan trọng. Ở những Trung tâm hoặc trường có
phịng học bộ mơn nên sử dụng cho tiết học này, vừa chủ động được thời gian vừa
không ảnh hưởng đến lớp học khác.
2.4. Tạo khơng khí văn chương trong tổ chức hoạt động ơn tập (tổng
kết) Văn học
Dạy học là một nghệ thuật tổ chức các hoạt động để thu hút, tạo hứng thú
học tập ở học viên. Điều đó càng có ý nghĩa quan trọng với dạy học Ngữ văn. Giáo
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

15


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

sư Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Dạy văn chính là tổ chức tối ưu hoạt động
cộng đồng hợp tác giữa thầy và trị để trị tự giác, tích cực, tự lực xử lí cái nghĩa
phổ biến của tác phẩm thành cái ý nghĩa độc đáo sáng tạo, phong phú riêng của
từng cá nhân ”. Cảm thụ, tiếp nhận tác phẩm bằng nhiều phương pháp, biện pháp
khác nhau. Song một trong những phương pháp giúp học viên tiếp nhận tác phẩm,
kiến thức lí luận văn học (kể cả tiếp nhận qua ơn tập) có sự hồ đồng cảm xúc
thẩm mĩ, theo tơi chính là tạo được khơng khí văn chương, làm mất sự căng thẳng,
nặng nề của khối lượng kiến thức cần xử lí. Đồng thời tạo được sự dân chủ trong
tiếp nhận và lĩnh hội tri thức, khi đó giờ văn sẽ thú vị hơn rất nhiều.
Dạy văn, học văn trước hết phải có hứng thú. Trong giờ ơn tập (vốn được
xem là khô khan) càng phải gợi được hứng thú ở người học (và cả người dạy). Tạo

khơng khí trong giờ văn nói chung và ơn tập văn học nói riêng là một biện pháp rất
quan trọng để học viên bước đầu tiếp nhận văn chương, thiết lập mối quan hệ giữa
giáo viên- tác phẩm và học viên. Xây dựng bầu khơng khí văn chương là cơ sở
tâm lí, là nội dung khoa học, là phương pháp tạo cho học viên đi đến sự thăng hoa
trong nhận thức, cảm thụ. Có thể hình dung trong q trình ơn tập văn học, khi tạo
bầu khơng khí văn chương, giáo viên như người dẫn chương trình thơng minh,
sáng tạo cộng với một chút hóm hỉnh nhằm kích thích các em tư duy. Việc ơn tập
có thành cơng hay khơng một phần quan trọng dựa vào “cái duyên” này của giáo
viên. Tạo không khí văn chương trong khi ơn tập (tổng kết) phần văn học có thể
thực hiện bằng nhiều cách khác nhau:
Gợi lại khơng gian lịch sử, xã hội, văn hố của những tác phẩm trong bài ôn
tập: ở lớp 10 khi ôn tập phần văn học Việt Nam trung đại ( Văn học Lí – Trần ) ta
có thể gợi lại khơng gian lịch sử - văn hố lúc đó - các cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược Tống, Nguyên- Mông; sự phát triển của Phật giáo. Ở lớp 11 khi ơn
tập cuối học kì I ta có thể gợi lại bối cảnh nông thôn Việt Nam những năm 19301945. Phần văn học nước ngồi cũng có thể làm tương tự.
Tạo khơng khí văn chương bằng cách đưa ra một nhận định tổng quát đòi hỏi
học viên phải tư duy và chưa thể giải quyết ngay, từ đó dẫn dắt các em tìm hiểu
các nội dung ơn tập để trả lời được vấn đề vừa nêu ra. Mặt khác giáo viên cũng có
thể sưu tầm những giai thoại về nhà văn ( những câu về bút danh nhà văn, về công
việc viết văn, về đời tư…) tạo thêm những hiểu biết lí thú, sơi động của tiết học.
Cũng có thể tạo bầu khơng khí bằng cách giao lưu đối thoại trực tiếp giữa giáo
viên- học viên, học viên- học viên ( ví dụ đội 1 trả lời, giáo viên có thể hỏi cách
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

