Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Tình hình đầu tư phát triển ở công ty cổ phần đầu tư và Xuất nhập khẩu Đoàn Minh Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.98 KB, 60 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, hoà nhập với sự biến đổi lớn lao của nền
kinh tế ngành công nghiệp xây dựng nước ta đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Hiện nay, ngành đã thu hút hàng triệu lao động tham gia trong các
hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau thuộc mọi thành phần kinh
tế. Đối với mọi doanh nghiệp thì hoạt động đầu tư phát triển là vô cùng quan
trọng bởi đầu tư phát triển quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp đó. Cho đến nay, khái niệm đầu tư phát triển không còn xa lạ đối với
các doanh nghiệp nữa. tuy nhiên nhìn nhận và thực hiện có hiệu quả các nọi
dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp không phải là việc dễ dàng.
Công ty CỔ PHẦN ĐẦU TƯ & XUẤT NHẬP KHẨU ĐOÀN MINH GIANG.,
JSC là một công ty chuyên đầu tư, tư vấn các ngành nghề kinh doanh. Công ty
được thành lập cách đây 5 năm. Trong những năm qua hoạt động của công ty
đã đạt được những kết quả rõ rệt. Có được kết quả đó là do công ty đã chú
trọng nhiều cho lĩnh vực đầu tư phát triển. Với mục tiêu luôn đảm bảo cung
cấp ổn định và thoả mãn nhu cầu của khách hàng
với chất lượng cao, dịch vụ hoàn hảo và an toàn, sự phát triển của công ty dựa
trên chính sách khách hàng và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm,
chất lượng lao động, trình độ quản lí của đội ngũ lãnh đạo là nền tảng trong
sự phát triển của công ty mấy năm vừa qua. Nhận thức được tầm quan trọng
của hoạt động đầu tư phát triển đối với công ty trong những năm vừa qua,
công ty đã tập trung nguồn lực vật chất, nhân lực và tài chính cho hoạt động
đầu tư phát triển. Tuy thế, trong hoạt động đầu tư phát triển của công ty vẫn
còn một số vấn đề cần quan tâm xem xét để mang lại hiệu quả đầu tư cao
nhất. Trong thời gian thực tập tại công ty Cổ phần đầu tư và XNH Đoàn Minh
Giang và qua quá trình tìm hiểu hoạt động đầu tư phát triển ở công ty, cùng
với kiến thức thu được từ quá trình học tập tôi đã quyết định chọn đề tài
chuyên đề thực tập là” Tình hình đầu tư phát triển ở công ty cổ phần đầu tư và
XNK Đoàn Minh Giang”.
Em xin cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Nguyễn Bạch


Nguyệt trong quá trình hoàn thành đề tài này. Do thời gian và kiến thức còn
nhiều hạn chế nên đề tài còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các
thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!

CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ.
1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn
nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền,
là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn),
tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ
(trình độ văn hoá, chuyên môn khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có
điều để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được như trên đây, những kết quả là tài sản vật
chất, trí tuệ và nguồn lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi
nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với nền kinh tế.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả
tương lai lớn hơn nguồn lực đã sử dụng để đạt kết quả đó.
Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử
dụng các nguồn lực ở hiện tại trực tiếp làm tăng tài sản vật chất, nguồn nhân
lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân
lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển.
Đối với một quốc gia, hay một nền kinh tế thì hoạt động đầu tư phát
triển luôn đóng một vai trò quyết định trong sự đi lên phát triển hay hưng
thịnh của chính quốc gia đó. Có thể hiểu đầu tư phát triển là hoạt động sử
dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí

tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị
và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện
chi phí thường xuyên gắn liền với các hoạt động của các tài sản này nhằm
duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo nguồn lực mới
cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho mọi thành
viên trong xã hội. Với những tác dụng to lớn trên, chúng ta nhận thấy rằng
chỉ có hoạt động đầu tư phát triển mới làm cho nền kinh tế tăng trưởng, phát
triển theo mục tiêu ta đã lựa chọn.
2. Những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển có đặc điểm khác biệt với hoạt động đầu tư khác
là:
- Đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt
quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn cho đầu tư phát
triển.
- Thời gian để tiến hành một hoạt động đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát
huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
- Các thành quả của hoạt động dầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài
trong nhiều năm, có khi hàng trăm năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn.
- Vị trí của các công trình xây dựng là cố định, các công trình này sẽ hoạt
động tại nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa hình có
ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động sau này của kết
quả đầu tư.
- Ngoài ra, các yếu tố rủi ro đầu tư luôn luôn rình rập. Nếu người đầu tư,
người quản lý không đánh giá đúng hay nhận dạng đủ các nhân tố rủi ro có
thể xẩy ra và có kế hoạch quản lý phòng ngừa thì rất dễ gây ra sự đổ vỡ cho
dự án.
3. Vai trò của đầu tư phát triển.
Các lý thuyết kinh tế đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để
phát triển kinh tế, là nhân tố mang lại sự tăng trưởng. Vai trò của đầu tư
được thể hiện qua các mặt sau:

3.1. Trên giác độ nền kinh tế.
- Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu
Trước hết về mặt cầu, khi nhu cầu đầu tư tăng thì cầu các yếu tố đầu vào
như vật liệu xây dựng, nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất tăng (tăng
cầu chỉ trong ngắn hạn) làm cho giá các yếu tố đầu vào tăng. Khi các yếu tố
đầu vào phát huy tác dụng, quá trình thực hiện dự án hoàn thành chuyển sang
giai đoạn vận hành thì cầu yếu tố đầu vào giảm do đó giá nguyên vật liệu đầu
vào giảm. Về mặt cung khi các yếu tố đầu vào phát huy tác dụng, năng lực
mới đi vào hoạt động thì tổng cung (trong dài hạn) tăng làm tăng sản phẩm
trên thị trường do đó giá sản phẩm trên thị trường giảm. Sản lượng tăng, giá
giảm cho phép tăng tiêu dùng, tăng tiêu dùng đến lượt mình tiếp tục kích
thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển chính là nguồn gốc để tích luỹ
phát triển kinh tế xã hội.
- Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng
cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư,
dù tăng hay giảm đầu cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là
yếu tố phá vỡ sự ổn định của nề kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho
giá của các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, vật tư,
lao động) đến một mức nào đó sẽ dẫn đến tình trạng lạm phạt. Đến lượt mình
lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều
khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát
triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan
tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình
trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất
cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
- Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, đầu tư và tích luỹ vốn cho đầu tư
ngày càng được xem là một nhân tố quan trọng cho sản xuất, cho việc tăng

năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế và cho sự tăng trưởng.
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn duy trì tốc độ tăng
trưởng ở mức trung bình thì tỉ lệ đầu tư phải đạt từ 15%-25% so với GDP tuỳ
thuộc vào chỉ số ICOR của mỗi nước
ICOR = Vốn đầu tư/ Mức tăng GDP
Mức tăng GDP = Vốn đầu tư/ ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu
tư. Thực tế nhiều nước đầu tư đóng vai trò như một cái hích ban đầu tạo đà
cho sự cất cánh nền kinh tế.
- Đầu tư tác động đế sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để
tăng trưởng nhanh (9%-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển
nhanh ở các khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với ngành nông, lâm, ngư
nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt tốc độ tăng
trưởng 5%-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của
toàn nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát
triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi nghèo
đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế... của những
vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng
khác phát triển.
- Đầu tư tác động đến tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất
nước
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng khoa học công nghệ của nước
ta hiện nay, trong giai đoạn khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão.
Có hai con đường để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công
nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù bằng các này hay cách khác thì
đều cần phải có tiền, phải có vốn đầu tư, mọi phương án đổi mới công nghệ

không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là không khả thi.
Đầu tư và tăng cường khả năng công nghệ có tác động lẫn nhau. Đầu tư
là sự phối hợp các nguồn lực để sự phối hợp đó thực sự có hiệu quả đòi hỏi
phải có sự tác động của khoa học công nghệ. Sự gia tăng khoa học công nghệ
vào quá trình đầu tư sẽ làm tăng năng suất, giảm chi phí, giảm giá thành và
chất lượng sản phẩm được nâng cao, nhu cầu cơ bản được giải quyết, nhu cầu
mới phát sinh điều này làm cho cơ cấu nhu cầu thay đổi thúc đẩy đầu tư để đáp
ứng nhu cầu đó.
3.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Đầu tư quyết định sự ra đời và tồn tại của mỗi cơ sở. Ví dụ, để tạo dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây
dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc trên nền bệ,
tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền
với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra.
Mặt khác, để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến
hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng hao
mòn hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát
triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội.
Đối với các cơ sở sản xuất vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận
cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì hoạt động, ngoài tiến hành sửa
chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí
thường xuyên . Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt
động đầu tư phát triển.
II. ĐẦU TƯ TRONG DOANH NGHIỆP.
1. Khái niệm về đầu tư trong doanh nghiệp.
Đầu tư trong doanh nghiệp là một bộ phận đầu tư phát triển, là hoạt
động chi dùng vốn và các nguồn lực khác trong hiện tại nhằm làm tăng thêm
các tài sản của doanh nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao đời sống
của các thành viên trong doanh nghiệp.
Có nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động đầu tư trong doanh

nghiệp:
- Quan điểm về kết hợp lợi ích lâu dài với lợi ích trước mắt của doanh nghiệp
trong lĩnh vực đầu tư, kết hợp giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của doanh
nghiệp.
- Quan điểm về mục tiêu của đầu tư: Lợi nhuận tối đa, tăng chất lượng sản
phẩm, tăng thị phần, cải thiện đời sống, điều kiện lao động cho cán bộ công
nhân viên. Mục đích này có thể là ngắn hạn hay trong dài hạn.
- Quan điểm về giải pháp hay chiến lược đầu tư: Xác định nên đầu tư chiều
rộng hay đầu tư chiều sâu, xây dựng mới hay cải tạo cơ sở vật chất hiện có,
nên đi vào hướng chuyên môn hoá hay đa dạng hoá doanh nghiệp.
Tóm lại, đầu tư trong doanh nghiệp là việc doanh nghiệp chi dùng vốn
và các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó
nhằm thu về kết quả trong tương lai lớn hơn chi phí đã bỏ ra.
2. Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
a) Đầu tư vào máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, cơ sở hạ tầng, xây
dựng.
Đầu tư vào việc tái tạo tài sản cố định đóng vai trò quan trọng nhất
trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp vì:
Thứ nhất, chi phí cho các hạng mục chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu

Thứ hai, đó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm - hoạt động chính của
mỗi doanh nghiệp.
Như vậy, hoạt động đầu tư vào TSCĐ đóng vai trò quan trọng nhất nếu
không muốn nói là quyết định đối với phần lợi nhuận thu được của doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp thường tăng cường thêm tài sản cố định khi họ
thấy những cơ hội có lợi để mở rộng sản xuất, hoặc vì họ có thể giảm bớt chi
phí bằng cách chuyển sang phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn.
Trước hết, ta xem xét đầu tư vào cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà xưởng.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là một trong những hoạt động thực hiện đầu
tiên của mỗi công cuộc đầu tư (trừ trường hợp đầu tư chiều sâu). Hoạt động

đó bao gồm các hạng mục xây dựng nhằm tạo điều kiện và đảm bảo cho dây
chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động được thuận lợi và an toàn.
Để thực hiện tốt các hạng mục này, trước tiên phải tính đến các điều
kiện thuận lợi, khó khăn của vị trí địa lý, địa hình, địa chất... đồng thời phải
căn cứ vào yêu cầu của đặc tính kỹ thuật của máy móc thiết bị, dây chuyền
sản xuất, cách tổ chức điều hành, nhu cầu dự trử, số lượng công nhân...các
hạng mục được chia thành các nhóm cơ bản ví dụ như: Các phân xương sản
xuất chính phụ, hệ thống điện nước, hệ thống xử lý chất thải và bảo vệ môi
trường, hệ thống thông tin liên lạc...
Đối với mỗi hạng mục công trình phải xem xét, cân nhắc và quyết định:
diện tích xây dựng, đặc điểm kiến trúc, kích thước và chi phí...
Cùng với sự phát triển cơ sở hạ tầng doanh nghiệp nào cũng cần phải
chú ý đầu tư vào máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ và các tài sản cố
định khác. Đây là bộ phận chiếm tỷ trọng vốn lớn trong hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp xây lắp cũng như doanh nghiệp sản xuất. Mặt khác, trong
điều kiện sự phát triển của khoa học công nghệ nên có nhiều tầng công nghệ,
nhiều cơ hội để lựa chọn máy móc thiết bị phù hợp về nhiều mặt. Với lý do
đó, việc đầu tư cho máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ phải tạo ra các
sản phẩm có tính cạnh tranh cao, khai thác và sử dụng có hiệu quả lợi thế
của doanh nghiệp.
Ngoài ra đổi mới công nghệ còn là nhân tố đóng vai trò quan trọng
quyết định đối với sự phát triển của các doanh nghiệp. Đổi mới công nghệ là
một hình thức của đầu tư phát triển nhưng nội dung đi sâu vào mặt chất của
đầu tư. Mục tiêu của đổi mới công nghệ là việc tạo ra các yếu tố mới của
công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng khả năng
cạnh trạnh của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Đầu tư đổi mới công nghệ trong
doanh nghiệp được thực hiện theo cách như cải tiến, hiện đại hoá công nghệ
truyền thống hiện có, tự nghiên cứu, phát triển ứng dụng công nghệ mới,
nhập công nghệ mới tiên tiến từ nước ngoài thông qua mua sắm trang thiết
bị và chuyển giao công nghệ.

Công nghệ nào cũng có chu kỳ phát triển: Xuất hiện- tăng trưởng- bảo
hoà. Chu kỳ ấy được gọi là “vòng đời công nghệ”. Đầu tư đổi mới công
nghệ cũng phải căn cứ vào vòng đời này để chọn thời điểm đầu tư thích hợp.
b) Đầu tư phát triển nguồn nhân lực.
Lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định và thể hiện trình độ văn hoá
văn minh của nền sản xuất xã hội. Mác đã từng nói rằng trình độ sản xuất
của một nền kinh tế không phải là xã hội đó sản xuất cái gì mà xã hội đó đã dùng
cái gì để sản xuất. Cùng với việc đề cao vai trò của lực lượng sản xuất, Lênin
khẳng định rằng lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân,
là người lao động. Trong thực tế người lao động là một bộ phận quan trọng của
lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm cho xã hội, người
lao động không chỉ là một yếu tố của quá trình đó mà còn là yếu tố quan
trọng, tác động có tính chất quyết định vào việc phát huy đồng bộ và có hiệu
quả các yếu tố khác. Nếu chúng ta có nhà xưởng, có nguyên vật liệu, có máy
móc thiệt bị nhưng thiếu bàn tay con người thì cũng không thể có sản phẩm
cung cấp cho xã hội.
Hoạt động quản lý nhân lực của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động
tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, đào tạo lại, đào tạo nâng cao... Các hoạt động
này có thể xen kẻ, có thể tách biệt, tuỳ vào đặc điểm nghề nghiệp quy mô của
doanh nghiệp.
Thứ nhất là công tác tuyển dụng: Công tác này không đòi hỏi nhiều chi
phí nhưng lại đòi hỏi khâu chuẩn bị hết sức kỹ càng, tỷ mỉ bởi mức độ ảnh
hưởng của nó đến tương lai của doanh nghiệp.
Thứ hai là công tác đào tạo: Đây là một trong những hoạt động quan
trọng nhất của hoạt động đầu tư nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Đào tạo
quyết định phẩm chất chính trị, năng lực quản lý, trình độ tay nghề. Đào tạo
của doanh nghiệp có thể đào tạo bên ngoài do các tổ chức đào tạo chuyên
nghiệp tổ chức hoặc đào tạo nội bộ. Về đối tượng đào tạo có thể chia làm ba
đối tượng: Một là đào tạo cho lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn.

