LUẬN VĂN:
Những lý luận cơ bản về kế toán
quản trị chi phí - giá thành tại các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Lời mở đầu
Do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các phương pháp sản xuất,
nên cách thức quản lý truyền thống của các nhà sản xuất đã thay đổi, trong đó có
các phương thức thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin cho các phương án kinh
doanh. Mặt khác, xu hướng khu vực hoá và quốc tế hoá đã tạo ra khuynh hướng vừa
hợp tác vừa cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các hãng và các tập đoàn. Điều đó
làm tăng thêm nhu cầu về cung cấp, xử lý thông tin do kế toán cung cấp. Mà một
phần lớn các thông tin chi tiết cụ thể từ việc lập kế hoạch hoạt động, kiểm soát các
hoạt động và kết quả của nó, giúp cho các nhà quản trị đưa ra các quyết định phù
hợp là do kế toán quản trị cung cấp.
Ngày nay kế toán quản trị (KTQT) đang thực sự trở thành một bộ phận của
hệ thống kế toán và hệ thống thông tin quản trị kinh doanh. Tại Việt Nam KTQT đã
có những điều kiện hình thành và phát triển:
- Nền kinh tế nước ta thực chất đang ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị
trường. Giai đoạn kinh tế hàng hoá là điều kiện thuận lợi cho KTQT hình thành và
phát triển.
- Nhờ sự phát triển của khoa học quản trị nói chung nên khoa học kế toán
cũng có những bước phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia và thế giới. Do đó việc sử
dụng KTQT như một công cụ kiểm tra, kiểm soát, thu nhận xử lý và cung cấp thông
tin phục vụ cho việc lập kế hoạch và ra quyết định là một tất yếu.
- Hiện nay, công cuộc cải cách và sửa đổi chế độ kế toán cùng với việc hội
nhập với kế toán các nước có nền kinh tế phát triển trong và ngoài khu vực đang
dần được thực hiện. Vì vậy, việc vận dụng và thực hiện KTQT ở Việt Nam là một
tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật và xu thế thời đại.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc vận dụng KTQT vào các doanh nghiệp chưa
được tổ chức thực hiện theo đúng với vị trí và vai trò của nó. Những nguyên nhân
có thể là:
- Trong tư duy và nhận thức của các nhà quản lý, các chuyên gia kế toán thì
KTQT chưa thực sự được coi là một môn khoa học. Mặc dù KTQT đã có đối tượng
nghiên cứu, nội dung và phương pháp luận riêng đã được nhiều quốc gia trên thế
giới công nhận. Tuy nhiên phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý
và cán bộ kế toán lại được đào tạo trong thời kỳ bao cấp, nên chưa nắm vững kiến
thức kinh tế thị trường, các quy luật riêng có cùng những thức, cách thức, cơ chế
quản lý nền kinh tế đó.
- Hệ thống kế toán đã được cải cách một cách căn bản song Chính phủ chưa
ban hành và tạo dựng một môi trường pháp lý về KTQT như ban hành các văn bản
hướng dẫn cho các doanh nghiệp, mở lớp đào tạo, phổ biến kiến thức về KTQT.
Hơn nữa hệ thống kế toán hiện nay mang tính hỗn hợp giữa kế toán tài chính và
KTQT, chưa có sự hướng dẫn vận dụng và tổ chức thực hiện KTQT ở các doanh
nghiệp.
- Hiện nay các doanh nghiệp chưa nhận thức thực sự đúng đắn vị trí, vai trò
quan trọng của KTQT trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin cho việc ra
các quyết định kinh tế. Đối với nhiều nhà quản trị .
Khái niệm: "KTQT" thật xa lạ và hoàn toàn mới mẻ. Đây là hạn chế chủ yếu
ở tầm nhận thức và tổ chức thức hiện của các nhà quản trị doanh nghiệp.
Từ những nhận định cơ bản trên cho thấy KTQT vẫn chưa có vị thế xứng
đáng với vị trí và vai trò của nó trong quản trị doanh nghiệp. KTQT mới chỉ tồn tại
dưới dạng định nghĩa, khái niệm trong lý luận chứ chưa được vận dụng và tổ chức
thực hiện ở các doanh nghiệp với tư cách là công cụ quản lý kinh tế và cung cấp
thông tin kinh tế. Vì vậy trong phạm vi đề án này em chỉ xin nghiên cứu một phần
rất nhỏ của KTQT là cách phân loại chi phí và vấn đề giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay bằng phương pháp diễn giải.