16


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung

tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

nghĩ của đội 2) tạo nên khơng khí vui vẻ, phấn khởi trong suốt tiết học. Điều này
phụ thuộc nhiều vào sự nhanh trí, phản ứng linh hoạt của giáo viên.
Tạo được bầu khơng khí văn chương thực sự là một nghệ thuật. Nó địi hỏi sự
khéo léo, thơng minh và tế nhị của người thầy để làm sao giờ học viên động mà
hiệu quả, vui vẻ mà nghiêm túc. Việc tạo khơng khí văn chương trong giờ ơn tập
văn học được thực hiện xen kẽ các nội dung hoặc trong quá trình trả lời câu hỏi
của học viên. Tuyệt nhiên không lạm dụng, làm mất thời gian của việc ôn tập. Điều
đó địi hỏi sự chủ động, nhạy cảm của giáo viên.
2.5. Hệ thống câu hỏi
2.5.1. Trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm khách quan là cách kiểm tra năng lực ghi nhớ, hiểu biết bản
chất của học viên sau bài học. Có nhiều dạng trắc nghiệm khách quan, nhưng trong
khi ơn tập kiểu này ta nên sử dụng 2 loại : Điền khuyết và nhiều lựa chọn. Với một
câu hỏi, giáo viên đưa ra 4 câu trả lời A, B, C, D, trong đó có một đáp án đúng
nhất. Các đội sẽ dùng bảng để trả lời ( Bảng này làm bằng mêka: viết các đáp án
đúng bằng bút bảng trắng (bút dạ bảng - rất đơn giản và không tốn kém ). Thời
gian suy nghĩ mỗi câu là 10 giây. Có tín hiệu trả lời đều nâng bảng lên. Đội nào trả
lời đúng sẽ được cộng điểm, mức điểm do giáo viên tự quy định, quy đổi. Ghi chép
kết quả là thư kí của lớp.
Việc soạn câu hỏi trắc nghiệm khách quan cần phải có nội dung bao quát,
gồm cả những câu hỏi kiểm tra sự ghi nhớ và những câu hỏi đòi hỏi sự tư duy, suy
luận của học viên để tránh nhàm chán, đơn điệu.
Một số câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn
Ví dụ 1: “ Mặt trời của thi ca Nga” là ai?
A. Êxênhin
B. M. Goorki
C. A. Puskin
D. L. Tơnxtơi

Câu trả lời đúng là C
Ví dụ 2 : Ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Tự tình ( Hồ Xuân Hương ) được
thể hiện ở:
A. Nỗi cô đơn của nhân vật trữ tình
B. Thái độ phản kháng với xã hội phong kiến
C. Tâm trạng tuyệt vọng của nhân vật trữ tình
D. Nỗi buồn, sự phẫn uất và khát vọng sống, ý thức vượt lên của nhân vật trữ tình.
Câu trả lời đúng là D
Câu hỏi trắc nghiệm điền khuyết
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

17


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Ví dụ : Hoàn thành lời nhận định của nhà văn Vũ Ngọc Phan trong cuốn
Nhà văn Việt Nam hiện đại: “Ở nước ta, một năm có thể kể như …... của người”.
A. Năm mươi năm
B. Bốn mươi năm
C. Ba mươi năm
D. Hai mươi
năm
Câu trả lời đúng là C
2.5.2. Kiểm tra kiến thức bằng câu hỏi trả lời ngắn
Giáo viên ra những câu hỏi là tên một trào lưu, một con số về thời gian , sự
kiện văn học, tên tác giả, tác phẩm, nhân vật. Cần soạn những câu hỏi có trọng

