………… o0o…………
Bài tiểu luận cơ sở văn hóa
Lời mở đầu
Theo Hán ngữ chúng ta thấy rõ: Chữ "Hiếu" ( 孝)là chữ viết tắt của hai chữ "Lão" (
老 ) ở trên (lượt bớt phần dưới) và chữ "Tử" ( 子 )ở dưới. "Hiếu" tức là mối quan hệ cha
trên, con dưới; suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.
Chữ Hiếu là một trong những nét đạo đức của nền
phong hóa Việt, Hiếu có nghĩa là đức hạnh của một
người biết thờ kính, chăm sóc mẹ cha. Khi còn bé thì
phải biết tuân theo lời dạy bảo của cha mẹ, khi cha mẹ
còn sinh tiền thì phải biết chăm sóc, hầu hạ, phụng
dưỡng cho trọn đạo làm con; đến khi cha mẹ mãn phần
thì phải để tang, thờ cúng và nguyện cầu cho cha mẹ
được vãng sanh; siêu thoát.
Trong đạo Phật, đạo Hiếu đã được đức Phật dạy
cho hàng đệ tử phải lấy chữ hiếu làm trọng. Ân cha mẹ
là một trong tứ ân cần phải luôn luôn giữ gìn và tu tập.
Trong kinh Vu Lan, Đức Phật đã dạy cho chúng ta
gương hiếu hạnh của Đức Mục Kiền Liên và từ đó đã
khai nguồn cho mùa Vu Lan thắng hội vào dịp rằm
tháng bảy âm lịch. Mùa Vu Lan còn được gọi là mùa báo hiếu, lễ tiết Vu Lan rằm tháng
bảy là một trong những ngày lễ vía quan trọng của sinh hoạt Phật giáo. Nương theo tinh
thần báo hiếu của ngày lễ Vu Lan, căn cứ theo sự tích Đức Mục Kiền Liên cầu xin Đức
Phật dạy cho phương cách cúng dường trai tăng và nhờ vào nguyện lực của chư tăng mà
đã cứu được mẹ thoát khỏi ngục hình. Do đó ngày Vu Lan còn được xem như là "Ngày
của Mẹ". Vì thế trong lãnh vực Đạo Hiếu đã có sự gần gũi, gắn bó giữa sinh hoạt của đạo
Phật và nền văn hóa Việt tộc.
"Hiếu" là thiên kinh địa nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục ngữ đã nói nhiều,
ngay trong bài học vỡ lòng, trong "Luân lý giáo khoa thư" chúng ta đã hiểu: "Công cha
như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra" Những chân lý đó, ai
không chấp nhận, song quan niệm về chữ "Hiếu" ngày nay cũng có phần khác thời xưa.
Đạo hiếu xuyên suốt trong mọi phong tục của nhân dân ta, không thể không nói đến
chữ hiếu khi viết về phong tục cổ truyền của ta. Lễ tế, lễ tang, lễ cưới, kể cả sinh đẻ, xây
nhà dựng cửa, hội hè đình đám, việc nước, việc làng, thuần phong mỹ tục đã đành mà
trong số những phong tục đã lỗi thời, ngày nay bị xếp vào loại đồi phong bại tục, ta cũng
chắt lọc được một phần tinh hoa của đạo hiếu. Có rất nhiều người đã nói tới đạo hiếu
nhưng cũng không thể nói hết được ý nghĩa của chữ hiếu. Chính vì nhưng lí do trên mà
tôi đã chọn đề tài là “Đạo Hiếu trong văn hóa Việt Nam”. Qua đề tài này, tôi muốn giới
thiệu với tất cả mọi người về “Đạo Hiếu” một nét đẹp văn hóa của đất nước và con người
Việt Nam.