Bố cục đề án chia làm hai phần:
Phần I: Những lý luận cơ bản về kế toán quản trị chi phí - giá thành tại các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Phần II: Hoàn thiện mô hình kế toán quản trị chi phí - giá thành trong các
doanh nghiệp Việt Nam hoạt động theo cơ chế thị trường.
Phần I:
Những lý luận cơ bản về kế toán quản trị
chi phí - giá thành tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
A. Phân loại chi phí:
Trong kế toán tài chính, chi phí được định nghĩa như là một khoản hao phí
bỏ ra để thu được một số sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Bản chất của chi phí là
phải mất đi để đổi lấy một khoản thu về. Trong KTQT, chi phí được sử dụng trong
nhiều trường hợp khác nhau, do đó có rất nhiều loại chi phí và những chi phí này
được sắp xếp, phân loại theo nhiều tiêu thức, tuỳ theo nhu cầu thông tin cần cho
việc ra quyết định. Vì vậy trong KTQT cần nghiên cứu kỹ cách phân loại chi phí.
1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động:
1.1. Mục đích của việc phân loại chi phí theo chức năng hoạt động:
+ Xác định rõ vai trò, chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh.
+ Cung cấp thông tin có hệ thống cho việc lập các báo cáo tài chính.
1.2. Theo chức năng hoạt động, chi phí được phân thành:
+ Chi phí sản xuất.
+ Chi phí ngoài sản xuất.
a. Chi phí sản xuất:
Là toàn bộ chi phí có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm cho một kỳ nhất
định, chi phí sản xuất gồm 3 khoản mục chi phí sau:
* Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
* Chi phí lao động trực tiếp.
* Chi phí sản xuất chung.
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (nguyên vật liệu chính):
Là chi phí của những loại nguyên vật liệu cấu thành thực thể của sản phẩm,
có giá trị lớn và có thể xác định được một cách tách biệt, rõ ràng và cụ thể cho từng
sản phẩm. Nguyên vật liệu trực tiếp dễ nhận diện trong sản phẩm vì nó tượng trưng
cho đặc tính dễ thấy nhất của cái gì đã được sản xuất.
Ví dụ: Gỗ tấm để làm tủ.
Số mét vải để may áo
+ Chi phí lao động trực tiếp:
Là chi phí tiền lương của những lao động trực tiếp chế tạo sản phẩm. Khả
năng và kỹ năng của lao động trực tiếp có ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng
sản phẩm tạo ra. Thông thường những lao động này trực tiếp xử lý nguyên vật liệu
trực tiếp bằng tay hoặc thông qua việc sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc máy móc
thiết bị.
Chi phí lao động trực tiếp giống như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là có
thể xác định rõ ràng cụ thể và tách biệt cho từng đơn vị sản phẩm nên được tính
thẳng vào từng đơn vị sản phẩm.
Ngoài ra chi phí lao động trực tiếp còn bao gồm các khoản trích BHXH,
BHYT và KPCĐ, nếu trích và chi cho lao động trực tiếp.
+ Chi phí sản xuất chung:
Định nghĩa: Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết khác để sản
xuất sản phẩm ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí lao động trực tiếp.
Chi phí sản xuất chung chủ yếu bao gồm các loại chi phí như sau:
. Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp:
Là những yếu tố vật chất không tạo nên thành phần chính của sản phẩm, nếu
có thì chúng cũng không phải là chi phí nguyên vật liệu quan trọng như keo dán
mica của tủ mica, đinh, ốc, vít hay nhiên liệu sử dụng cho quá trình sản xuất như
than, điện
. Chi phí lao động gián tiếp:
Là các chi phí tiền lương của tất cả các lao động gián tiếp bao gồm: đốc
công, nhân viên kỹ thuật phân xưởng; thợ sửa chữa, bảo trì máy móc dùng trong
quá trình sản xuất sản phẩm. Ngoài ra còn bao gồm:
. Chi phí của thời gian ngừng sản xuất: Phản ánh chi phí thanh toán cho lao
động trực tiếp về những khoảng thời gian ngừng sản xuất vì máy hỏng, cung cấp
nguyên vật liệu không kịp thời, mất điện hay vì lý do nào khác ngoài ý muốn chủ
quan của người lao động.