tâm, liên hệ mật thiết với người học (có thể hỏi những câu địi hỏi học viên phải
chịu khó tìm tịi, đọc nhiều, hiểu biết rộng mới trả lời được). Những câu hỏi trả lời
ngắn giúp giáo viên đánh giá được đầy đủ năng lực cảm thụ, khái quát hố ở học
viên.
Học viên có thể giơ tay để giành quyền ưu tiên trả lời. Nhưng cũng có thể tạo
điều kiện để các đội tham gia cùng trả lời bằng cách viết lên bảng mêka. Sau 30
giây các đội phải đưa ra đáp án đúng. Đội nào trả lời đúng sẽ được tính điểm.
Ví dụ 1 : Ai là người Châu Á đầu tiên nhận được giải Nobel văn học? Năm
nào? Cho tác phẩm gì?
Đáp án : R. Tagor. Năm 1913. Tập Thơ Dâng
Ví dụ 2 : Hai chủ đề nổi bật trong truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn là gì?
Đáp án: Sự tê liệt của quần chúng và bi kịch của người cách mạng tiên phong.
2.5.3. Câu hỏi so sánh
Câu hỏi so sánh được sử dụng trong bài ôn tập cần mang tính tổng quát, chỉ
ra được bản chất của vấn đề văn học. Đồng thời thấy được mối liên hệ tác động
giữa các vấn đề với nhau (Phải hết sức tránh những câu hỏi vụn vặt, tản mạn). Câu
hỏi so sánh trong ơn tập giúp học viên có cái nhìn tổng quát, đa chiều về nhà văn,
tác phẩm, khuynh hướng, trào lưu, phong cách, hiện tượng văn học. Trong loại câu
hỏi này cần lưu ý các em trả lời trúng trọng tâm, khơng dài dịng. Ngồi phần trả
lời chính thức, giáo viên có thể u cầu học viên lí giải thêm vấn đề để cả lớp cùng
hiểu. Những vấn đề mà học viên lí giải có thể chưa hợp lí nên địi hỏi giáo viên
phải tổng hợp, bổ sung.
So sánh giữa Văn học Việt Nam với Văn học nước ngồi
Ví dụ 1: Theo em, sự gần gũi trong sáng tác của V.Huy- Gô (Văn học Pháp)
và sáng tác của Thạch Lam ( Văn học Việt Nam ) là gì?

Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn


18


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

Đáp án : Sáng tác của V. Huy - Gô và Thạch Lam rất gần nhau ở chủ đề
tình thương yêu và triết lí tình thương u.
So sánh giữa Văn học nước ngồi với Văn học nước ngồi
Ví dụ 2 : Điểm tương đồng về số phận cũng như tính cách của Xô-cô-lốp trong Số
phận con người ( Sô-lô-khốp ) và Xan-chi-a-gơ trong Ơng già và biển cả ( Hêminh-) là gì?
Đáp án : Con người có thể bị tiêu diệt nhưng không thể bị khuất phục
2.5.4. Loại câu hỏi hùng biện và phát biểu cảm nghĩ
Đây là loại câu hỏi hay nhưng khó, giúp ta phân hóa được học viên. Có thể ra
một câu hỏi chung cho cả 4 đội lần lượt trả lời để xếp loại cho điểm ( hoặc ra cho
mỗi đội một câu hỏi khác nhau). Các đội cử người đại diện phát biểu, tranh luận.
Đây là phần sôi động nhất của tiết học, là lúc mà vai trò cá nhân xuất sắc được
phát huy. Cũng qua đó giáo viên phần nào nắm bắt được năng lực, sở trường của
học viên, chuẩn bị cho mục tiêu cao hơn (Lựa chọn để bồi dưỡng học viên giỏi
chẳng hạn). Khi soạn những câu hỏi hùng biện cần bám sát trọng tâm ơn tập, khai
thác những nội dung “có tính vấn đề” để học viên tranh luận, đưa ra nhận xét đánh
giá. Những nhận xét đánh giá của các em có thể khác nhau, có khi trái ngược nhau.
Giáo viên tôn trọng ý kiến của từng học viên, nhưng vẫn phải uốn nắn những lệch
lạc để các em có định hướng đúng đắn về kiến thức cũng như tư tưởng, tình cảm…
Phần trả lời câu hỏi hùng biện và phát biểu cảm nghĩ có thể thực hiện bằng
cách: Các đội viết vào tờ bóng kính, trình chiếu bằng máy chiếu hắt để các đội
cùng quan sát, bổ sung. Việc làm này giúp các em tự tin, bản lĩnh khi thuyết trình
một vấn đề trước tập thể.
Ví dụ 1 : Một tác phẩm văn học có thể được cảm nhận khác nhau hay khơng?
Vì sao?