Hai là đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học công nghệ. Ba là đào tạo
nâng cao tay nghề cho người công nhân.
Thứ ba, là công tác sử dụng: Đây là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp biết sử
dụng đúng người đúng việc làm phát huy hết khả năng của người lao động
thì chắc chắn sẽ đem lại kết quả tốt. Ngược lại doanh nghiệp sẽ không phát
huy được lợi thế về nguồn nhân lực thậm chí chịu tác động ngược chiều đến
kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Có thể nói rằng lực lượng cán bộ quản lý trong doanh nghiệp không
đông về mặt số lượng nhưng lại có tính chất quyết định đối với sự thành bại
của doanh nghiệp. Trước đây một quan niệm đã ăn sâu vào xã hội đó là: cán
bộ quản lý là những người đi lên từ công nhân, người lao động; chỉ những
người có tích luỹ kinh nghiệm mới quản lý được. Quản lý không phải là một
nghề. Đó là một quan niệm lỗi thời đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, người quản ký trong mỗi doanh nghiệp
không chỉ thực hiện những công việc “thành tên” mà còn phải năng động
sáng tạo trong những công việc “không tên”, những tình huống khó khăn,
nhạy cảm. Do đó, nếu người quản lý không học tập, không nâng cao trình độ
thì khó có thể đứng vững và đi lên được trong nền kinh tế thị trường. Việc
đầu tư cho đào tạo cán bộ quản lý thông qua các chi phí cho tham gia hội
thảo, tham quan thực tế, đào tạo ngắn hạn, dài hạn nghiệp vụ quản lý... đấy
là những chi phí không lớn nhưng hết sức quan trọng.
Đào tạo cho cán bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật:
Việc đào tạo đầu tư cho cán bộ khoa học ứng dụng là một trong những
nhiệm vụ hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Họ sẽ là người đem trí
thức mới và đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh góp phần
không ngừng nâng cao sự lớn mạnh của doanh nghiệp.
Đào tạo tay nghề cho công nhân. Đây là lực lượng chịu ảnh hưởng lớn
mạnh của công tác đào tạo cả về chất lượng lẫn số lượng. Đào tạo công nhân
có thể diễn ra ở trường đào tạo, cũng có thể đào tạo ngay khi lao động sản

xuất. Ngày nay khoa học công nghệ ngày càng phát triển một cách nhanh
chóng thì đòi hỏi tay nghề của người công nhân phải vững và thích ứng được
với trình độ khoa học công nghệ. Điều dó đòi hỏi quá trình đào tạo, đào tạo
lại, đào tạo nâng cao tay nghề của người công nhân là một yếu tố khách
quan.
c) Đầu tư cho tài sản vô hình khác.
Khác với tài sản hữu hình, tài sản vô hình là các tài sản không có hình
thái cụ thể, tuy nhiên nó có đóng góp quan trọng trong sự phát triển của
doanh nghiệp. Các tài sản vô hình có thể là uy tín của doanh nghiệp, bầu
không khí làm việc, sự nổi tiếng của nhãn mác... đầu tư cho nguồn nhân lực
của doanh nghiệp cũng được coi là đầu tư cho tài sản vô hình của doanh
nghiệp. Các tài sản vô hình không trực tiếp làm ra sản phẩm nhưng nó gián
tiếp làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra nhanh
hơn. Đầu tư hợp lý vào tài sản vô hình đồng nghĩa với việc thúc đẩy vị thế,
danh tiếng của doanh nghiệp và do đó tăng lợi nhuận của doanh nghiệp trong
tương lai.
3. Phân loại đầu tư trong doanh nghiệp theo lĩnh vực đầu tư.
Ta có thể phân loại đầu tư thành các loại sau:
- Đầu tư vào ngành công nghệp, đầu tư vào ngành nông nghiệp, đầu tư
vào thương mại và dịch vụ.
- Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu.
Đầu tư theo chiều rộng: là đầu tư cải tạo mở rộng, xây dựng mới cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện có với trình độ công nghệ không thay đổi.
Đầu tư theo chiều sâu: Là đầu tư cải tạo, mở rộng hiện đại hoá, đồng bộ
hoá cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có hoặc đầu tư một dây chuyền công nghệ
mới với kỹ thuật công nghệ hiện đại hơn.
- Đầu tư vật chất và đầu tư phi vật chất.
Đầu tư vật chất: Là đầu tư nhằm tăng thêm những vật thể có tính chất hữu
hình.
Đầu tư phi vật chất là đầu tư cho các hoạt động tiếp thị, quảng cáo nâng