1.1 Khái quát chung về “Đạo Hiếu”
Con người chúng ta từ khi sinh ra ai cũng đều biết đến chữ Hiếu. Theo từ điển Hán –
Việt chữ “Hiếu” ( 孝) là chữ viết tắt của hai chữ "Lão" ( 老 ) ở trên (lượt bớt phần dưới)
và chữ "Tử" ( 子 ) ở dưới. Hiếu là một đạo lâu đời
nhất trong các đạo.
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu
đạo, được xem là một di sản quí báu, một chất liệu
sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng và giữ gìn
Khi Phật Giáo xuất hiện ở Việt Nam thì đạo đức dân
tộc và đạo đức Phật Giáo hòa quyện vào nhau như
nước với sữa. Do người Việt sẵn có tinh thần yêu
chuộng đạo hiếu và giá trị giải thoát nên đã tiếp
nhận giáo lý Phật Giáo một cách dễ dàng. Làm
người ai cũng mang ơn sanh thành dưỡng dục của
cha mẹ. Người Phật tử Việt Nam hướng về Lễ hội
Vu Lan vào ngày rằm tháng bảy mỗi năm là thực
hiện một phương thức báo hiếu vốn có từ lâu đời, và
xem đó như là một tín ngưỡng truyền thống. Đây là
nét đẹp của đạo hiếu xuyên suốt chiều dài lịch sử
vốn có trong nền văn hóa Việt Nam.
Hiếu thảo với cha mẹ là một nét đẹp văn hóa đã trở thành truyền thống, tiêu biểu
cho cốt cách con người Việt Nam, là bước đi đầu tiên trên con đường hoàn thiện nhân
cách và đạo đức. Con người có lòng hiếu thảo mới hội tụ đủ: “Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí –
Tín” và nếu ai không có đủ các phẩm chất đó có thể
được coi là không thành người.
1.2 Quan niệm về chữ Hiếu của
dân tộc Việt Nam
Hiếu kính Cha Mẹ là một truyền thống rất tốt đẹp
và lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta. Truyền
thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến ngày nay.
Có thể nói hiếu thảo là cái gốc của đạo làm người.
Đã bao thế hệ người Việt chúng ta lớn lên trong lời
ru nhẹ nhàng sâu lắng: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra”. Để rồi từ lúc nào triết lý sống đậm chất nhân bản ấy thấm sâu vào tâm khảm, trở
thành phương châm sống cho mỗi con người. Đạo Hiếu là một nét đẹp văn hóa đã trở
thành truyền thống, tiêu biểu cho cốt cách con người Việt Nam, là bước đi đầu tiên trên
con đường hoàn thiện nhân cách và đạo đức. Con người có lòng hiếu thảo mới hội tụ đủ:
“Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí – Tín và nếu ai không có đủ các phẩm chất đó có thể được coi là
không thành người.
Cùng với sự phát triển của xã hội, ngày nay các gia đình hai thế hệ chiếm số đông,
gia đình nhiều thế hệ ngày một ít đi. Song dù thế nào đi nữa thì một trong những tiêu chí
lớn của đạo làm người của người Việt ta là hiếu thảo với cha mẹ không bao giờ thay đổi.
1.2.1 Các cách thể hiện về Đạo Hiếu
Đạo Hiếu được ghi lại trong rất nhiều các tác phẩm văn học, ca dao tục ngữ, những
câu truyện sự tích v v . Trong văn học dân gian còn lưu lại những dấu tích về tấm lòng
yêu chuông đạo hiếu người con Việt. Trải qua bao giai đoạn thăng trầm của lịch sử với
những phương diện trong đời sống con người, như kinh tế, chính trị, văn hóa và nghệ
thuật v.v , nó cùng ảnh hưởng tương tác giúp cho người Việt Nam làm nên văn hóa của
dân tộc trong quá khứ và hiện tại. Văn học dân gian Việt Nam đã đề cao văn hóa gia
đình và dòng tộc. Trong truyền thuyết hay truyện cổ tích, người Việt luôn tự hào là thuộc
dòng giống con rồng cháu tiên. Lạc Long Quân như là một người cha mẫu mực, anh
hùng, thương yêu và che chở con cái lúc hoạn nạn, thường khuyên mọi người ăn ở hiền
lành, sống đúng đạo lý cha con và tình nghĩa vợ chồng. Đó là ý thức về hiếu hạnh, đặt
nền tảng gây dựng đạo đức xã hội.