. Chi phí phụ trội: Phản ánh chi phí thanh toán cho lao động trực tiếp về
khoảng thời gian làm thêm giờ, thêm ca trong điều kiện lao động bình thường, bù
đắp thời gian ngừng sản xuất.
. Chi phí phúc lợi lao động: Gồm các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính
là chi cho lao động gián tiếp.
. Chi phí phân xưởng khác: Gồm các chi phí cần thiết để vận hành phân
xưởng như chi phí thuê nhà, khấu hao máy móc, thiết bị, chi phí điện nước, chi phí
động lực, bảo hiểm chống cháy
Đặc điểm của chi phí sản xuất chung.
1. Bao gồm nhiều khoản mục chi phí khác nhau.
2. Các khoản mục chi phí sản xuất chung đều có tính gián tiếp đối với từng
đơn vị sản phẩm nên không thể tính thẳng vào sản phẩm.
3. Cơ cấu chi phí sản xuất chung gồm cả biến phí, định phí và chi phí hỗn
hợp trong đó định phí chiếm tỷ lệ cao nhất.
4. Do gồm nhiều khoản mục chi phí nên chúng được nhiều bộ phận khác
nhau quản lý và rất khó kiểm soát.
Do đặc điểm không thể tính trực tiếp vào sản phẩm nên chúng sẽ được tính
vào sản phẩm thông qua việc phân bổ theo các tiêu thức thích hợp.
b. Chi phí ngoài sản xuất: gồm 2 loại:
- Chi phí bán hàng và tiếp thị: Bao gồm toàn bộ chi phí cần thiết để đẩy
mạnh quá trình lưu thông hàng hoá và để đảm bảo cho việc đưa hàng hoá đến tay
người tiêu dùng.
Chi phí bán hàng và tiếp thị gồm những khoản chi phí như chi phí tiếp thị,
chi phí khuyến mãi, quảng cáo, đóng gói sản phẩm, vận chuyển bốc dỡ, lương nhân
viên bán hàng, tiền hoa hồng bán hàng của các doanh nghiệp sản xuất hoặc doanh
nghiệp thương mại dịch vụ.
- Chi phí quản lý bao gồm những khoản chi phí liên quan đến việc tổ chức
hành chính và các hoạt động văn phòng làm việc của doanh nghiệp.
Chi phí quản lý gồm những khoản chi như: lương cán bộ quản lý và nhân
viên văn phòng, chi phí văn phòng phẩm
1.3. Chi phí thời kỳ và chi phí sản phẩm:
Ngoài việc phân loại chi phí thành chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất
trong KTQT, chi phí còn được phân thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
a. Chi phí thời kỳ:
Bao gồm những khoản chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán. Vì thế chi phí
thời kỳ là những chi phí trực tiếp làm giảm lợi tức trong kỳ chúng phát sinh.
Chi phí thời kỳ không phải là những khoản chi phí tạo thành thực thế của sản
phẩm hay nằm trong các yếu tố cấu thành giá vốn hàng hoá mua vào, mà là những
khoản chi phí hoàn toàn tách biệt với quá trình sản xuất sản phẩm hoặc mua vào
hàng hoá.
Vì vậy chi phí thời kỳ bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý hành
chính.
b. Chi phí sản phẩm:
Bao gồm các chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc mua
vào để bán lại. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản phẩm gồm chi phí
nguyên liệu trực tiếp, lao động trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Vì vậy chi phí
sản phẩm luôn gắn liền với sản phẩm và chỉ được thu hồi khi sản phẩm tiêu thụ còn
khi chưa được tiêu thụ thì chúng được nằm trong sản phẩm tồn kho.
Chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ khác nhau ở chỗ: chi phí thời kỳ phát
sinh ở thời kỳ nào tính ngay vào thời kỳ đó, do đó chúng ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh. Các nhà quản trị rất khó kiểm soát chi phí
thời kỳ nếu để những chi phí này phát sinh quá mức cần thiết.
Chi phí sản phẩm cũng ảnh hưởng đến lợi tức của doanh nghiệp. Nếu không
tính đúng chi phí sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến nhiều kỳ vì sản phẩm có thể được sản
xuất ra ở kỳ này nhưng lại được tiêu thụ ở kỳ khác.