cao tay nghề của người lao động, đầu tư cho đổi mới công nghệ… thực hiện
các hoạt động kinh doanh.
4. Vốn và nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp.
4.1. Vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là phạm trù kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong các hệ
thống lý luận và thực tế của nền kinh tế thị trường hiện đại. Một doanh
nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, thực hiện các mục tiêu của
mình tất yếu phải có nguồn lực như đất đai, nhà xưởng trang thiết bị vật
chất...Để có được những nguồn lực này, doanh nghiệp phải có lượng vốn ban
đầu để mua sắm trang thiết bị cơ sở vật chất này. Như vậy ta có thể hiểu vốn
đầu tư là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và trong quá trình sản xuất
kinh doanh tiếp theo của doanh nghiệp nhằm đem lại giá trị thặng dư.
4.2. Các nguồn huy động vốn của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường được quyền tự chủ về tài
chính, tự do huy động vốn sản xuất kinh doanh bằng nhiều nguồn, phương
thức đa dạng phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Về cơ bản, các nguồn
vốn doanh nghiệp huy động nằm trong các loại sau:
a) Nguồn vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là vốn đầu tiên cơ bản của doanh nghiệp. Vốn chủ sở
hữu cho các doanh nghiệp Nhà nước trước hết là vốn cấp để mua đất đai,
nhà cửa, máy móc trang thiết bị, các điều kiện để hoạt động và đền bù thiệt
hại trong kinh doanh. Ngoài ra vốn chủ sở hữu còn có chức năng điều chỉnh
các hoạt động của doanh nghiệp, đáp ứng các yêu cầu pháp lý quy định trong
sản xuất kinh doanh. Vốn chủ sở hữu còn góp phần duy trì khả năng trả nợ
bằng cách cung cấp các tài sản dự trử để doanh nghiệp không bị đe doạ bởi
sự thua lỗ để có thể tiếp tục hoạt động. Ưu điểm của sử dụng vốn chủ sở hữu
là doanh nghiệp được chủ động trong việc huy động các nguồn vốn, không
chịu sự kiểm soát khống chế của các chủ nợ.
Khi thành lập các doanh nghiệp cần có một lượng vốn ban đầu là cơ sở
pháp lý cung cấp cơ sở vật chất ban đầu để doanh nghiệp tiến hành các hoạt

động sản xuất kinh doanh. Thông thường vốn này do các thành viên sáng lập
doanh nghiệp góp cổ phần. Tại các doanh nghiệp nhà nước vốn ban đầu do
Nhà nước cấp để doanh nghiệp quản lý sử dụng. Trong quá trình hoạt động
kinh doanh nếu có lãi, lợi nhuận để tiếp tục được bổ sung vào vốn chủ sở
hữu để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Nếu có nhu
cầu doanh nghiệp có thể tiến hành phát hành cổ phiếu mới hoặc Nhà nước
cấp bổ sung để phát triển vốn chủ sở hữu. Như vậy, Vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp có thể chia làm 4 hình thức:
- Nguồn vốn Nhà nước cấp.
Số vốn này Nhà nước cấp cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng trên cơ
sở bảo toàn và phát triển vốn. Vốn được xác định trên cơ sở biên bản giao
nhận vốn giữa chủ thể sở hữu và doanh nghiệp.
- Nguồn vốn phát hành cổ phiếu.
- Nguồn vốn khấu hao:
Được tích luỹ từ quỹ khấu hao. Quỹ khấu hao của các doanh nghiệp
được trích theo hàng tháng hoặc trích theo hàng quý nhằm khấu hao cho các
tài sản cố định. Nó được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh.
- Nguồn lợi nhuận sau thuế.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp có một phần lợi
nhuận sau thuế. Ngoài một phần được chia cho các cổ đông dưới dạng tổ
chức (nếu có) phần lợi nhuận được giữ lại là nguồn vốn quan trọng làm tăng
vốn sở hữu của doanh nghiệp.
Nguồn này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc huy động các nguồn
năng lực khác nhưng doanh nghiệp chỉ có vốn từ nguồn này nếu doanh
nghiệp thực sự làm ăn có hiệu quả.
b) Vốn vay trên thị trường vay nợ.
Vay nợ là cách tài trợ sẵn có và linh hoạt nhất cho các doanh nghiệp,
nguồn vốn vay nợ có một ưu điểm lớn nhất, đó là: Do phần thanh toán lãi
vay được khấu trừ làm giảm thu nhập chịu thuế và do các nhà đầu tư thường
chịu ít rủi ro hơn nên chi phí vốn vay nợ thường thấp hơn chi phí cổ phần.