Câu chuyện về sự tích bánh chưng bánh dầy đã bày tỏ công lao sanh dưỡng của cha
mẹ. Nó nói lên lòng hiếu thảo của người con với cha mẹ của mình
bằng những hành động việc làm giản đơn. Lang Liêu, vị hoàng tử
thứ mười tám, là người con hiếu thảo, hiền lành đã dâng lên vua cha
thứ bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dầy tượng trưng cho trời;
với ý nghĩa xem công cha nghĩa mẹ to lớn như trời cao đất rộng, che
chở cho con cái sống an vui giữa đời. Do vậy mà được vua Hùng
truyền trao ngôi vua. Tiền bạc, vàng ngọc châu báu, của ngon vật lạ
của các người con khác dâng lên đều bị vua từ chối. Ý thức ấy như
ngọn gió đạo đức đã thổi vào luồng văn
hóa dân tộc để xây dựng nền đạo lý lâu
dài. Chiếc bánh chưng, bánh dầy đã trở
thành một sản phẩm cổ truyền, một
chứng tích của đạo lý, chiếc bánh ấy thường được dâng
cúng tổ tiên trong dịp Tết Nguyên Đán và các lễ hội hàng
năm.
Trong ca dao Việt Nam, tiếng nói đạo đức mang
truyền thống văn hóa dân tộc được kết tụ mấy nghìn năm
lịch sử. Với những lời lẽ mộc mạc, dễ hiểu đã đề cao được
công lao dưỡng dục của cha mẹ, nó không nằm trong phạm
vi văn chương bác học, mà trở lại gần gủi và phổ cập với đời sống con người qua bao thế
hệ:
“Công cha nghĩa mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.”
“Ơn cha lành cao hơn non Thái
Nghĩa mẹ hiền sâu tựa biển khơi
Dù cho dâng cả một đời
Củng không trả được ơn người sinh ta.”
“ Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Vậy người cha, nổi bật là đức nghiêm. Có nghiêm mới giáo dục con cái có đạo đức,
có văn hóa, sau trở thành người đủ tài đủ đức, nên tính đức người cha sừng sững, vòi vọi
như núi Thái Sơn. Còn tính đức của người mẹ thì muốn con có cuộc sống no ấm, đủ đầy.
Người mẹ lại thường gần gũi, an ủy, vỗ về con cái hơn, nên tình nghĩa của người mẹ, nó
đậm đà, da diết như suối nguồn bất tận. Suối nguồn tình thương của người mẹ, nó dịu
dàng, đầm ấm, âm thầm tuôn chảy không bao giờ dừng nghỉ. Nên trách nhiệm người con
là phải "một lòng thờ mẹ kính cha ".
“Bốn con ngồi bốn góc giường
Mẹ ơi mẹ hỡi mẹ thương con nào
Mẹ thương con út mẹ thay
Thương thì thương vậy chẳng tày trưởng nam
Trưởng nam nào có gì đâu
Một trăm cái giỗ đổ đầu trưởng nam”
"Mồ côi cha, ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ lót lá mà nằm
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ".
Ngoài những mẩu truyện sự tích, ca dao tục ngữ thì
trong văn học Việt Nam “Đạo Hiếu” cũng được các nhà
văn nhà thơ nói đến rất nhiều. Như trong “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du đạo hiếu được nhắc đến rất sâu sắc, với
hình ảnh Thúy Kiều bán mình chuộc cha như một khúc
đàn ai oán, báo hiệu cho sự bất hạnh của một con người. Sự bất hạnh ấy, là một tấm
gương sáng khó quên được khi nhắc đến Kiều.
“Duyên hội ngộ đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn,
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sanh thành.”