2. Phân loại chi phí theo cách ứng xừ của chi phí.
2.1. Mục đích của cách phân loại chi phí này:
Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch kiểm tra và chủ động điều
tiết chi phí cho phù hợp.
2.2. Theo cách phân loại này chi phí được phân thành biến phí, định phí
và chi phí hỗn hợp:
a. Biến phí (chi phí biến đổi).
- Định nghĩa: Biến phí là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận
với biến động về mức độ hoạt động.
- Đặc điểm:
+ Tổng các biến phí thay đổi khi sản lượng thay đổi.
+ Biến phí đơn vị giữ nguyên không đổi khi sản lượng thay đổi.
- Biến khí thường gồm các khoản chi phí như:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
+ Chi phí lao động trực tiếp
+ Chi phí bao bì đóng gói.
+ Giá vốn của hàng hoá mua vào để bán.
+ Hoa hồng bán hàng.
- Biến phí chia làm 2 loại:
+ Biến phí tỷ lệ: Là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận trực tiếp với
biến động của mức độ hoạt động, căn cứ như chi phí lao động trực tiếp
+ Biến phí cấp bậc: Là những khoản chi phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt
động thay đổi nhiều và rõ ràng. Biến phí loại này không đổi khi mức độ hoạt động,
căn cứ thay đổi ít. Biến phí cấp bậc gồm những khoản chi phí như chi phí lao động
gián tiếp, chi phí bảo trì.
Hoạt động căn cứ là các căn cứ mà được xem là nguyên nhân phát sinh chi
phí. Các hoạt động căn cứ thường được dùng gồm:
+ Sản lượng sản xuất.
+ Số giờ - máy hoạt động.
+ Số giờ - lao động trực tiếp.
+ Số Km vận chuyển.
+ Mức tiêu thụ sản phẩm.
+ Số lượng giường bệnh.
+ Số phòng phục vụ
b. Định phí (chi phí cố định):
- Định nghĩa: Định phí là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ
hoạt động ít. Định phí chỉ giữ nguyên trong phạm vi phù hợp của doanh nghiệp.
Phạm vi phù hợp là phạm vi giữa khối lượng sản phẩm tối thiểu và khối lượng sản
phẩm tối đa mà doanh nghiệp dự định sản xuất.
- Đặc điểm:
+ Tổng định phí giữ nguyên khi sản lượng thay đổi trong phạm vi phù hợp.
+ Định phí trên 1 đơn vị sản phẩm thay đổi khi sản lượng thay đổi.
- Trong các yếu tố của chi phí sản xuất, chỉ có một số yếu tố của CPSXC là
được xếp vào loại định phí:
+ Chi phí thuê nhà xưởng.
+ Chi phí khấu hao nhà xưởng.
+ Chi phí khấu hao máy móc thiết bị sử dụng trong phân xưởng.
+ Lương nhân viên phân xưởng.
+ Thuế bất động sản của phân xưởng.
+ Chi phí bảo hiểm chống trộm và chống cháy của phân xưởng.
c. Chi phí hỗn hợp:
- Định nghĩa: Chi phí hỗn hợp là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu
tố biến phí lẫn định phí. ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện các
đặc điểm của định phí, quá mức đó nó lại thể hiện đặc tính của biến phí.
Mô hình ứng xử của ba yếu tố của chi phí sản phẩm
Các khoản mục của chi
phí sản phẩm
Mô hình ứng xử
- Nguyên vật liệu
- Lao động trực tiếp
- Sản xuất chung
- Luôn luôn khả biến
- Luôn luôn khả biến
+ Khả biến
+ Cố định
+ Hỗn hợp
Để lập kế hoạch chi phí hỗn hợp cần phải tách chi phí hỗn hợp thành hai bộ
phận: Định phí và biến phí trong chi phí hỗn hợp.
- Các phương pháp tách chi phí hỗn hợp:
+ Phương pháp cực đại - cực tiểu:
Thực chất của phương pháp này là quan sát mức độ hoạt động cao nhất và
thấp nhất của hoạt động trong phạm vi phù hợp. Từ đó bộ phận chi phí khả biến
được xác định như sau:
Chi phí khả biến =
Biến động của chi phí
Biến động của hoạt động
Chi phí bất biến = Tổng chi phí - Chi phí khả biến.
- Ưu điểm của phương pháp: Đơn giản.