Đáp án:
- Cảm nhận văn học là một hành động chủ quan và rất đa dạng. Người đọc
có quyền lí giải tác phẩm văn học theo sự hiểu biết, theo cách nghĩ của mình và sự
lí giải ấy có thể theo nhiều cách khác nhau
- Sự khác nhau này xuất phát từ các nguyên nhân sau:
+ Bắt nguồn từ tính phong phú của nội dung cũng như tính đa nghĩa của hình tượng
nghệ thuật
+ Tuổi tác, kinh nghiệm sống, học vấn và tâm trạng khi tiếp xúc tác phẩm
+ Mơi trường văn hố - xã hội mà cá nhân đang sống
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

19


Đề tài: Tổ chức ôn tập (tổng kết) phần Văn học trong chương trình Ngữ văn Trung học phổ thơng ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học viên

+ Sự hiểu biết nhiều chiều.
Ví dụ 2 : Phát biểu cảm nghĩ của em về nhân vật Bê- li- cốp (Người trong
bao - Sê- khốp )?
Đáp án : Tuỳ thuộc vào cảm nhận của từng học viên.
Thành công hay không của hoạt động ôn tập này phụ thuộc rất nhiều vào việc
thiết kế hệ thống câu hỏi của giáo viên. Câu hỏi q khó hoặc q dễ đều khơng
phát huy được tính tích cực chủ động của học viên. Trong q trình biên soạn, giáo
viên có thể đưa thêm một số câu hỏi về đời sống, hiểu biết xã hội có liên quan mật
thiết đến bài học.
2.6. Đánh giá tổng kết
Cuối phần ôn tập, giáo viên tổng kết điểm, nhận xét từng đội và cá nhân về các

nội dung: Tinh thần tham gia học tập, khả năng nắm bắt kiến thức, độ nhanh nhạy
khi trả lời các câu hỏi, tinh thần đồng đội, vai trò người đội trưởng. Cách nhận xét,
đánh giá của giáo viên phải đảm bảo công bằng, khoa học, chính xác và đặc biệt
cũng cần nâng niu, trân trọng những gì các em có. Trong q trình đánh giá tổng
kết, giáo viên cần chỉ ra những hạn chế, thiếu sót để các em rút kinh nghiệm cho
những tiết học sau. Càng nghiêm túc bao nhiêu hiệu quả giáo dục của nó sẽ càng
cao, khơng chỉ với tiết học đó mà cả những tiết học sau đó. Đây là những vấn đề
không mới nhưng không bao giờ cũ bởi nó là cơ sở, nền tảng, động lực cho sự
phát triển của học viên.
IV. Hiệu quả của SKKN:
Tổ chức ôn tập phần Văn học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động
của học viên là cách làm phù hợp với thực tiễn quá trình đổi mới phương pháp dạy
học văn trong nhà trường phổ thông, phù hợp với sự đổi mới chương trình, sách
giáo khoa, đổi mới về phương pháp kiểm tra đánh gia, ứng dụng công nghệ thông
tin trong dạy học Ngữ văn hiện nay. Cách làm này thực chất là biến những gì thuộc
về lí thuyết khô cứng thành tư duy sáng tạo – con đường nhanh nhất, đúng đắn
nhất nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học viên. Nhìn một cách
tổng thể, việc ơn tập văn học theo cách này chính là đã tạo ra một môi trường hoạt
động - giao lưu nhằm kích thích hứng thú học tập của học viên. Chúng ta đã và
đang tìm kiếm con đường nâng cao hiệu quả học tập, phát huy tính tích cực sáng
tao, tơn trọng chủ thể học viên thì đây sẽ là cách làm có thể coi là hiệu quả bởi nó
phù hợp với trình độ, tâm lí lứa tuổi của đa số học viên, nhất là phù hợp với nhiều
địa phương (nhất là vùng sâu, vùng xa của chúng ta). Nói như một nhà phương
Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy - Trung tâm giáo dục thường xuyên Mường Khương

skkn

20




×