Thúy Kiều đã hy sinh tất cả hạnh phúc cá nhân để làm tròn Chữ Hiếu:
“Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay.”
“ Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngã bóng dâu tà tà”.
(trong câu 1254-1255, truyện kiều)
Hay:
“Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương
Mái nhì man mác nhớ sông Hương
Hà ơi, tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cày đắng bao nhiêu nổi đoạn trường”.
(Quê mẹ- Tố Hữu)
Hay như Cụ Nguyễn Đình Chiểu, một sĩ phu yêu nước, thương dân vào thế kỉ thứ mười
chín, không màng danh lợi, rất đề cao tinh thần hiếu hạnh, thể trong tác phẩm“ Lục Vân
Tiên.” Hình ảnh Lục Vân Tiên trên đường đi thi trạng nguyên, nghe tin mẹ mất, đã quay
về chịu tang cho mẹ và ông đã khóc lóc đến mù mắt. Lục Vân Tiên không vì sự nghiệp
của bản thân mình mà quên đi trách nhiệm của người con khi cha mẹ qua đời.
1.2.2 Đạo Hiếu trong Phật giáo
Trong đạo Phật đạo hiếu gồm có bốn thứ: một là đại hiếu, hai là tiểu hiếu, ba là
viễn hiếu, bốn là cận hiếu. Thế nào là đại hiếu? Tức là báo đền ơn cha mẹ của mình trong
nhiều đời về trước, báo đền ơn của sư trưởng. Thế nào là tiểu hiếu? Tức là hiếu thảo với
cha mẹ trong đời này mà thôi; lo lắng, chăm sóc làm cho cha mẹ vui vẻ, phụng dưỡng, an
ủi, đó tức là cung kính cha mẹ, cúng dường cha mẹ. Thế nào gọi là viễn hiếu? Tức là kính
trọng các bậc thánh hiền xưa kia, ly mỗi lời nói mỗi công hạnh của họ làm gương sáng để
mình bắt chước noi theo. Thế nào là cận hiếu? Tức là ngoại trừ hiếu thảo với cha mẹ
mình, thì cũng cần phải hiếu thảo với cha mẹ người khác. Rằng: "lo ngô lo, dĩ cập nhân
chi lo", tức là tôn trọng những huynh trưởng, tiền bối của mình rồi cũng tôn trọng những
bậc tiền bối của kẻ khác. Mình cần có tư tưởng và hành động hiếu thảo như vậy.
Phật giáo gắng liền với truyền thống văn hóa Việt Nam, thông qua pháp Báo hiếu
trong kinh Vu Lan bồn được thể hiện khá rõ nét. Có thể nói, pháp báo hiếu này là điểm
tựa tinh thần cững chắc và cũng là nền tảng đạo đức của dân tộc ta.
Kinh Nhẫn Nhục có dạy rằng:
"Ðiều thiện tối cao là chí hiếu, điều ác cực ác là bất hiếu."
Trong giáo lý đạo Phật, Đức Phật Thích Ca, ngài là một bậc Thầy của trời người
đã thể hiện trọn vẹn về hạnh hiếu. Khi vua Tịnh Phạn bệnh nặng, ngài đã về hoàng cung
để thuyết pháp cho vua cha. Trong kinh Địa Tạng có chép rằng, Đức Phật còn lên cung
trời Đâu Lợi thuyết pháp cho mẹ là Thánh Mẫu Ma Gia. Vì công ơn sanh thành dưỡng
dục của cha mẹ quá là cao dày, nên Kinh Thi có câu: "Phụ hề sinh ngã, Mẫu hề cúc ngã,
Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao. Dục báo thâm ân, hiệu thiên vãng cực" (Cha sanh ra ta,
Mẹ nuôi nấng ta, Thương cha mẹ lắm, vì sinh ta nhọc nhằn, đến khi muốn báo đáp ân
sâu, thì than ôi, trời cao không cùng!).