- Nhược điểm của phương pháp: Chỉ sử dụng hai điểm để xác định công thức
tính chi phí nên chưa đủ có những kết quả chính xác trong việc phân tích chi phí
hỗn hợp, trừ khi các điểm này xảy ra đúng vị trí để phản ánh đúng mức trung bình
của tất cả các giao điểm của chi phí và các mức độ hoạt động.
+ Phương pháp bình phương nhỏ nhất: Căn cứ trên sự tính toán của phương
trình tuyến tính:
y = a + bx
Trong đó:
y : Biến số phụ thuộc
a: Yếu tố bất biến
b: Tỷ lệ khả biến
x: Biến số độc lập
Từ phương trình này tập hợp n phần tử quan sát ta có hệ phương trình sau:
xy = ax + bx
2
y = na + bx
Với: x: Mức độ hoạt động
y: Chi phí hỗn hợp
a: Chi phí bất biến
b: Tỷ lệ khả biến
n: Số đơn vị quan sát
Ưu điểm của phương pháp: Cho kết quả chính xác.
Nhược điểm của phương pháp: Phức tạp.
3. Phân loại chi phí trong các báo cáo tài chính:
Khi xem xét mối quan hệ của chi phí sản phẩm với các báo cáo tài chính kế
toán ta thấy không thể phân tách được các chức năng ứng xử của chi phí trong từng
chức năng.
Bởi vậy để phục vụ cho mục đích sử dụng nội bộ của người quản lý, việc
phân tích chi phí thành 2 loại.
Bất biến và khả biến là cần thiết.
Báo cáo kết quả kinh doanh lập theo cách ứng xử của chi phí phải thể hiện
được các chỉ tiêu chính sau:
Báo cáo kết quả kinh doanh
1. Doanh thu bán hàng:
Trừ chi phí khả biến:
- Chi phí nguyên vật liệu khả biến.
- Chi phí nhân công khả biến.
- Chi phí sản xuất chung khả biến.
- Chi phí lưu thông khả biến.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp khả biến.
2. Số dư đảm phí:
Trừ chi phí bất biến:
- Chi phí sản xuất chung bất biến.
- Chi phí lưu thông bất biến.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp bất biến.
3. Thu nhập thuần:
(Số dư đảm phí có thể định nghĩa như là số tiền còn lại của doanh thu bán
hàng sau khi đã trừ đi phần chi phí khả biến và được sử dụng để trang trải cho các
chi phí bất biến và sau đó là lợi nhuận trong kỳ).
4. Các cách phân loại chi phí khác nhằm mục đích ra quyết định:
4.1. Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp:
- Chi phí trực tiếp, là chi phí có thể tách biệt, phát sinh một cách riêng biệt
cho một hoạt động cụ thể của doanh nghiệp như một sản phẩm, một phân xưởng sản
xuất, một đại lý.
- Chi phí gián tiếp: là chi phí chung hay chi phí kết hợp, không có liên quan
tới hoạt động cụ thể nào mà liên quan cùng lúc với nhiều hoạt động. Do vậy để xác
định chi phí gián tiếp cho một hoạt động cụ thể phải áp dụng phương pháp phân bổ.
- Trên góc độ quản trị doanh nghiệp thì chi phí trực tiếp thường mang tính
chất có thể tránh được nghĩa là phát sinh và mất đi cùng với sự phát sinh và mất đi
của một hoạt động cụ thể. Còn chi phí gián tiếp mang tính không thể tránh được và
chúng sẽ vẫn tồn tại cho dù một hoặc vài hoạt động trong số các hoạt động mà
chúng phục vụ bị đình chỉ.
4.2. Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được:
Là những khoản mục chi phí phản ánh phạm vi, quyền hạn của các nhà quản
trị các cấp đối với những loại chi phí đó. Các nhà quản trị cấp cao có nhiều quyền
quyết định và kiểm soát chi phí hơn.
Một loại chi phí được xem là chi phí kiểm soát được ở một cấp quản lý nào
đó nếu cấp này có thẩm quyền định ra chi phí đó.
4.3. Chi phí chênh lệch:
- Trước khi ra quyết định, các nhà quản trị thường phải so sánh nhiều
phương án khác nhau và mỗi phương án lại có các loại chi phí riêng, khác nhau cả
về lượng và loại chi phí. Mỗi phương án sẽ có một số chi phí liên quan và chúng
được đem so sánh với chi phí của các phương án khác. Một số chi phí có ở phương
án này nhưng chỉ có một phần hoặc không có ở các phương án khác, các loại chi phí
này gọi là chi phí chênh lệch.