Tuy nhiên, ở khía cạnh khác việc sử dụng nhiều nợ có thể dẫn đến rủi ro
thanh toán của doanh nghiệp. Ngoài ra khi tình hình tài chính của công ty
không vững mạnh công ty cũng phải thanh toán nợ, điều này có thể khiến
công ty gặp khó khăn trầm trọng hơn về mặt tài chính, có thể đi đến phá sản.
Có nhiều loại thị trường nợ với các đặc điểm và ưu thế riêng. Một
doanh nghiệp nếu có một tình hình tài chính mạnh sẽ có khả năng tiếp cận
rộng rãi tới nhiều thị trường khác nhau và có thể đạt được các điều kiện vay
nợ tốt hơn. Trên thị trường tài chính, các doanh nghiệp có thể tiến hành vay
nợ bởi các trung gian tài chính, vay trên thị trường chứng khoán bằng cách
phát hành chứng khoán.
Tóm lại, vốn là điều kiện cần của doanh nghiệp, là mạch máu của
doanh nghiệp. Để có vốn đầu tư, các doanh nghiệp cũng khônmg khó khăn
trong việc tiến hành vay mượn, nhưng quan trọng là doanh nghiệp phải biết đầu
tư có hiệu quả.
5. Vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp.
Trong phần này ta chỉ xét đến đầu tư phát triển- là việc bỏ tiền ra để
tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng
tiềm lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đầu tư phát triển đối với
nền kinh tế là chìa khoá cho sự tăng trưởng. Còn đối với doanh nghiệp, đầu
tư quyết định cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở.
Từ việc tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của doanh
nghiệp, mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh đều cần phải xây dựng nhà xưởng,
cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị, thực hiện công tác
xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động
trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa mới tạo ra. Sau đó để
duy trì hoạt động bình thường của các cơ sở sản xuất này cần phải tiến hành
sửa chữa lớn thường xuyên hoặc thay mới các cơ sở sản xuất đã hao mòn hư
hỏng. Đổi mới để thích ứng với yêu cầu của khoa học kỹ thuật và thay đổi
trong nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt là hiện nay nước ta đang đứng trước yêu
cầu hội nhập và phát triển kinh tế thì vai trò của đầu tư trong doanh nghiệp

là phải làm sao để nâng cao khả năng cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp
để doanh nghiệp nước ta có thể đứng vững trong thị trường nội địa và vươn
ra thị trường quốc tế với những nội dung sau:
- Đầu tư tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh trạnh của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh là nhân tố thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục dấn
bước trên con đường hội nhập kinh tế. Các chính sách đầu tư cho sản phẩm,
đầu tư mới máy móc thiết bị ... là những nhân tố quan trọng đi đầu để tăng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Đầu tư tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ: để có được chất
lượng sản phẩm ngày càng cao hoặc đổi mới hàm lượng công nghệ trong sản
phẩm, phải có sự đầu tư chi dùng vốn cho việc nghiên cứu sáng tạo ra những
sản phẩm ngày càng cao để đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá của con người.
- Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ, trình độ khoa học kỹ thuật trong sản
xuất. Nhờ có đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ, con người sẽ không
phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tỷ trọng lao động giản đơn
giảm, thay vào đó là lao động phức tạp, lao động mang nhiều yếu tố chất
xám, từ đó nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm.
- Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Nhờ có đầu tư phát
triển doanh nghiệp nguồn lao động ngày càng được nâng cao trình độ tay
nghề, phương pháp quản lý để phù hợp với trình độ máy móc thiết bị và
công nghệ.
6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp để tiến hành một hoạt động đầu tư, thông thường
người ta căn cứ vào rất nhiều yếu tố khác nhau, cụ thể bao gồm các yếu tố
sau:
- Tỷ suất sinh lời vốn đầu tư: Tỷ suất sinh lời vốn đầu tư hay còn gọi là lợi
nhuận thuần thu từ hoạt động đầu tư. Đầu tư và lợi nhuận thuần thu được từ
hoạt động đầu tư có mối quan hệ đồng biến. Các nhà đầu tư sẽ gia tăng quy
mô đầu tư nếu như lợi mhuận thu được từ hoạt động tăng và ngược lại, nếu
như lợi nhuận thu được giảm hay nói cách khác mức gia tăng lợi nhuận giữa

các năm giảm thì các nhà đầu tư giảm dần quy mô đầu tư.
- Tỷ lệ lãi suất thực tế.
Khi các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư thì lãi suất thực tế sẽ phản ánh
giá của các khoản vay mượn đó. Chính vì thế quyết định có nên đầu tư hay
không sẽ phải căn cứ vào mức lãi suất đi vay để tiến hành hoạt động đầu tư
đó.
r
IO
Có thể biễu diễn mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất bằng sơ đồ sau:
Qua sơ đồ trên ta thấy lãi suất thực tế luôn tỷ lệ nghịch với đầu tư.
Lãi suất cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận bình quân thì các nhà đầu tư
sẽ giảm quy mô đầu tư, lãi suất vốn vay càng thấp thì mức đầu tư càng tăng
lên.
- Lợi nhuận kỳ vọng: là mức lợi nhuận mà nhà đầu tư hy vọng đạt được trong
tương lai nếu tiến hành đầu tư. Các nhà đầu tư hy vọng vào tương lai chắc
chắn sẽ đạt được lợi nhuận cao thì họ sẽ đầu tư với quy mô tăng và ngược
lại. Lợi nhuận kỳ vọng rất khó xác định nhưng nó lại là nhân tố kích thích
các nhà đầu tư đầu tư thêm, nhất là các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm.
- Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp quyết định đầu tư hay hạn chế đầu tư là tuỳ thuộc vào những
nhân tố đó. Để hoạt động đầu tư có hiệu quả cao thì cần phải căn cứ vào các
nhân tố trên.
7. Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp.
Hiệu quả đầu tư là một khái niệm rộng, một phạm trù kinh tế khách
quan.
Trên giác độ nền kinh tế đó là mức độ thoả mãn nhu cầu phát triển kinh
tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động.
Trên giác độ từng ngành, từng địa phương, cơ sở, từng giải pháp kinh tế
kỹ thuật thì đó là mức độ dáp ứng những nhiệm vụ kinh tế chính trị xã hội đã đề
ra cho ngành, địa phương, doanh nghiệp, cho từng giải pháp kỹ thuật khi thực

