Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Skkn một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh đạt hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.7 KB, 20 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH
TRƯỜNG THCS PHẠM VĂN HINH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 6
LÀM BÀI VĂN TẢ CẢNH ĐẠT HIỆU QUẢ

Người thực hiện: Hồ Thị Lan Phương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Phạm Văn Hinh
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Ngữ văn

THẠCH THÀNH, NĂM 2021

1

skkn


I. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ngữ văn có vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội loài người. Theo
chủ nghĩa duy vật biện chứng, đánh dấu sự tách biệt của loài người với thế giới
loài vật là ngơn ngữ, khi ngơn ngữ ra đời thì nền giáo dục bắt đầu hình thành và
theo đó mơn Văn cũng bắt đầu, vì chất liệu của văn học là ngơn ngữ. Nói như
thế, mơn Văn gắn liền với sự hình thành và phát triển của giáo dục. Vị trí của
môn Ngữ văn biểu hiện qua tỉ lệ thời gian học so với thời lượng chung ở chương
trình phổ thơng, qua các kì thi quốc gia. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói
văn học nghệ thuật là một “vũ khí vơ song”. Trong nhiều văn kiện, Đảng ta xác


định vai trị cực kì quan trọng của văn học trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Văn học không chỉ là vũ khí để đấu tranh, “là nguồn giải phóng các dân
tộc bị áp bức”, khơng chỉ là phương tiện giáo dục con người. Nhưng với khả
năng riêng của hình tượng nghệ thuật được nghệ sĩ sáng tạo, Văn học cịn có tác
dụng sâu sắc và lâu bền đến đời sống tâm hồn và trí tuệ của bạn đọc. Cuộc đời
con người thì hữu hạn nhưng đời sống văn học thì ln ln tươi trẻ, giàu sức
sống, “có khả năng khơi nguồn sáng tạo mãnh liệt cho con người và tiếp tục làm
phong phú cho tâm hồn bao thế hệ”.
Tập làm văn là một phân mơn có tầm quan trọng trong tất cả các mơn học
vì chúng quyết định về nhiều mặt. Tất cả các môn học đều phải sử dụng đến
hành văn để làm bài. Tập làm văn cịn có tầm quan trọng cho đến cả sau này khi
học sinh khơng cịn học trong mái trường nữa thì môn tập làm văn vẫn là hành
trang theo các em bước vào đời như: học sinh có làm văn tốt thì ăn nói mới lưu
lốt được, muốn có một bài “diễn thuyết” giỏi mang tính thuyết phục thì cũng
phải có hành văn tốt. Vậy có thể nói, Tập làm văn có tầm ảnh hưởng rất lớn đối
với con người. Vậy làm thế nào để các em có thể lĩnh hội phân môn này một
cách tốt nhất, làm sao để phát huy khả năng của học sinh, phát huy ngôn ngữ
của các em đó là một vấn đề mà mỗi người giáo viên chúng ta cần suy nghĩ dạy
như thế nào để có chất lượng.
Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy dạy một giờ Tập làm
văn thành công là khó, đặc biệt dạy làm sao để các em tạo lập được một văn bản
hoàn chỉnh và hay lại là điều khó hơn. Đặc biệt đối với học sinh lớp 6, các em
phải tạo lập được văn bản với hai kiểu đó là Tự sự và Miêu tả. Trong hai kiểu
bài trên, đối với học sinh lớp 6 kiểu bài miêu tả là khó hơn bởi việc sáng tạo nên
những “tác phẩm” có giá trị là việc làm khó, đặc biệt trong văn tả cảnh phải có
bức tranh sống động, tái hiện hình ảnh, thuyết phục người đọc. Do yêu cầu của
công việc giảng dạy, cần định hướng cho học sinh biết cách làm bài văn tả cảnh
thành thục, đồng thời với dạng bài tả cảnh nếu rèn luyện cho các em một số kỹ
năng cơ bản thì việc sáng tạo bài văn đủ ý, lời văn trong sáng, giàu hình ảnh là
khơng khó, như thế sẽ giúp các em thêm u văn hơn. Chính vì tầm quan trọng

của phân môn Tập làm văn, do yêu cầu của công việc và tính hấp dẫn của kiểu
bài tả cảnh nên tôi quyết định chọn đề tài: Một số biện pháp hướng dẫn học
sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh đạt hiệu quả.

2

skkn


2. Mục đích nghiên cứu
Người viết nghiên cứu đề tài trên nhằm trả lời cho câu hỏi: Người giáo
viên phải làm thế nào để hướng dẫn học sinh lớp 6 viết bài văn tả cảnh đạt hiệu
quả? Tức là người viết phải trình bày các giải pháp cụ thể, các biện pháp tổ chức
mà bản thân đã thực hiện, được thực tiễn kiểm nghiệm và đạt kết quả nhất định
tại trường THCS Phạm Văn Hinh, huyện Thạch Thành.
3. Đối tượng nghiên cứu
Sáng kiến kinh nghiệm(SKKN) này sẽ nghiên cứu, tổng kết về vấn đề:
“Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh đạt hiệu
quả.”
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ
sở lý thuyết, phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, phương
pháp thống kê, xử lý số liệu, chứng minh, so sánh đối chiếu...
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Trên cơ sở sáng kiến đã nghiên cứu của năm trước, để đạt hiệu quả hơn
nữa khi áp dụng vào thực tế giảng dạy, tơi đã phát triển sáng kiến có thêm điểm
mới: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh; hướng dẫn học
sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn lựa hình ảnh, nội dung miêu tả.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

Tập làm văn được hiểu là tập sản sinh, tạo lập văn bản. Dạy Tập làm văn
là dạy các kiến thức và kĩ năng giúp học sinh tạo lập, sản sinh ra văn bản. Phân
môn Tập làm văn có vai trị, vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao
kĩ năng sử dụng tiếng Việt đã được hình thành, xây dựng ở các phân mơn khác.
Nhờ q trình vận dụng các kĩ năng để tạo lập, sản sinh văn bản trong dạy học
Tập làm văn, Tiếng Việt trở thành một công cụ sinh động trong quá trình học tập
và giao tiếp của học sinh. Nhiệm vụ cơ bản của phân môn Tập làm văn là giúp
học sinh tạo ra được các bài nói và viết theo các phong cách chức năng ngơn
ngữ, hình thành và phát triển năng lực tạo lập văn bản - một năng lực được tổng
hợp từ các kĩ năng bộ phận như: xác định mục đích nói, lập ý, triển khai ý thành
lời (dạng nói, viết bằng câu, đoạn, bài). Nhiệm vụ cụ thể của phân môn Tập làm
văn bao gồm: Cung cấp kiến thức và hình thành, phát triển các kĩ năng bộ phận,
góp phần hình thành và phát triển năng lực tạo lập văn bản. Cung cấp tri thức về
các dạng nghi thức lời nói, rèn kĩ năng nói theo các nghi thức đó. Rèn kĩ năng
nói, viết các văn bản thông thường và một số văn bản nghệ thuật như kể chuyện,
miêu tả…. Rèn các kĩ năng đặc thù phù hợp với mỗi dạng bài, kiểu bài Tập làm
văn (kĩ năng quan sát trong văn tả, kể; kĩ năng xây dựng cốt truyện, chi tiết, tình
tiết trong văn kể chuyện...). Ngồi ra, phân mơn Tập làm văn cũng góp phần rèn
luyện tư duy (tư duy hình tượng, tư duy logic, kĩ năng phân tích - tổng hợp phân loại - lựa chọn) và hình thành nhân cách (lịch sự, khn mẫu trong giao
tiếp; bồi dưỡng tình cảm đẹp và vốn sống...) cho học sinh.
Trong chương trình Tiểu học cũng dạy- học văn miêu tả nhưng chủ yếu là
tả ở mức độ đơn giản. Đề tài là những gì gần gũi, thân quen với thế giới trẻ thơ
mà các em có thể quan sát được một cách dễ dàng, cụ thể và yêu cầu chủ yếu là
3