- Chi phí chênh lệch là một khái niệm rộng: bao gồm cả chi phí tăng và chi
phí giảm giữa các phương án khác nhau.
4.4. Chi phí cơ hội:
- Chi phí cơ hội là lợi nhuận tiềm tàng bị mất đi khi chọn phương án hoạt
động này để thay thế một phương án hành động khác. Hành động khác ở đây là
phương án tối ưu nhất có sẵn so với phản ánh đã chọn.
- Chi phí cơ hội không có trên sổ sách kế toán nhưng chi phí này phải được
xem xét một cách rõ ràng dứt khoát trong mọi quyết định của nhà quản lý. Khi bỏ
phương án đang theo thì những điểm tốt có thể bị mất đi cùng các điểm xấu. Điểm
tốt thực của một phương án bị bỏ trở thành chi phí cơ hội của phương án đe doạ.
4.5. Chi phí thích đáng và không thích đáng.
- Chi phí thích đáng là chi phí có thể áp dụng cho 1 quyết định có mối liên hệ
với phương án được chọn của nhà quản lý.
Chi phí thích đáng cho việc ra quyết định là mọi chi phí có thể tránh được,
đó là chi phí có thể hạn chế (toàn bộ hoặc một phần) như là kết quả của sự lựa chọn
giữa 2 phương án. Tuy nhiên chi phí sau không thể tránh được:
+ Chi phí chìm: Là loại chi phí mà doanh nghiệp phải chịu và vẫn sẽ phải
chịu dù doanh nghiệp chọn phương án hoạt động nào.
+ Chi phí tương lai không chênh lệch nhau giữa các phương án. Do đó các
chi phí không tránh được là không thích đáng với quyết định của nhà quản lý.
5. Chuẩn mực kế toán mới về chi phí và KTQT chi phí trong các DNVN
hiện nay theo cơ chế thị trường.
5.1. Chuẩn mực kế toán mới về chi phí sản xuất chung (CPSXC) và việc
xác định, phân bố CPSXC ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Ban hành theo quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ
Trưởng Bộ Tài chính.
- Theo chuẩn mực kế toán mới của Việt Nam.
+ Chi phí sản xuất chung bao gồm:
. CPSXC cố định là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường không thay đổi
theo số lượng sản phẩm sản xuất như chi phí khấu hao, chi phí bảo dưỡng máy móc
thiết bị, nhà xưởng và chi phí quản lý hành chính ở các phân xưởng sản xuất.
. CPSXC biến đổi là những chi phí sản xuất gián tiếp thường thay đổi trực
tiếp hoặc gần như trực tiếp theo số lượng sản phẩm sản xuất như chi phí nguyên liệu
vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp.
+ Phân bổ CPSXC:
. CPSXC cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm
được dựa trên công suất bình thường của máy móc sản xuất. Công suất bình thường
là số lượng sản phẩm đạt được ở mức trung bình trong các điều kiện sản xuất bình
thường.
. Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra cao hơn công suất bình
thường thì CPSXC cố định được phân bố cho mỗi đơn vị sản phẩm theo chi phí
thực tế phát sinh.
. Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra thấp hơn công suất bình
thường là CPSXC cố định chỉ được phân bố vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị
sản phẩm theo công suất bình thường. Khoản CPSXC không được phân bổ được ghi
nhận là chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ mà theo Thông tư số 89 hướng dẫn kế
toán thực hiện (04) chuẩn mực kế toán mới ban hành thì khoản chi phí sản xuất
chung không phân bổ được ghi giảm giá vốn hàng bán:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán
Có TK 627 - CPSXC
. CPSXC biến đổi được phân bổ hết vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản
phẩm theo chi phí thực tế phát sinh.
- Quy định trên của chuẩn mực kế toán có điểm tương đồng với phương pháp
ước tính CPSXC trong KTQT.
+ Trước hết để ước tính được chính xác CPSXC cần ước tính được sản lượng
sản xuất thông qua 2 phương pháp ước tính sản lượng phổ biến sau:
. Sản lượng sản xuất trung bình.
. Sản lượng ước tính hàng năm.