hiện đầu tư.
Căn cứ vào bản chất hiệu quả, người ta chia hiệu quả thành hai loại:
hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội.
7.1. Hiệu quả tài chính.
Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu
hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao
động trong các cơ sở sản xuất , kinh doanh dịch vụ trên cơ sở cốn đầu tư mà
cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác, các cơ sở khác hoặc định mức chung .
Để tính toán hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư, có thể sử dụng
các nhóm chỉ tiêu sau:
7.1.1. Chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư
Tỷ suất sinh lời của VĐT =
∆LN
Ivo
Trong đó :
+ ∆LN là lợi nhuận gia tăng của năm t so với năm (t-1)
+ Ivo là vốn đầu tư năm t
Chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận thu được trên một đồng vốn đầu tư phát huy
tác dụng trong kỳ nghiên cứu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả tài chính
càng cao và càng chứng tỏ rằng hoạt động đầu tư của doanh nghiệp là tốt, là
có hiệu quả.
7.1.2. Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và khả năng sinh lời của
vốn cố định
Thứ nhất, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh: (E)
E =
Tổng doanh thu
Tổng vốn kinh doanh

Hệ số (E) phản ánh doanh thu thu được trên một đơn vị vốn kinh doanh.
Thứ hai, chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của vốn cố định: (H)

H=
Tổng vốn cố định
Tổng lợi nhuận
Hệ số này phản ánh tổng vốn cố định phải bỏ ra để thu được một đơn vị
lợi nhuận.
Trong đó: F là tài sản cố định tăng thêm (do đầu tư năm t tạo ra).
Chỉ tiêu này cho biết lợi nhuận thu được trên một đồng tài sản cố định,
chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, chứng tỏ kết quả hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp trong thời kỳ nghiên cứu đã phát huy hiệu quả tốt do đó hoạt động đầu
tư của doanh nghiệp có hiệu quả.
7.1.3. Chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết trong 1000 đồng doanh thu thì có nhiêu đồng lợi nhuận,
chỉ tiêu này càng lớn càng tốt nó phản ánh đầu tư của doanh nghiệp có hiệu
quả.
7.1.4. Chi tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của DN
- Hệ số vốn tự có (vốn chủ sở hữu) so với vốn vay, hệ số này phải lớn
hơn bặc bằng 1. Đối với dự án có triển vọng, hiệu quả thu được là rõ ràng thì
hệ số này có thể nhỏ hơn 1, vào khoảng 2/3 thì dự án thuận lợi.
- Tỷ trọng vốn tự có (vốn chủ sở hữu) có trong tổng vốn đầu tư phải
>= 50%. Đối với dự án có triển vọng, hiệu quả rõ ràng thì tỷ trọng này có thể
là 40%, thì dự án thuận lợi.
- Tỷ lệ giữa TSLĐ có so với TSLĐ nợ = 2/1 hoặc 4/1 thì dự án thuận
lợi.
- Tỷ lệ giữa vốn lưu động và nợ ngắn hạn >= 1 phản ánh khả năng
thanh toán của công ty trong ngắn hạn.
- Tỷ lệ giữa tổng thu từ lợi nhuận thuần và khấu hao so với nợ đến hạn
phải trả (tỷ lệ này phải >= 1)
Hai chỉ tiêu đầu nói lên tiềm lực tài chính đảm bảo cho mọi dự án thực
hiện được thuận lợi, ba chỉ tiêu sau nói lên khả năng đảm bảo thanh toán các
nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp.