Công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ quá là lớn lao, như trời cao. Khi người con
muốn đền đáp ân sâu thì lúc đó như trời cao vói không tới. Từ khi cưu mang đến mở mắt
chào đời, trưởng thành và lớn khôn, cha mẹ phải chịu biết bao là khổ sở, nhọc nhằn. Thế
mà khi sức sống đã truyền hết cho con thì cha mẹ hơi tàn sức tận, rồi trở thành "người
thiên cổ". Ai có lớn lên từng nếm mùi cay đắng, thấm gót phong trần thì mới thấm thía
cái ơn của cha mẹ mình. Một người biết đến điều ân nghĩa, chắc chắn không dám vội
quên cái ơn của cha mẹ.
Đạo Hiếu còn được thể hiện qua kinh Báo ân. Qua tư tưởng hiếu đạo của kinh Báo
ân cha mẹ, chúng ta đã thấy tinh thần hiếu đạo là một trong những pháp môn tu tập của
người Phật tử . Pháp môn ấy đem lại đạo đức và hạnh phúc cho con người và xã hội.
Đức Phật dạy: "Những ai đền ơn cha mẹ bằng
cách nuôi dưỡng, dâng cúng với của cải, vật chất,
tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ.
Nhưng này các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có
lòng tin Tam bảo thì khuyến khích có lòng tin Tam
bảo, đối với cha mẹ sống tà giới thì khuyến khích
vào chánh giới, đối với cha mẹ gian tham thì khuyến
khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích
vào chánh kiến. Cho đến như vậy, này các Tỳ kheo,
là đền đáp xứng đáng cho mẹ và cha" (Tăng Chi 1,
75). Ở trong Kinh Vu Lan, hình ảnh Đức Mục Kiền
Liên tiêu biểu một đệ tử chí hiếu. Có thể khẳng định rằng từ thuở xa xưa đến nay, tấm
gương hiếu hạnh của Tôn giả Mục Kiền Liên vẫn mãi mãi soi sáng, làm thắm đượm nhân
tình. Sau khi thành đạt đạo qủa A La Hán, ngài Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn quan sát
khắp, thấy mẹ mình bị đọa đày làm loài quỷ đói. Ngài là hàng đệ tử thần thông đệ nhất,
tin rằng sẽ cứu được mẹ qua cơn đói khát đày đọa tấm thân. Ngài với hai tay cầm bát cơm
vừa đưa ngang miệng, thì than ôi, cơm hóa thành than hồng, không thể ăn được! Tôn giả
chính mắt chứng kiến cảnh tượng này, lòng đau khổ vô cùng. Tôn giả trở về xin Phật mở
lương từ bi cứu độ mẹ Ngài. Phật dạy: "Mẹ ông đã nhiều kiếp gieo nhơn xan tham keo
kiệt, nên nay phải chịu qủa báo làm loài quỷ đói. Một mình ông không thể cứu được. Phải
nhân ngày Rằm tháng Bảy, tổ chức cúng dường Phật và chúng Tăng mười phương, nhờ
vào uy lực và sức chú nguyện của Phật và chúng Tăng mười phương thì mẹ ông mới có
thể siêu thoát được". Sau đó, Tôn giả Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật dạy, đến ngày
Rằm tháng Bảy đem phẩm vật đến cúng dường chúng Tăng mười phương. Mẹ của Ngài
nhờ uy đức phước lực của chúng Tăng và lòng chí thành chí kính của Ngài, sớm được
thoát khỏi nỗi thống khổ của loài quỷ đói, siêu sinh về cõi lành.
Từ đó, ngày Lễ Vu Lan được tổ chức long trọng để hàng Phật tử câu hội về ngôi Tam
bảo, cúng dường đức Phật và chúng Tăng, cầu cho cha mẹ còn sống được thân tâm an
lạc, sau khi mạng chung được sanh về cõi lành.