Mức phân bổ CPSXC =
Tổng CPSXC ước tính
Tổng mức hoạt động chung ước tính
Mức phân bổ
ước tính cho từng =
công việc
Mức phân bổ
x
Mức hoạt động
ước tính cho
từng công việc
CPSXC ước tính
+ Hạch toán:
CPSXC thực tế phát sinh được phản ánh vào bên nợ TK "CPSXC".
Bên có tài khoản này phản ánh CPSXC được phân bổ đầu kỳ, đây là số phân
bổ ước tính:
Nợ TK "CPSXKD dở dang"
Có TK "CPSXC"
Cuối kỳ so sánh phát sinh nợ và phát sinh có của tài khoản CPSXC. Số bên
nợ bằng số bên có có nghĩa là số phát sinh thực tế đã phân bổ hết.
Nếu phát sinh nợ > phát sinh có, CPSXC thực tế nhiều hơn CPSXC phân bổ.
Nếu bên nợ < bên có, số phân bổ đã nhiều hơn số CPSXC thực tế phát sinh.
+ Phương pháp giải quyết số phân bổ thừa hoặc thiếu của CPSXC là:
. Nếu mức chênh lệch nhỏ, phân bổ cả mức chênh lệch đó vào TK "giá vốn
hàng bán" của kỳ đó.
. Nếu chênh lệch lớn thì phân bổ số chênh lệch vào các tài khoản:
TK "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang"
TK "Thành phẩm"
TK "Giá vốn hàng bán"
- Qua nghiên cứu quá trình kế toán CPSXC trong phương pháp kế toán chi
phí thông dụng có thể thấy nhờ vào việc ước lượng CPSXC một cách khoa học mà
doanh nghiệp có được những thông tin cần thiết cho dự toán ngân sách, dự kiến giá
bán của sản phẩm ngay từ đầu kỳ sản xuất, đặc biệt là những công việc, hợp đồng
mà doanh nghiệp chỉ có thể dành được bằng cách đấu thầu. Trên giác độ cung cấp
thông tin kịp thời cho quản lý thì phương pháp kế toán chi phí thông dụng tỏ ra tiên
tiến hơn phương pháp kế toán chi phí thực tế đang được áp dụng phổ biến tại nước
ta.
Việc chuẩn mực kế toán mới đưa ra quy định về phân bổ CPSXC có thể tạo
điều kiện cho phương pháp ước tính CPSXC trong KTQT phát triển tại các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay.
5.2. Chuẩn mực kế toán về lập các khoản dự phòng:
Theo quy định chế độ tài chính hiện tại có 4 khoản dự phòng:
. Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn.
. Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn.
. Dự phòng phải thu khó đòi.
. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.
- Việc xác định các khoản dự phòng giống như chuẩn mực kế toán Việt Nam
trước đây. Tuy nhiên việc hoàn nhập các khoản dự phòng theo quy định mới của
chuẩn mực kế toán có ảnh hưởng đến kế toán chi phí của doanh nghiệp.
+ Trước đây trong trường hợp số dự phòng phải lập năm nay nhỏ hơn số dự
phòng đã lập ở cuối niên độ kế toán trước thì số chênh lệch phải được hoàn nhập.
Số chênh lệch này được hạch toán ghi tăng tài khoản thu nhập hoạt động tài chính
đối với khoản dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn và giảm giá đầu tư dài hạn; tài
khoản chi phí quản lý doanh nghiệp đối với dự phòng phải thu khó đòi, dự phòng
giảm giá hàng tồn kho và ghi giảm các tài khoản dự phòng.
+ Theo quy định mới của chuẩn mực kế toán, khi hoàn nhập các khoản dự
phòng sẽ ghi giảm các khoản dự phòng và giảm chi phí.