skkn


viết được đoạn văn miêu tả, cao hơn là một bài văn miêu tả ngắn (khoảng 200250 chữ). Lên cấp THCS, văn miêu tả được dạy lặp lại 2 vòng (vòng 1: lớp 6 và
vòng 2: lớp 8 - 9 nhưng miêu tả không được xem là kiểu bài độc lập mà là yếu

tố phụ trợ trong các kiểu bài khác như biểu cảm, tự sự, nghị luận). Lớp 6 khi
giới thiệu chung về văn miêu tả, các em đã nắm được văn miêu tả là loại văn
nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổi bật
của sự vật, sự việc, con người, phong cảnh... làm cho những cái đó như hiện lên
trước mắt người đọc, người nghe. Sau đó, học sinh được tìm hiểu 2 kiểu bài: tả
cảnh và tả người. Về quy mô, bài văn miêu tả ở lớp 6 có dung lượng khoảng từ
300-500 chữ trở lên và chủ yếu rèn luyện các kỹ năng miêu tả chung như quan
sát, nhận xét, so sánh, tưởng tượng..., kĩ năng lựa chọn chi tiết và xây dựng bài
văn miêu tả. Về cách thể hiện, lớp 6 yêu cầu miêu tả một cách có thứ tự, cân đối,
hài hoà, làm nổi bật được đặc điểm của đối tượng. Văn tả cảnh là một trong hai
kiểu bài của văn miêu tả. Ở chương trình Ngữ văn 6, các em chỉ được học có 3
tiết (75, 89, 90 theo phân phối chương trình lớp 6). Mặc dù số tiết ít nhưng lại là
kiến thức trọng tâm của phân môn Tập làm văn.
Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo, trong những năm
gần đây Đảng và Nhà nước đã quan tâm sâu sắc đến việc đổi mới một cách tồn
diện chương trình nội dung, phương pháp dạy học được thể hiện rõ trong “nghị
quyết 40/2000/NQ-QH 10 đổi mới chương trình giáo dục”. Trong đó, việc đổi
mới theo phương pháp tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh là vấn đề
then chốt: phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học,
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Để đạt được điều trên, người giáo
viên phải biết lựa chọn, sử dụng phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy học
mới để tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất. Muốn vậy, khi tiến hành các phương pháp dạy học, giáo viên phải thực
hiện phối hợp khéo léo các phương pháp, chú ý phát huy tích cực, chủ động, bồi
dưỡng phương pháp tự học. Trong đó, dạy học kiểu bài văn miêu tả trong Ngữ
văn 6 cũng là một phương pháp rất quan trọng. Nó giúp người học hình thành
những kiến thức và kỹ năng liên quan thơng qua những nhiệm vụ mang tính mở,
khuyến khích học sinh tìm tịi, hiện thực hóa, tái hiện những kiến thức trong quá

trình học tập và tạo ra những sản phẩm của chính mình. Đây là một phương
pháp có ý nghĩa to lớn trong việc đáp ứng yêu cầu mới của xã hội.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Từ thực tế giảng dạy môn Ngữ văn THCS của bản thân, đặc biệt là trực
tiếp giảng dạy Ngữ văn 6, tôi nhận thấy việc hướng dẫn học sinh kỹ năng làm
bài văn tả cảnh gặp một số vướng mắc sau:
* Về phía người dạy
Một bộ phận không nhỏ giáo viên chỉ dạy theo SGK, tức là sách giáo
khoa thế nào thì cứ thế tiến hành, đương nhiên SGK được xem là yêu cầu cứng
của chương trình. Song nếu chỉ dựa hồn tồn vào SGK thì giờ dạy làm văn sẽ
khô cứng, không phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh. Đó cũng chính
là điểm yếu kém của giáo viên trong dạy văn miêu tả. Nhiều giáo viên chưa thực
4

skkn


sự hướng dẫn học sinh luyện tập, rèn kỹ năng làm bài lại quá chú trọng đến việc
cung cấp dàn bài chi tiết, học sinh chỉ việc dựa sẵn vào dàn ý để viết. Như vậy
giáo viên không phát huy được tính tích cực tư duy của học sinh, các bài viết
giống nhau và khơng có màu sắc riêng của từng học sinh cũng như khơng có
cảm xúc. Người dạy còn lúng túng trong phương pháp, chưa biết hướng dẫn các
em các kỹ năng quan sát, liên tưởng, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn
miêu tả. Giáo viên không biết hướng dẫn học sinh như thế nào để có thể viết
được một bài văn tả cảnh vừa đúng vừa hay, phương pháp dạy kiểu bài văn tả
cảnh cần thực hiện sao cho có hiệu quả.
Vậy để giúp học sinh có những kỹ năng làm bài văn tả cảnh thành thục và
viết được một bài văn hay là điều trăn trở của nhiều giáo viên đứng lớp.
* Về phía người học
Các em là học sinh đầu cấp học THCS, ở Tiểu học các em được làm quen

và thực hành viết dưới dạng văn bản mẫu rồi tái tạo văn bản tương tự. Chính vì
vậy mà các em thường làm bài theo kiểu rập khn, máy móc, khơng biết vận
dụng các kĩ năng cơ bản vào làm bài. Bài làm của các em thường kể lể với dung
lượng ngắn, sức viết chưa lớn nên bài văn chỉ có một đoạn hoặc phần thân bài là
một đoạn văn ngắn. Đó chính là các em chưa biết cách làm bài văn tả cảnh. Tư
duy của các em cũng là tư duy cụ thể, chưa tiếp nhận ngay được những kiến
thức trừu tượng. Việc đầu tư mua và say mê đọc tài liệu văn học của các em thật
ít ỏi. Các em cảm nhận về các tác phẩm văn học cũng đơn giản, sự sáng tạo
nghệ thuật và vốn từ, vốn hiểu biết còn nghèo nàn. Sự quan sát thực tế và liên
tưởng, tưởng tượng trong văn miêu tả còn hạn chế nên việc các em phải tự sáng
tạo một văn bản nghệ thuật là điều khó khăn và ít có hứng thú. Chính vì thế mà
phần lớn các em khi làm văn tả cảnh thường viết những câu văn khơ khan, thậm
chí là khơng rõ mình đang miểu tả cảnh gì, khơng hiểu nhiệm vụ của mỗi phần
trình bày nội dung gì trong bài văn miêu tả.
Ví dụ: Đề văn: Tả lại cảnh cơn mưa ở quê em.
Một học sinh đã viết phần mở bài của đề văn trên như sau:
“Quê em là một vùng đồi núi. Ở đó có nhiều cảnh đẹp nhưng em thích
nhất là cảnh trời mưa. Mỗi lần trời đổ cơn mưa là chúng em được thỏa thích
nghịch nước mưa, lũ trẻ con lùa nhau, chạy nô đùa dưới mưa. Mưa rơi lộp bộp,
mưa trắng xóa mặt đường. Người qua lại ít hẳn.”
Đoạn văn trên học sinh đã giới thiệu đối tượng miêu tả và nêu cảm nhân
chung, nhận xét về cảnh song do chưa biết tách ý nên em đã đưa một số hình
ảnh miêu tả thuộc phần thân bài lên phần mở bài. Đó chính là việc em không
xác định đúng cách làm bài.
Thực trạng trên dẫn đến kết quả của học sinh 3 lớp năm học trước môn
Ngữ văn đáng lo ngại.
Thống kê kết quả bài viết tập làm văn tả cảnh của học sinh lớp 6 năm học
2018- 2019 như sau:
Xếp
Tổng