Về phương diện giáo dục đạo đức của đạo Phật, một điểm đáng ghi nhận là giáo dục
về hiếu đạo. Hiếu đạo là nền tảng đạo đức của đạo làm người cho ra người. Chúng ta có
thể trang trải tình thương đến tất cả mọi loài mọi vật, nhưng điểm xuất phát làm nền tảng
phải từ sự hiếu kính cha mẹ. Một người có thể thương đủ thứ người, tình thương đó trùm
hết muôn loài vạn vật, nhưng nếu không thương kính cha mẹ thì tình thương đó e thành
giả dối, vì không có gốc rễ, không được lập
cước từ căn bản. Cho nên hiếu đạo xưa nay
vẫn thường được đề cao trong phạm vi luân lý
đạo đức. Nếu chưa thực hiện hiếu đạo ngay
trong đời sống gia đình đối với cha và mẹ thì
chưa thể xứng đáng là một con người. Người
xưa có câu: "Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa
vi tiên". Ngày rằm tháng bảy là ngày Vu Lan
báo hiếu. Ngày rằm tháng bảy còn là ngày Phật
Hoan Hỷ. Tại sao Phật vui trong ngày đó? Bởi
vì đó là ngày tăng chúng tự tứ. Sau ba tháng an
cư, Phật họp chúng tăng lại để “tự tứ”, nghĩa là
để sửa lỗi cho nhau và cùng sám hối lỗi. Sám
hối như vậy thì tâm thanh tịnh; thấy chúng
tăng thanh tịnh, làm sao phật không vui?
Tinh thần hiếu hạnh Phật giáo thấm nhuần
trong văn hóa của dân tộc Việt nam , ca dao có
câu: “dù ai buôn bán đâu đâu, cứ rằm tháng
Bảy mưa Ngâu thì về”. Rằm tháng bảy trong
kí ức mọi người là ngày xá tội vong nhân, phát tâm làm lành lánh dữ, cúng dường Tam
Bảo cầu cho gia quyến bình an và cầu nguyện cho hương linh cha mẹ và tổ tiên quá vãng
được sanh về cỏi an lành .Như vậy ,Phật Giáo thực hiên rất sâu sắc hơn về ý nghĩa đạo
hiếu. Người Phật Tử làm tất cả các thiện pháp để hồi hướng cho tổ tiên ông bà quá vãng
nhiều đời: “đa sanh phụ mẫu”, là nuôi lớn tình thương bình đẳng vô ngã vị tha. Ý nghĩa
ấy, chúng ta còn phải có trách nhiệm với bao bậc mẹ cha khác trên cuộc đời, vì giá trị
rộng lớn của chữ hiếu trong triết lý duyên sinh. Theo quan điểm đao Phật, hiếu thuận với
cha mẹ là phải hiếu thuận với tất cả mọi người .Đây là lý tưởng sống cao đẹp không
những dân tộc Viêt Nam mà các dân tộc tiến bộ khác trên thế giới đều yêu chuộng và giữ
gìn .
1.3 Vai trò của “Đạo Hiếu” trong đời sống
Trong nền luân lý cổ truyền Việt Nam, đạo hiếu được đề cao trong phong cách, và
bản chất của con người. Nói đến đạo hiếu là nói đến truyền thống quý báu của người dân
Việt dược thể hiện muôn hình muôn vẻ trong cuộc sống đời thường mà chúng ta cần
chiêm nghiệm.
Dù chúng ta sống nơi đâu, thành thị hay thôn quê, chúng ta cũng khó tách rời cái
ngôi đầu tiên của cuộc đời mình là mái ấm tình thương của cha mẹ. Tấc cả các sinh vật
trên thế gian này, được sinh ra và tồn tại là nhờ vào sự duy truyền nòi giống giữa cơ thể
cha cùng cơ thể mẹ. Mỗi loài đều có thuộc tính khác nhau. Chúng ta có sự diễm phúc hơn
các loài sinh vật khác là nhờ sự nhận thức thế giới bằng chính khả năng tri giác của mình.