7.2. Hiệu quả kinh tế xã hội.
Hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư là chênh lệch giữa
các lợi ích mà nền kinh tế và xã hội thu được với các chi phí mà nền kinh tế
và xã hội đã bỏ ra khi thực hiện đầu tư.
Xuất phát từ góc độ doanh nghiệp, lợi ích kinh tế xã hội của hoạt
động đầu tư được thể hiện qua các chỉ tiêu sau:
- Mức đóng góp ngân sách.
- Số chỗ làm việc tăng thêm từ hoạt động đầu tư.
- Số ngoại tệ thu được từ hoạt động đầu tư.
- Mức tăng năng suất lao động sau khi đầu tư so với trước đầu tư.
- Mức nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động.
- Các tác động đến môi trường.
- Các tác động khác.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TẠI
CÔNG TY CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ XNH ĐOÀN MINH GIANG
I, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÔNG TY:
- Công ty thành lập vào tháng 5 /2001 với tên gọi Công ty FIC.
+ Địa chỉ: Trung Hoà - Cầu Giấy – Hà Nội.
Năm 2004 công ty tạm ngừng hoạt động.
+Tháng 5 năm 2005 công ty chính thức hoạt động trở lại với tên gọi
Công ty cổ phần đầu tư xuất nhập khẩu Đoàn Minh Giang
+ Trụ sở chính: tầng 3 -Nhà B3A -Khu đô thị Nam Trung Yên -Trung
Hoà - Cầu Giấy -Hà Nội.
+ Người đại diện theo pháp luật của công ty: Ông Nguyễn Bá Tiến –
Giám Đốc công ty.
- Hình thức góp vốn: công ty được hình thành từ cổ phần của các cổ công
sáng lập.
- Danh sách các cổ đông sáng lập nên công ty:
STT Họ Và Tên Điện Thoại Địa Chỉ
Số Tiền

Góp vốn
1 Nguyễn Bá Tiến 0983072068
049580244
Đông Anh
Hà Nội
750.000.000
2 Ngô Đình Lợi 0903439759
048826220
Đông Anh
Hà Nội
300.000.000
3 Hoàng Thị Nguyệt 0915932839
042108496
Thanh Xuân
Hà Nội
225.000.000
4 Nguyễn Thị Hoan 0915161490
042108570
Từ Liêm
Hà Nội
75.000.000
5 Trần Quang Mên 0984924351
042187686
Phường Bén Gót-Tp Việt Trì 300.000.000
6 Trần Quang Thái 0984154188 Đông Anh
Hà Nội
75.000.000
7 Lê Thị Thuỷ 0977811259 Đông Anh
Hà Nội
75.000.000

- Vốn điều lệ ban đầu : 1,8 tỷ đồng.
- Số tài khoản: 421101001269 tại Ngân Hàng Nông Nghiệp – Chi nhánh
Đông Anh
Qua quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường, ngày 20/5/2006 Công
ty cổ phần đầu tư & xuất nhập khẩu Đoàn Minh Giang., JSC chính thức ra đời.
Với các ngành nghề kinh doanh:
+ Tư vấn Dự án và đầu tư tài chính.
+ Tư vấn mua bán Bất động sản - Thủ tục cấp tách sổ đỏ
+ Buôn bán nông lâm sản máy, công nghiệp điện tử
+ Du lịch nội đại và cho thuê xe du lịch.
+ Tư vấn cung ứng lao động & du học nước ngoài.
- Hình thức hoạt động:
+ Công ty được phép lập kế hoạch và tiến hành các hoạt động kinh
doanh theo quy định của giấy chứng nhận dăng kí kinh doanh và điều lệ phù
hợp với quy định của pháp luật và thực hiện các biện pháp thích hợp để đạt
được mục tiêu của công ty.
+ Công ty có thể thay đổi hình thức và mục tiêu chức năng kinh doanh,
vốn điều lệ và các nội dung khác trong hồ sơ đăng kí kinh doanh khi hội đồng
quản trị xét có lợi nhất đồng thời phải khai báo với sở kế hoạch đầu tư Hà Nội
để cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và phải đăng báo để thông báo.
Công ty được thành lập với các thành viên cùng với chức vụ như sau:
_ Giám đốc: Nguyễn Bá Tiến.
_ P. Giám đốc: Ngô Đình Lợi
Hoàng Thị Nguyệt.
_ Kế toán: Đào Ngọc Hà; Lê Thị Thuỷ.
_ Trưởng phòng hành chính: Nguyễn Thị Hoan
_ Trưởng phòng kinh doanh: Nguyễn Bá Luân.
_ Trưởng ban dự án: Trần Quang Mên.
Trong đó giám đốc đồng thời là chủ tịch HĐQT.
Công ty hoạt động trên hình thức công ty cổ phần và hoạt động chủ yếu

là tư vấn dự án và trực tiếp đầu tư.
II, SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC, CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA CÁC PHÒNG BAN
VÀ NHÂN VIÊN CÔNG TY.
1, Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty:
Hội đồng quản trị
Giám đốc
P. Giám đốc nhân sự
P. Giám đốc kinh doanh
Phòng hành chính tổng hợp
Phòng kinh doanh
Phòng kế toán
Ban dự án
2, Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban và nhân viên công ty.
2.1, Hội đồng quản trị:
a, Chức năng:
Là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết
định và thực hiện các quyền hợp pháp của công ty.
b, Nhiệm vụ:
- Quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch
kinh doanh hằng năm của công ty.
- Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư.
- Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ.
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng
với giám đốc.
- Giám sát, chỉ đạo giám đốc và người quản ký khác trong điều hành
việc kinh doanh hằng ngày của công ty.
- Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết
điịnh thành lập công ty con, chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn,
mua cổ phần của các doanh nghiệp khác.
- Kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty

2.2, Ban giám đốc:
a, Chức năng:
Trong công ty ban giám đốc là một số người trong hội đồng quản trị,

×