Giỏi
Khá
Trung
Yếu
loại
số
bình
HS
Lớp
SL TL% SL TL% SL TL% SL
TL%
5

skkn


6A(46)
129
6
13,0 15
32,6
21 45,7
4
8,7
6B (45)
4
8,9
14
31,1
20 44,4

7
15,7
6C (38)
1
2,6
13
34,2
15 39,5
9
23,7
3. Các giải pháp đã thực hiện
3.1. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh
Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh
các em: một cơn mưa, một ngày nắng đẹp, một đêm trăng đẹp, một dịng sơng,
một cánh đồng, một góc phố,… Bài văn tả cảnh là thể loại văn bản mang tính
nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong
văn tả cảnh là thứ ngôn ngữ giàu sức gợi cảm, ngôn ngữ đã được gọt giũa một
cách công phu. Tả là mô phỏng, là vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hóa đối tượng
có hình ảnh … chứ khơng thể là liệt kê các chi tiết. Văn tả cảnh mang tính chất
thơng báo thẩm mĩ, dù tả bất kì đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì
văn tả cảnh không bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh máy móc những sự vật, hiện
tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức tinh tế và
phong phú. Như vậy, để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn
nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối; bệnh công thức sáo rỗng. Mỗi
cảnh đều nằm trong một khung khơng gian và thời gian, đó là cái nền cho cảnh
vật được miêu tả. Các em cần nêu được khung cảnh chung này, nhưng đặc biệt
cần tập trung tả nét tiêu biểu của cảnh, làm cho nó khác với cảnh khác. Khi tả
cảnh các em có thể lồng tả người, tả vật trong cảnh để cho bài văn thêm sinh
động.
3.2. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn lựa

hình ảnh, nội dung miêu tả
* Hướng dẫn học sinh quan sát: Trước hết phải tập cho học sinh quan sát, vì học
sinh thường khơng có thói quen quan sát. Phải có cơng quan sát để tìm ra những
nét nổi bật, độc đáo của đối tượng của quan sát.
+ Quan sát tổng thể đối tượng, ở cả trạng thái động và tĩnh, quan sát bằng tất cả
các giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác…
+ Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật kĩ.
+ Quan sát và so sánh điểm giống nhau và khác nhau với các đối tượng khác có
ở xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
+ Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật
xung quanh.
+ Có thể ghi nhớ trong đầu, hoặc ghi chép cẩn thận, đầy đủ vào sổ sách.
+ Có thể quan sát trực tiếp hoặc hồi tưởng bằng trí nhớ.
* Lựa chọn hình ảnh tiêu biểu và nội dung để tả.
+ Căn cứ vào hình ảnh lựa chọn khi quan sát.
+ Căn cứ vào nội dung ghi chép được.
+ Chọn lựa những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng,
đẹp và khác biệt của đối tượng để miêu tả.
3.3. Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của đề bài, cần xác định
đúng hướng làm bài
Bước tìm hiểu đề giúp các em xác định được yêu cầu đề bài trên ba
phương diện: một là thể loại; hai là nội dung; ba là phạm vi trình bày.
6

skkn


Trong quá trình hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề, giáo viên
cần lưu ý học sinh cảnh miêu tả đề yêu cầu là cảnh tổng hợp hay cảnh nhỏ lẻ.
Nếu đề yêu cầu tả cảnh tổng hợp thường có các từ ngữ như: quê hương em, một

miền quê, làng quê em...Nếu đề yêu cầu tả cảnh nhỏ lẻ, thường có từ ngữ cụ thể
gọi tên đối tượng miêu tả. Trong đề có từ ngữ chỉ thời gian hoặc khơng gian
miêu tả cảnh vật thì cần bám vào các dữ liệu đó để miêu tả cảnh cho đúng yêu
cầu.
Ví dụ: Đề bài: Tả lại quê hương em vào buổi sáng mùa xuân.
Ở đề này, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định ba phương diện nêu
trên:
- Thể loại văn tả cảnh
- Nội dung: cảnh quê em
- Phạm vi: buổi sáng mùa xuân.
- Từ ngữ quan trọng: Tả, quê hương, buổi sáng mùa xuân.
Đặc biệt chú ý đối tượng miêu tả ở đề văn này là cảnh bao quát, phạm vi
rộng. Để làm nổi bật vẻ đẹp của quê hương vào buổi sáng mùa xuân, học sinh
cần miêu tả các cảnh chi tiết như: cảnh bầu trời, thiên nhiên; cảnh con đường;
cảnh phiên chợ và hoạt động của con người; cảnh cánh đồng....
Ví dụ: Tả cây hoa đào hoặc hoa mai vào dịp tết đến xuân về.
- Thể loại văn tả cảnh
- Nội dung: cây hoa đào (hoặc hoa mai)
- Phạm vi: dịp tết đến
- Từ ngữ quan trọng: Tả, cây hoa đào (hoặc hoa mai), tết đến xuân về.
Đây là đề yêu cầu tả cảnh cụ thể, phạm vi hẹp. Đối với kiểu đề văn này
thì trong bài không miêu tả cảnh nhỏ lẻ như đề yêu cầu tả cảnh tổng hợp mà tập
trung miêu tả chi tiết đặc điểm nổi bật của cảnh cụ thể ấy.
Việc xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng hướng làm bài là một
khâu rất quan trọng. Đó là khâu đầu tiên định hướng làm bài và nếu bước này
thực hiện sai thì các bước tiếp theo để hồn thiện bài văn sẽ không đem lại hiệu
quả, cuối cùng bài văn sẽ không đạt yêu cầu của đề bài.
3.4. Hướng dẫn tìm ý, lập dàn ý cho bài văn tả cảnh
* Hướng dẫn tìm ý
Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối

tượng miêu tả nhưng lựa chọn hướng đi như thế nào cho hợp lý và có hiệu quả,
giáo viên cần giúp học sinh định hình được hướng đi bằng cách lập ý và dàn ý.
Để làm được điều đó, các em phải xác định các nội dung sau:
- Miêu tả theo một trình tự nhất định: Với đề bài trên giáo viên hướng dẫn các
em xác định trình tự miêu tả: theo thời gian (từ mờ sáng đến gần trưa) hoặc
không gian (từ xa đến gần hoặc từ trên cao xuống thấp, từ khái quát đến cụ thể
và ngược lại). Mỗi trình tự miêu tả cần tìm ý: ý cho cảnh bao quát và ý cho cảnh
cụ thể, những cảnh đó miêu tả như thế nào? Học sinh cần biết cách thức trình
bày những hình ảnh mà mình đã quan sát được theo một trình tự hợp lý ở một
đoạn hay bài văn tả cảnh. Giáo viên cần cho học sinh hiểu rằng: cho dù quan sát,
tưởng tượng được nhiều hình ảnh độc đáo và tiêu biểu cho cảnh được tả nhưng
nếu khơng biết cách trình bày, sắp xếp theo một thứ tự hợp lý thì cũng khơng thể
7

skkn


có một bài văn tả cảnh hay. Nói cách khác, bài văn tả cảnh hay không phải là
một mớ các hình ảnh được sắp xếp một cách lộn xộn, cho dù đó là các hình ảnh
tiêu biểu.
- Xác định vị trí quan sát: Vị trí quan sát ảnh hưởng đến trình tự miêu tả. Miêu
tả cảnh thường chọn vị trí cao hơn, xa cảnh trung tâm vì như thế các em sẽ tả
được bao quát cảnh. Bao quát không gian cảnh được coi là một thao tác quan
trọng đầu tiên của bức tranh cảnh, rất quan trọng trong việc định hình vị trí cảnh
vật. Vậy học sinh cần phải nắm được cách viết phần bao quát không gian cảnh
như thế nào? thực tế khi làm bài, học sinh thường viết một cách cộc lốc, cụt lủn,
có khi chỉ viết được một, hai câu cho phần tả bao quát.
Để có đoạn văn tả bao quát không gian cảnh, các em cần nhớ phải có câu
xác định vị trí miêu tả, sau đó là các câu nhận xét, đánh giá, khái quát cảnh.
Ví dụ: Tả quang cảnh một buổi lễ chào cờ đầu tuần ở trường em.

Sáng nay, sân trường như tấp nập, nhộn nhịp hẳn lên. Chưa đến giờ chào
cờ đầu tuần mà mọi người đã đến khá đầy đủ. Nhìn từ xa như có một đàn bướm
trắng rập rờn bay lượn trong nắng sớm. Màu áo, màu khăn quàng, cặp sách hòa
lẫn trong màn sương sớm bàng bạc tạo nên một bức tranh kì ảo nhiều màu sắc
sặc sỡ.
Sau khi xác định trình tự miêu tả và vị trí quan sát, các em cần lựa chọn
miêu tả những cảnh (chi tiết nổi bật) nào? Nếu là cảnh bao quát, phạm vi rộng
thì miêu tả những cảnh nhỏ, lẻ nào? Trong mỗi cảnh nhỏ, lẻ đó có điểm gì nổi
bật? Sẽ miêu tả như thế nào? Nếu đề yêu cầu tả cảnh cụ thể, phạm vi hẹp thì sẽ
lựa chọn chi tiết nào nổi bật của cảnh để tả. Trả lời các câu hỏi trên tức là các
em đang thực hiện việc lập ý và lập dàn bài văn miêu tả cảnh.
Ví dụ: Đề văn 1: Tả cảnh đầm sen ở quê em
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ý bằng cách đặt câu hỏi:
- Giới thiệu cảnh đầm sen vào thời điểm nào?
- Quang cảnh đầm sen ra sao?
- Em sẽ tả đầm sen theo trình tự nào?
- Nhìn từ xa đầm sen đẹp như thế nào?
- Tả chi tiết cảnh đầm sen gồm những chi tiết nào?
- Mặt hồ có đặc điểm gì?
- Cây sen có những nét đẹp nào? (thân sen, lá sen)
- Hoa sen có vẻ đẹp ra sao? (cánh hoa màu sắc, đài sen, tâm sen,...) các hình ảnh
ấy được so sánh với các hình ảnh nào?
- Hương thơm của hoa sen đặc biệt như thế nào? Em có cảm giác như thế nào
khi thưởng thức mùi hương ấy?
- Em có nhận xét như thế nào về vẻ đẹp của đầm sen?
Cảm xúc của em?
- Tình cảm, cảm xúc, thái độ của em với thiên nhiên?
Hoặc đề văn 2: Tả cảnh buổi sáng trên quê hương em.
- Buổi sáng trên quê hương em được bắt đầu bằng dấu hiệu nào?
- Em sẽ tả cảnh quê hương vào những thời điểm nào của buổi sáng?

- Ở mỗi thời điểm em sẽ miêu tả những hình ảnh, chi tiết nào?
- Khi trời còn tối: bầu trời như thế nào? Hoạt động của con người ra sao?
8

skkn


- Lúc trời sáng rõ, cảnh vật và mọi hoạt động trên quê em diễn ra như thế nào?
- Em có cảm nghĩ như thế nào về cảnh buổi sáng trên quê hương?
- Tình cảm của em với quê hương?
* Hướng dẫn lập dàn ý
Quá trình tìm ý gắn với lập dàn ý là một kĩ năng cực kì quan trọng. Thực
tế trong khi làm bài, nhiều em không lập dàn bài mà nghĩ gì trình bày đó, thấy gì
tả đó, khơng lựa chọn đặc điểm nổi bật của cảnh, tả khơng theo một trình tự nhất
định nào. Có lẽ là do các em chưa thấy tầm quan trọng của dàn bài. Lập được
dàn bài các em đã thành công hơn một nửa trên các phương diện: thời gian, trình
tự, nội dung viết. Nhưng phần lớn nhiều em chưa biết, chưa có kĩ năng lập dàn
bài. Vì thế mà hậu quả xảy ra là bài làm mắc phải một số lỗi sau: bài làm sơ sài,
nội dung lộn xộn, sa đề, ... Bỏ qua hoặc xem nhẹ bước lập dàn ý là lỗi của học
sinh nhưng cũng có một phần lỗi của giáo viên. Vậy nên thầy cô giáo thường
xuyên nhắc, rèn luyện cho các em luyện kĩ năng lập dàn bài cả khi ở lớp và giao
bài tập về nhà, để kĩ năng này được thành thục và trở thành thói quen khi các em
bắt tay vào làm bài văn cho bất cứ đề văn nào.
Để giúp các em biết miêu tả cảnh theo một trình tự nhất định và biết lựa
chọn những đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả, giáo viên hướng dẫn các em từng
bước hoàn thiện dàn bài chi tiết cho đề văn tả cảnh sau:
Ví dụ: Cũng với 2 đề văn trên, giáo viên đã hướng dẫn các em tìm ý, sau đó tiếp
tục hướng dẫn lập dàn ý chi tiết.
Đề
Tả cảnh buổi sáng

văn
trên quê hương em.
Tả cảnh đầm sen ở quê em.
Mở - Giới thiệu nơi em ở.
- Giới thiệu hoàn cảnh được ngắm cảnh
bài
- Cảnh ngày mới bắt đầu (dấu đầm sen vào mùa hoa nở.
hiệu bắt đầu một ngày mới) Cảm xúc chung.
- Cảm xúc chung.
a. Tả bao quát:
Thân - Không khí buổi sáng mát
bài
lành, dịu nhẹ vẫn cịn sương
- Mùi lúa chín thơm
- Những giọt sương long lanh
vẫn cịn đọng trên lá
b. Tả chi tiết:
* Khi trời còn tối
- Trời mát mẻ, dễ chịu
- Bầu trời tôi tối
- Gà bắt đầu gáy, báo hiệu một
buổi sáng lại đến
- Những chú gà rời khỏi
chuồng đi kiếm ăn
- Có vài nhà bật đèn