Điều này đạo Phật thể hiện rất rõ qua lời dạy của đức Thế tôn: “Được làm thân người là
khó, được gặp Phật vá nghe pháp lại càng khó hơn”. Hẳn bạn cũng cảm nhận điều ấy
trong cuộc sống thương nhật của mình. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây, là sự đối đãi giữa
người và người trong xã hội. Sự đối đãi ấy, không phải đơn điệu bình thường mà là cả
nghệ thuật sống bằng chính khả năng nhận thức của mỗi người trong một hoàn cảnh nhất
định. Bạn đang sống trong môi trường gia đình, tất nhiên bạn phải chấp nhận những thiết
chế mà gia đình đặt ra. Và có lúc nào đó bạn tự hỏi: “mình có làm đúng vai trò của người
con đối với cha mẹ hay chưa?”. Chính câu hỏi này là nền tảng đưa bạn đến thành công
trên mọi lĩnh vực xã hội.
Ngày nay, đất nước đang hòa nhập vào sự phát triển khoa học kỉ thuật hiện đại,
cùng với sự du nhập các nền văn hóa phương tây, liệu chúng ta có giữ được truyền thống
tốt đẹp của lòng hiếu kính hay không? Chính câu hỏi này, cũng là nỗi ưu tư các nhà xã
hội học. Nạn ma túy đang hoành hành, hàng loạt bi kịch xảy ra trong cuộc sống như hả hế
với sự tàn đầy dã tâm của một con quỷ dữ. Dù thế nào đi chăng nữa, tôi và bạn không thể
dững dưng với nổi khổ của các bậc cha mẹ về những đứa con vô tâm như thế. Phàm làm
người, chúng ta không thể sống một cách buông thả để ngày tháng trôi qua mà không
nuối tiếc. Vì rằng, chúng ta còn hiện hữu trên cuộc đời này là chúng ta còn mang ơn và
báo ơn.
Bạn cùng tôi hãy sống thực với chính mình, bằng chính trái tim và hơi thở để cảm
nhận ở mỗi chúng ta là một thế giới có đủ năng lực diệu dụng của từ bi và trí huệ. Lòng
từ bi không thể thiếu được yêu và thương. Bỡi lẽ, lòng từ bi bắt nguồn từ tình yêu thương
cha mẹ. Nếu không có chất liệu ấy, thì con người khó có thể hòa nhập với đời. Ngày xưa
vua Trần Nhân Tông đã cảm hóa cha mình chính chất liệu hiếu và thương.
“Ân cha lành cao như núi Thái
Nghĩa mẹ hiền sâu tựa biển khơi
Dù cho dâng cả cuộc đời
Cũng không trả được ơn người sinh ta.”
Hay:
“Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thương
Mái nhì man mác nhớ sông Hương
Hà ơi, tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cày đắng bao nhiêu nổi đoạn trường”.
(Quê mẹ- Tố Hữu)
Tập tục của người Việt Nam thể hiện tinh thần hiếu đạo qua việc thờ cúng tổ tiên
trong mọi gia đình, mà chúng ta thường gọi là đạo ông bà. Vả chăng, dù bạn đang đứng
trên quan điểm của ngành Triết học nào đi nữa, thì bạn cũng không thể đánh mất chất liệu
hiếu và thương. Bỡi vì: “Hiếu là tâm địa pháp môn”.Chúng ta phải làm gì để đúng với
tinh thần đạo hiếu?
Từ bao đời “trẻ cậy cha, già cậy con” luôn được coi là điều tất yếu. Nhất là khi
chúng ta chưa có quỹ phúc lợi và các trung tâm chăm sóc người già một cách tốt nhất như
ở các nước phát triển. Ở đây nếu hiểu một cách sâu sắc và đúng đắn thì “cậy’ không chỉ
là sự nhờ vả, mà cao hơn chính là sự tin yêu vào thái độ chăm sóc của con cháu. Điều này
thể hiện đạo lý: “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam ta. Đồng thời còn là động
cơ thôi thúc mỗi con người phấn đấu vươn lên trong cuộc sống, gieo trồng quả phúc cho
đời sau.