a. Tả bao quát:
- Giới thiệu quang cảnh chung: Đầm
sen rộng mênh mơng tồn sen hồng
(trắng) đang độ trổ bơng, nằm ngay

cạnh đường (đầu làng...).
b. Tả chi tiết:
* Tả mặt hồ:
+ Nước trong mát.
+ Khơng khí nơi hồ sen thật đặc biệt:
trong lành, thanh khiết.
+ Sen phủ kín mặt hồ, chỉ thấy màu
xanh điểm hồng (trắng) dày đặc, bạt
ngàn.
* Tả cây sen:
9

skkn


- Một vài nhà cịn chìm trong
giấc ngủ
- Có một vài người qua lại trên
đường tập thể dục
* Khi trời bắt đầu sáng
- Bầu trời bắt đầu sáng tỏ và
xanh hẳn
- Hầu như mọi người đều đã
dậy
- Mặt trời dần dần xuất hiện
sau rặng tre
- Trên đường người qua lại bắt
đầu nhiều
- Những chú chim kêu rả rích
* Khi trời sáng hẳn

- Mặt trời lên, trời trong xanh
- Nắng bắt đầu gắt
- Bọn trẻ nô đùa trên đường
đến trường
- Những cô chú nông dân vác
cuốc ra đồng
- Tiếng máy cày, máy gặt rơm
rả
- Gió thổi những cơn nhẹ
nhàng
- Cịn vài giọt sương cịn đọng
trên lá.
Kết
bài

- Thân sen màu nâu, có gai nhỏ chìm
trong làn nước nhưng chưa làm đau ai
bao giờ. Dưới gốc sen sâu trong bùn có
ngó sen ăn mát bổ.
- Tả lá sen: lá non đang còn cuộn chưa
nở hết, lá già to, màu xanh đậm, như
những chiếc thuyền thúng nhỏ trên mặt
nước, có lá non lại vươn cao đón nắng.
Lá non thường được dùng gói cốm.
- Tả hoa sen: màu hồng (trắng), nụ sen
mập mạp như búp tay em bé, có bơng
nở chúm chím như đang mỉm cười kín
đáo, có bơng nở x những tầng cánh,
phơ ra nhụy vàng e ấp. Hoa sen được
cắt về, lấy gạo sen để ủ chè sen ngon

tuyệt.
- Đài sen: rụng hết cánh, nhị sen kết
đọng thành hạt sen trong đài.
- Tâm sen màu xanh non, dùng làm vị
thuốc cho những người mất ngủ.
- Hương sen:
+ Từ xa gió đưa hương thoang thoảng
dễ chịu, khoan khoái;
+ Lại gần, hương đậm đà, mát dịu, cảm
giác được thăng hoa.
+ Hương sen đưa ta thoát li khỏi cái
nóng hầm hập của mùa hè.

- Nhận xét và cảm nghĩ của - Nhận xét về vẻ đẹp của đầm sen.
bản thân về buổi sáng quê - Tình cảm, cảm xúc, thái độ của em
với thiên nhiên.
hương.
- Tình cảm của em với quê
hương.

Một điểm cần lưu ý rằng khi hướng dẫn học sinh lập dàn bài, tùy vào
từng đối tượng để có cách hướng dẫn khác nhau: Với học sinh khá giỏi, giáo
viên hướng dẫn các em lập dàn bài đại cương, còn học sinh yếu kém lập dàn bài
chi tiết. Giáo viên yêu cầu học sinh bám vào dàn bài để viết bài và mỗi ý trong
dàn bài cần triển khai thành đoạn văn, chi tiết miêu tả cần có hình ảnh so sánh,
liên tưởng, tránh việc chép lại dàn ý chi tiết đã lập để tạo ra một bài văn khơ
khan, nghèo hình ảnh, khơng có cảm xúc. Khi kỹ năng lập dàn bài của các em đã
thành thạo thì để tiết kiệm thời gian các em không nhất thiết phải lập dàn bài chi
tiết mà có thể lập dàn bài đại cương.


10

skkn


3.5. Rèn luyện kĩ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong diễn đạt,
chuyển ý
Sau khi đã có bộ khung là dàn bài của bài văn. Các em cần diễn đạt sao
cho không chỉ đủ ý mà câu văn phải có hình ảnh, sinh động, hấp dẫn người đọc
và làm cho cảnh như hiện ra trước mắt người đọc. Để làm được điều đó khơng
đơn giản chút nào. Đầu tiên, yêu cầu các em phải có vốn từ phong phú, biết cách
diễn đạt trong sáng giàu hình ảnh, sống động, giúp các em có thêm vốn từ, biết
cách diễn đạt, giáo viên cần cho các em tham khảo một số câu văn, đoạn văn tả
cảnh hay trong đó có sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa,
ẩn dụ, hốn dụ, liệt kê, từ láy..... Làm như thế chúng ta khơng chỉ đạt được mục
đích nêu trên mà còn gieo vào lòng học sinh sự hào hứng, yêu thích viết văn
hơn.
Ví dụ:
- Cảnh mặt trời mọc: Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết
mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kỳ hết. Tròn trĩnh phúc hậu
như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm
và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân
trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong
bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên
muôn thuở biển Đông. -> Đoạn văn sử dụng từ láy, phép so sánh, nhân hóa.
- Cảnh khu vườn ở làng quê vào buổi sáng chớm hè: Giời chớm hè. Cây cối um
tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở hoa trắng xóa. Hoa giẻ từng chùm mảnh dẻ.
Hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín ở góc vườn ơng Tun. Ong
vàng, ong vị vẽ, ong mật đánh lộn nhau để hút mật ở hoa. Chúng đuổi cả bướm.
Bướm hiền lành bỏ chỗ lao xao. Từng đàn rủ nhau lặng lẽ bay đi.-> Đoạn văn sử

dụng phép so sánh, nhân hóa, hốn dụ, liệt kê.
- Cảnh dịng sơng: Vào những buổi sáng sớm, gió lặng, nước sơng trong vắt như
nhìn được tới tận đáy, mặt sơng phẳng lì như chiếc gương soi. Dịng chảy lúc
này dường như không ai nhận ra được. Những cánh bèo, những chiếc lá vàng rơi
trên dịng sơng khơng trơi, mà dường như đứng lặng như tờ để cảm nhận cái yên
ả của một làng quê thanh bình. Trên những vườn nhãn hay bụi tre, trên những lá
cây hay ngọn cỏ, tất cả vẫn còn in dấu của một buổi sớm mai trĩu nặng những
giọt sương đêm. Tơi có cảm giác chỉ cần một tiếng động nhỏ là tất cả sự tĩnh
lặng ấy sẽ tan biến, bị phá vỡ hết.-> Đoạn văn sử dụng phép so sánh, liệt kê.
- Cảnh làng quê vào ngày mùa: Đường thơn, ngõ xóm đã bắt đầu rục rịch bước
chân người. Tiếng xe bò kéo lướt trên đường làng đầy ổ gà kêu lộc cộc, lộc cộc.
Những chiếc máy kéo nổ giịn giã, phả khói đen kịt. Tiếng hị hét, tiếng cười nói
khúc khích chạy dọc suốt cả con đường đổ ra cánh đồng. Đường làng ngày
thường rộng là thế mà vào những ngày mùa này lại trở nên chật chội, nhỏ hẹp.
Ai cũng cảm thấy đi lại bị vướng víu bởi thúng mủng, quang gánh, liềm hái,
thừng chão cứ lỉnh kỉnh và ngổn ngang, bừa bãi những rơm rạ vẫn còn đậm hơi
sương.-> Đoạn văn sử dụng từ láy, phép liệt kê.
Sau khi tạo hứng thú cho học sinh bằng cách tiếp xúc với các tư liệu chọn
lọc, giáo viên bắt đầu đưa ra một số hình ảnh, chi tiết, yêu cầu học sinh dùng lời
văn kết hợp với các biện pháp tu từ, từ láy gợi hình, gợi cảm để tập diễn đạt sao
11

skkn


cho bức tranh ngơn ngữ có điểm nhấn, tạo ấn tượng sâu sắc với người đọc. Bằng
cách này, học sinh của tơi đã viết được những câu văn sau:
Ví dụ:
- Hình ảnh mặt trời: Mặt trời đang từ từ đạp xe sau dãy núi, ban phát cho nhân
gian những tia nắng ấm áp như hình dẻ quạt nhiều màu rực rỡ. Lên cao, mặt trời

như một quả cầu lửa đặt lên chiếc mâm bạc nước biển màu ngọc trai hửng hồng.
- Hình ảnh bầu trời: Ơng trời khốc một tấm áo trắng tinh khiết. Nó khơng toả
sáng lấp lánh cũng khơng u buồn, ủ rũ. “Cái áo” đó mang hương vị mùa xuân.
Nó như chứa đựng phép màu làm ai nhìn vào cũng thấy thanh thản trong lịng.
- Hình ảnh cây cối vào mùa đông: Đông đến, cây cối ủ rũ, buồn thiu nhìn những
chiếc lá hồi cành chao đảo trên không trung như chú chim “say nắng” cố gượng
lên nhưng mất đà rồi nằm thở hổn hển trên mặt đất. Trông mà thương! Tất cả
đang mong chờ nàng xuân tới.
- Ánh trăng làng quê: Trăng bắt đầu lên cao. Trăng khơng cịn lẩn trong các đám
lá xanh rì của rặng tre nữa. Giờ đây trăng lại luồn lách, thỉnh thoảng náu mình
vào những đám mây trắng, mảnh mai trơi trên nền trời. Trăng trải ánh sáng trên
đường làng. Trăng dát bạc trên mặt nước. Trăng sáng lên trong sân mọi nhà.
Việc rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh cần thực hiện liên tục và lâu dài
trong nhiều tiết học để trở thành thao tác thuần thục, đồng thời khuyến khích các
em đọc thêm tài liệu tham khảo để học những cách diễn đạt hay hơn, có thêm
nhiều cách diễn đạt mới hơn.
Lời văn chuyển cảnh không nhiều nhưng có tác dụng rất lớn trong việc
liên kết, liên hồn mạch văn, nó đánh giá sự khéo léo của ngịi bút miêu tả cảnh.
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh một số cách chuyển cảnh sau:
- Sử dụng các sự vật xuất hiện liên tiếp để chuyển cảnh:
Ví dụ: Mưa được một lúc lâu rồi ngớt. Trời sáng dần, sáng dần. Mặt trời bỗng
từ đâu ló ra chói lọi. Mưa dần dần tạnh hẳn......
- Sử dụng hình ảnh trung gian để chuyển cảnh:
Ví dụ: Hơm nay bầu trời trong xanh và gió thì mát q. Những đám mây trắng
lững lờ trơi thỉnh thoảng lại che rợp một góc sân trường tạo ra những bóng râm.
Chúng em đang học cuối tiết thứ hai thì bỗng nghe ba tiếng trống báo hiệu ra
chơi...
- Sử dụng gam màu để chuyển cảnh:
Ví dụ: Hôm nay, nền trời trong xanh như tấm thảm. Dưới cánh đồng, hịa trong
màu vàng của thảm lúa chín là màu trắng của những chiếc nón nhấp nhơ các

bác nơng dân đội đi làm...
- Sử dụng âm thanh, mùi vị để chuyển cảnh:
Ví dụ: Giờ ra chơi đầy ắp tiếng cười, tiếng nói rồi cũng qua đi. Một hồi trống
dài vang lên. Mọi người nhanh chóng xếp hàng vào lớp, trả lại cho sân trường
khơng khí n lặng quen thuộc...
Hoặc: Hương vị mùa xuân thắm đượm vào không gian, bay đi khắp nơi. Ánh
nắng nhẹ nhàng gọi dậy những chú chim xanh, những bông hoa đào và mọi thứ
khác. Làn sương tan đi, đọng thắm trên cánh hoa trong vườn. Từ trên cao nhìn
xuống, khu vườn như được bao phủ một lớp khăn voan trắng nhẹ...
12

skkn


Như vậy, việc cho các em tham khảo những tư liệu chọn lọc và hướng dẫn
các em cách chuyển ý, chuyển cảnh bằng nhiều cách thức khác nhau sẽ giúp các
em biết cách diễn đạt, viết câu văn trong sáng, giàu hình ảnh. Trước mỗi đề văn,
mỗi cảnh các em có thể sẽ xác định được hình ảnh, đặc điểm tiêu biểu để tả
song diễn đạt như thế nào để cảnh như hiện ra trước mắt người đọc và chuyển
cảnh như thế nào cho hợp lý là điều rất khó. Việc tham khảo đoạn văn hay và
cahs chuyển cảnh hay là việc tháo gỡ những vướng mắc cho các em, để từ đó
các em sẽ hào hứng viết văn hơn và có cách diễn đạt sáng tạo hơn.
3.6. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tả cảnh
Đoạn văn là bộ phận cấu thành nên bài văn, bài văn muốn hay thì các
đoạn văn trong bài phải hay. Xây dựng đoạn văn là cách sắp xếp lời văn diễn đạt
sao cho lôgic, chặt chẽ. Thế nhưng các em thường không biết sắp xếp lời văn
như thế nào cho hợp lý. Mỗi đoạn văn thường tả một cảnh cụ thể, nhưng các em
khơng biết tả cảnh cụ thể là cảnh gì, tả như thế nào, trình tự tả ra sao mà các em
thường liệt kê, kể các chi tiết một cách tràn lan nên không làm nổi bật được cảnh
và không gây ấn tượng cho người đọc về cảnh miêu tả. Để giúp học sinh viết