Người xưa răn dạy con cháu vô cùng sâu sắc: “Khi cha mẹ còn hết lòng thương
nhớ, đó thực là cái đạo hiếu của con đối với cha mẹ vậy. Làm trái lại hẳn như thế là bất
hiếu, mang một cái tội rất to! Làm trái lại một nửa như thế, nghĩa là khi cha mẹ còn thì
thờ ơ chểnh mảng, lúc cha mẹ mất thì mâm cao cỗ đầy “làm văn tế ruồi”, như thế cũng là
bất hiếu. Cho nên là người con có hiếu còn cha mẹ ngày nào nên mừng ngày ấy, kíp ăn ở
cho trọn đạo, chớ để đến lúc cha mẹ mất rồi, có hối lại cũng không sao được nữa. Vì rằng
làm con mà được còn cha mẹ để báo đáp là một việc sung sướng ở đời, mà cũng là có
duyên có phúc nữa.” (Cổ học tinh hoa của Nguyễn Ngọc và Trần Lê Nhân).
Cha mẹ là đấng sinh thành, đã cống hiến trọn đời cho gia đình, cho quê hương đất
nước. Cha mẹ đã từng sống, chiến đấu, lao động và học tập góp phần làm nên những
chiến công thầm lặng. Khi già yếu cha mẹ có quyền được nghỉ ngơi và được hưởng sự
chăm sóc của gia đình và xã hội. Hạnh phúc của cha mẹ là được thấy một gia đình hòa
thuận, con cháu khỏe mạnh chăm ngoan, học tập và lao động chăm chỉ… Điều đó cần
thiết hơn mọi sự chăm sóc về vật chất. Đặc biệt sự gần gũi chăm sóc thăm hỏi thường
xuyên, dù vật chất còn hạn chế vẫn đáng quí hơn sự lạnh nhạt, thờ ơ, mặc cho cha mẹ
thui thủi một mình, chỉ khi nguy cấp mới có mặt nhưng anh em lại tỵ nhau, so đo tính
toán thiệt hơn, tranh giành của cải.
Thực tế hiện nay gia đình nhiều thế hệ vẫn phát huy được những thế mạnh đặc
thù. Cha mẹ tuy già yếu nhưng bù lại có vốn sống và kinh nghiệm phong phú, giúp ích rất
nhiều cho con cháu. Mỗi chúng ta đều thấm nhuần câu ngạn ngữ: ‘Kính già yêu trẻ” và
mối quan hệ gắn bó với nhau phương châm sử thế, trong đạo làm người. những người con
bất hiếu với cha mẹ sẽ phải gánh chịu hậu quả khó lường theo quan hệ nhân quả và trước
dư luận xã hội.
Đất nước ngày một phát triển, có những chuẩn mực đạo đức truyền thông cần
thay đổi cho phù hợp với sự tiến bộ của xã hội. Song mãi mãi gia đình vẫn là tế bào của
xã hội và hiếu thảo với cha mẹ mãi mãi là chuẩn mực đạo đức bất di bất dịch. Điều đó
cao cả thiêng liêng như một tôn giáo chân chính, bởi đó là “đạo” - đạo làm người. Qua
bài viết này tôi muốn khẳng định rằng dù thế nào đi chăng nữa thì “Đạo Hiếu” sẽ mãi là
chân lý để 1 con người có thể thành người. Đạo làm người được tóm gọn trong 1 chữ
“Hiếu”
Các tài liệu tham khảo:
1.
2. (chuyên đề phật đản - Vu Lan)
3. ( nội san - suối nguồn 5)
4. (Quan niệm đạo hiếu của Phật giáo )
5. ( Giáo dục Vu Lan )
6.
7. (Đạo Hiếu trong văn hóa Việt Nam)