được đoạn văn không chỉ đúng mà cịn hay là điều khơng đơn giản. Giáo viên
cần u cầu học sinh bám sát dàn bài, mỗi ý lớn của dàn bài triển khai thành
đoạn văn. Mỗi cảnh nhỏ sẽ viết thành đoạn văn hồn chỉnh trình bày theo hướng
từ khái quát đến cụ thể (câu khái quát cảnh đứng ở đầu đoạn - kiểu đoạn văn
diễn dịch) với cách trình bày này dễ thực hiện và phù hợp với lối tư duy của học
sinh lớp 6. Sau câu tả khái quát là một loạt câu miêu tả cụ thể theo trình tự từ
gần đến xa hoặc ngược lại theo vị trí quan sát. Lời văn trong đoạn văn cần diễn
đạt hợp lý, lôgic, chặt chẽ, mạch lạc, tránh diễn đạt lan man, kể lể, khơng theo
một trình tự nhất định. Lời văn miêu tả cần kết hợp hình ảnh so sánh, tưởng
tượng phong phú, nhận xét, đánh giá, ý câu trước và câu sau lôgic với nhau về
nghĩa. Các câu cuối đoạn thường nêu đánh giá, nhận xét về cảnh, làm đậm nét
cho bức tranh miêu tả.
Ví dụ: Đề văn: Tả một đêm trăng nơi em ở.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của đêm trăng, cần xây dựng các đoạn văn miêu tả
các cảnh sau: cảnh vật trước khi trăng lên; cảnh lúc trăng cịn lấp ló sau rặng tre;
cảnh vật lúc trăng lên cao; con người trong đêm trăng......Với mỗi cảnh nêu trên
các em triển khai thành đoạn văn hoàn chỉnh.
- Đoạn văn miêu tả cảnh trăng cịn lấp ló sau rặng tre: Bỗng phía sau rặng tre,
một vầng sáng lấp ló, lúc ẩn lúc hiện. Trăng đã bắt đầu mọc rồi. Trăng nhè nhẹ
trôi sau những rặng tre khẽ lay động theo chiều gió. Trăng như muốn chơi trò ú
tim với mọi người. Trăng lên tới đâu, bầu trời dường như sáng dần lên tới đó.
Trước mắt tôi tất cả cảnh vật như đang biến màu trong bước chuyển huyền ảo
lúc trăng lên.
- Đoạn văn miêu tả cảnh vật lúc trăng lên cao: Tơi nhìn lên vịm trời và bắt đầu
nhận rõ từng ngơi sao lấp lánh. Càng nhìn tơi càng thấy bầu trời nhiều sao hơn.
Chỗ nào cũng chi chít, dày đặc, phải có đến hàng nghìn, hàng vạn ngơi sao.
Vầng trăng đang từ từ nhô lên khỏi lũy tre. Trăng lơ lửng như cái đĩa vàng giữa
nền trời trong xanh. Khoảng trời đêm trở nên trong vắt, vời vợi. Trăng bắt đầu
lên cao. Trăng trải ánh sáng trên đường làng. Trăng dát bạc trên mặt nước.
13


skkn


Trăng sáng lên trong sân mọi nhà. Trăng làm rạng rỡ hơn nhưng khuôn mặt.
Dưới ánh trăng, tâm hồn tôi như thanh thản hơn, nhẹ nhõm hơn. Đâu đấy vang
lên những tiếng cười nói trong trẻo quanh chiếu giữa sân nhà. Câu chuyện học
hành, chuyện đồng áng, chuyện mùa màng dưới trăng sôi nổi như không bao giờ
cạn.
Các em nắm vững cách xây dựng đoạn văn và thực hành đúng như yêu
cầu, cho dù tìm được đặc điểm tiêu biểu của cảnh miêu tả nhưng khơng biết
cách diễn đạt, trình bày thì người viết cũng khơng vẽ được bức tranh bằng lời
văn cịn người đọc sẽ khơng hình dung ra cảnh miêu tả. Một điểm cần lưu ý với
học sinh rằng, trong tả cảnh thiên nhiên có tả người, sự kết hợp tả người trong tả
cảnh nó như một gia vị làm cho bức tranh thêm sinh động, hấp dẫn hơn. Vậy
việc rèn luyện kỹ năng dựng đoạn văn tốt là các em sẽ viết được đoạn văn hoàn
chỉnh, hay. Đó là một phần làm nên cái hay của cả bài văn. Việc liên kết các
đoạn văn trọn vẹn ấy sẽ tạo nên một bài văn hoàn chỉnh. Thấy được tầm quan
trọng của việc dựng đoạn văn, chắc chắn cả giáo viên và học sinh đều chú ý rèn
luyện thao tác này.
3.7. Rèn luyện kĩ năng viết phần mở bài, kết bài
* Rèn kỹ năng viết mở bài
Mở bài thường giới thiệu đối tượng được miêu tả, vậy giới thiệu như thế
nào để cuốn hút người đọc và có ấn tượng về cảnh được miêu tả là cả một nghệ
thuật. Chính vì vậy, giáo viên hướng dẫn cho học sinh các cách mở bài khác
nhau. Với mỗi cách ấy giáo viên đưa ra ví dụ mẫu để học sinh học tập. Có hai
cách mở bài, có thể đi thẳng vào cảnh miêu tả (mở bài trực tiếp) hoặc dẫn dắt
từ câu hát, câu thơ, mối quan hệ, cảm xúc để giới thiệu cảnh miêu tả (mở bài
gián tiếp). Dù mở bài bằng cách nào thì giáo viên phải nhắc học sinh trong mở
bài cần đảm bảo các yêu cầu: dẫn dắt vào đối tượng miêu tả, giới thiệu cụ thể

đối tượng miêu tả, chuyển ý.
Ví dụ: Tả cảnh làng xóm trong những ngày mùa bận rộn.
- Mở bài trực tiếp: Cảnh làng quê tôi lúc nào tôi cũng thấy đẹp và ấm áp nhưng
có lẽ vào những ngày mùa thì quê tôi lại nhộn nhịp, tưng bừng hơn cả.
- Mở bài gián tiếp:
Ngày mùa vui thôn trang
Lúa reo như hát mừng.
Lúa không lo giặc về
Khi mùa vàng thôn quê
Mỗi lần nghe những câu hát ấy em lại nhớ đến cảnh làng q em vào
những ngày mùa. Khơng khí làng q vào ngày mùa thật nhộn nhịp. Quê em cứ
vào ngày mùa gặt, lại náo nức khơng khí tưng bừng như bước vào ngày hội.
Ngày hội của no ấm và hi vọng.
* Rèn kỹ năng viết kết bài
Kết bài không chỉ khái quát nội dung của bài viết mà còn phải tạo độ lắng
trong tâm hồn người đọc, đồng thời có thể bộc lộ tình cảm, cảm xúc với cảnh
được miểu tả.
Ví dụ: Cũng với đề văn trên, các em có thể kết bài như sau:
Ngày mùa thật vất vả, khẩn trương. Nhưng khuôn mặt ai cũng rạng rỡ.
Những nụ cười trong sáng của trẻ thơ, nụ cười yêu đời của tuổi trẻ, nụ cười
14

skkn


khoan khối của tuổi già. Tất cả hồ quyện lại thành tiếng cười hạnh phúc của
một vụ mùa bội thu quê hương tôi.
Hoặc kết bài cho đề văn: Tả lại quê hương em vào một buổi sáng mùa xuân.
Thoáng qua như ngọn gió, bây giờ đang đầu trưa, chợ tết giải tán, mọi
người ra về. Đường xá vắng tanh, chỉ cịn cơ đơn những bé nắng dạo chơi giữa

đường. Một buổi sáng xuân thật đẹp! Mong rằng khi lớn lên, một ngày nào đó,
em sẽ mang về vùng đất này một mùa xuân đẹp hơn nữa.
Phần mở bài và kết bài của bài văn chỉ chiếm một dung lượng nhỏ trong
cả bài văn song nó lại vơ cùng quan trọng bởi phần mở bài chính là đưa người
đọc đến với bức tranh được tả là cảnh gì. Mở bài hay khơng chỉ giới thiệu đối
tương miêu tả mà cịn gây ấn tượng đẹp với người đọc về cảnh. Còn phần kết
bài là thể hiện khả năng khái quát, đánh giá của người viết về cảnh, tạo cho
người đọc một điểm nhấn, sự xao xuyến khi chia tay với cảnh được miêu tả.
Kết hợp các kỹ năng được rèn luyện nêu trên, chắc chắn học sinh sẽ viết
được một bài văn đúng và hay hơn rất nhiều, tái hiện được bức tranh cảnh trước
mắt người đọc bằng những lời văn trong sáng, giàu hình ảnh, mạch lạc. Từ đó,
người đọc thêm yêu cảnh vật, yêu thiên nhiên, quê hương.
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường
Trên đây là những suy nghĩ của tôi và những suy nghĩ ấy đã được áp dụng
vào quá trình dạy- học phần văn tả cảnh trong năm qua. Cũng có nhiều giáo viên
cho rằng dạy làm văn tả cảnh cho học sinh là điều khơng khó, cứ dạy đúng như
SGK là được nhưng tôi nghĩ nếu giáo viên không hướng dẫn các em từng bước,
từng kỹ năng thì chắc hẳn các em sẽ khó viết được một bài văn vừa đúng vừa
hay. Muốn thực hiện được mục đích ấy, giáo viên cần nắm vững kiến thức đồng
thời định hướng, hướng dẫn học sinh thực hiện các kỹ năng nêu trên một cách
thành thục. Đồng thời học sinh phải tích cực, chủ động trong việc tiếp thu và rèn
luyện các kỹ năng mà giáo viên đang rèn luyện cho các em ngay cả trên lớp và
trong hệ thống bài tập về nhà.
Sau thời gian đưa những vấn đề trên vào thực tế dạy học, học sinh của tôi
đã viết được những bài văn hay. Đây là một đoạn văn trong bài làm của các em:
Sáng sớm dòng sơng là một nàng tiên khốc áo xanh trong toả hương thơm lạ.
Trơi theo dịng sơng, tiếng lõm tõm đớp mồi của vài chú cá rồi biến mất trong
lòng nàng tiên. Bỗng gió heo may đâu đây thoảng qua làm bay tóc của nàng tạo
thành vài gợn sóng lăn tăn. Trời đã đụng hơi ấm của nắng, rọi vài tia nắng tinh

nghịch xuống dịng sơng, tơ lên cho cái áo của nàng một màu vàng rực rỡ.
Kết quả kiểm tra bài làm văn tả cảnh năm học 2019-2020 như sau:
Xếp
loại

Tổng
số
HS

Lớp
6A(46) 129
6B (45)

Giỏi
SL
10
8

TL%
21,7
17,8

Khá
SL
20
18

TL%
43,5
40,0


Trung bình
SL
16
17

TL%
34,8
37,8

Yếu
SL
0
2

TL%
0
4,4
15

skkn


6C (38)

4

10,5

16


42,1

15

39,5

3

7,9

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy một số biện pháp hướng dẫn học
sinh lớp 6 làm bài văn tả cảnh là rất cần thiết. Đó là cơ sở, là nền tảng tạo đà để
giúp các em biết cách viết một bài văn theo đúng yêu cầu khi học ở các lớp trên.
Sau khi áp dụng những kinh nghiệm trên trong quá trình giảng dạy, tơi nhận
thấy kết quả các bài làm của học sinh đã có nhiều tiến bộ. Đa số các em đã xác
định đúng đối tượng miêu tả, trình bày những điều quan sát được về cảnh theo
một trình tự nhất định, câu văn diễn đạt trong sáng, giàu hình ảnh…., đặc biệt
các em đã tạo lập được văn bản hoàn chỉnh và mang màu sắc cá nhân riêng.
2. Kiến nghị
- Các nhà trường và các tổ chuyên môn trong nhà trường cần đổi mới nội dung
sinh hoạt chuyên môn trong từng đơn vị sao cho phù hợp với thực trạng chất
lượng giáo dục nhà trường nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng một cách đồng
bộ nhất.
- Tăng cường các lớp tập huấn chuyên đề, các buổi sinh hoạt chuyên đề để giáo
viên có cơ hội, điều kiện trao đổi, học hỏi và rút kinh nghiệm trong công tác
chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng chung của môn Ngữ văn.
Những điều suy nghĩ của tôi trên đây chắc chắn cịn nhiều điểm hạn chế

và khơng tránh khỏi thiếu sót. Rất mong sự góp ý, phê bình của các cấp lãnh đạo
và các thầy, cô giáo đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thạch Thành, ngày 15 tháng 04 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng copy nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Hồ Thị Lan Phương

16

skkn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
*********
[1]. Giáo trình Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Văn – GS.TS. Trần
Đình Sử - NXB Sư phạm Hà Nội
[2]. Sách giáo khoa Ngữ văn 6 của Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo Dục
[3]. Sách giáo viên Ngữ văn 6 của Bộ Giáo dục và Đào tạo – NXB Giáo Dục
[4].Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
- Nguồn: Website: thcstuson.co.cc
- Nguồn: dtnthdb.edu.vn.
[5]. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 6 của Bộ Giáo dục - NXB Giáo Dục.

17


skkn


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

I. MỞ ĐẦU

1

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu

2

5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiện


2

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng  kiến kinh nghiệm

3

3. Các giải pháp đã thực hiện

4

3.1. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh.

5

3.2. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn
lựa hình ảnh, nội dung miêu tả.
3.3. Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của đề bài, cần xác
định đúng hướng làm bài.
3.4. Hướng dẫn tìm ý, lập dàn ý cho bài văn tả cảnh.

5


3.5. Rèn luyện kĩ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong diễn
đạt, chuyển ý
3.6. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn tả cảnh.

10

3.7. Rèn luyện kĩ năng viết phần mở bài, kết bài

13

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

14

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

5
6

12

15

1. Kết luận.

15

2. Kiến nghị


15

18

skkn


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: HỒ THỊ LAN PHƯƠNG
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THCS Phạm Văn Hinh
Huyện Thạch Thành- Tỉnh Thanh Hóa
TT

1
2
3

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Một số biện pháp dạy học từ
ngữ lớp 6, 7 đạt hiệu quả


Phòng Giáo
dục và Đào
tạo
Nâng cao hiệu quả dạy học ca
Phòng Giáo
dao trong Ngữ Văn 7
dục và Đào
tạo
Một số biện pháp nâng cao hiệu Sở Giáo dục
quả công tác chủ nhiệm ở
và Đào tạo
trường THCS Phạm Văn Hinh

Kết quả Năm học
đánh đánh giá
giá xếp xếp loại
loại (A,
B, hoặc
C)
B

2009-2010

B

2011-2012

C


2017- 2018

19

skkn


20

skkn



×