Các bút toán hoàn nhập dự phòng theo:
Kho
ản dự phòng
Chu
ẩn mực kế toán cũ
Chu
ẩn mực kế toán mới
1. Dự phòng giảm
giá đầu tư ngắn hạn
Nợ TK 129 - Dự phòng giảm
giá đầu tư ngắn hạn
Nợ TK 129
Có TK 635 - Chi phí tài
Có TK 711 - Thu nhập hoạt
động tài chính
chính
2. Dự phòng giảm
giá đầu tư dài hạn
Nợ TK 229 - Dự phòng giảm
giá đầu tư dài hạn
Có TK 711
Nợ TK 229
Có TK 635
3. Dự phòng giảm
giá phải thu khó
đòi
Nợ TK 139 - Dự phòng giảm
giá phải thu khó đòi
Có TK 721 - Thu nhập bất
thường
Nợ TK 139
Có TK 642 - Chi phí quản
lý doanh nghiệp
4. Dự phòng giảm
giá hàng tồn kho
Nợ TK 159 - Dự phòng giảm
giá hàng tồn kho
Có TK 721
Nợ TK 159
Có TK 632 - Giá vốn
hàng bán
Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang hạch toán các khoản dự phòng
theo chuẩn mực kế toán cũ. Việc áp dụng chuẩn mực cũ khiến doanh nghiệp phải
theo dõi khoản dự phòng trên nhiều tài khoản hơn và tăng thêm nhiều bút toán khi
xác định kết quả kinh doanh sau này.
Việc hoàn nhập các khoản dự phòng theo chuẩn mực kế toán mới làm giảm
chi phí thời kỳ của doanh nghiệp. Tuy nhiên sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng theo dõi
các khoản dự phòng. Với những quy định trên của chuẩn mực kế toán mới, có thể
làm cho công tác xác định chi phí của doanh nghiệp chặt chẽ hơn.
b. Kế toán quản trị giá thành sản phẩm:
- Định nghĩa: Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thể hiện
kết quả tiêu hao đến các khoản chi phí liên quan đến sản phẩm đó.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng
giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn
để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp.
Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực
của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác
có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
- Phân loại giá thành:
+ Phân theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá trị.
. Giá thành kế hoạch: Là do phòng kế hoạch của doanh nghiệp xây dựng căn
cứ vào giá thành thực tế kỳ trước hoặc định mức tiêu hao các khoản chi phí kế
hoạch để xây dựng.
Giá thành kế hoạch có tác dụng dùng để phân tích tình hình hoàn thành kế
hoạch của doanh nghiệp, tình hình tiết kiệm chi phí:
. Giá thành định mức: thường do phòng kỹ thuật kết hợp với phòng kế
hoạch, thông qua sản xuất thử hoặc các định mức tiêu hao về chi phí để xây dựng.
Giá thành định mức có tác dụng để phân tích tình hình tiết kiệm chi phí theo định
mức từ đó đưa ra các định mức mới và tiên tiến hơn phù hợp với doanh nghiệp.
. Giá thành thực tế hay còn gọi là giá thành sản xuất là do các thông tin kế
toán cung cấp để xác định.
+ Căn cứ vào phạm vi phát sinh của các khoản chi phí giá thành sản phẩm
chia thành 2 loại:
. Giá thành phân xưởng: Chỉ bao gồm các khoản chi phí phát sinh ở phạm vi
phân xưởng.
. Giá thành toàn bộ: Bao gồm các khoản chi phí phát sinh ở phạm vi doanh
nghiệp.
Giá thành
toàn bộ của
sản phẩm
=
Giá thành sản
xuất của sản
phẩm
+
Chi phí quản
lý doanh
nghiệp
+
Chi phí
bán hàng
- Đối tượng tính giá thành:
Về thực chất, xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định sản
phẩm, bán thành phẩm, công việc lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một
đơn vị. Đối tượng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang
trên dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ
sản phẩm.
- Các phương pháp tính giá thành sản phẩm:
+ Phương pháp giá thành giản đơn:
. Theo phương pháp này chi phí sản xuất được tập hợp theo 3 khoản mục:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí sản xuất chung.
. Cuối kỳ kế toán xác định chi phí sản xuất kinh doanh dở dang theo một
trong các phương pháp tuỳ chọn đó, để tính tổng giá thành và giá thành 01 đơn vị
sản phẩm.
. Phương pháp này áp dụng ở các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản
xuất đơn giản, sản phẩm sản xuất thường đơn chiếc.
+ Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng.
Theo phương pháp này toàn bộ chi phí sản xuất được hạch toán theo từng
đơn đặt hàng. Mỗi đơn đặt hàng tương ứng là một hợp đồng kinh tế.
Cuối kỳ đơn đặt hàng hoàn thành thì tổng giá thành của đơn chính là toàn bộ
các khoản chi phí sản xuất được hạch toán theo đơn. Trường hợp cuối kỳ đơn đặt
hàng chưa hoàn thành thì các khoản chi phí hạch toán theo đơn được coi là chi phí
sản xuất dở dang.
Phương pháp này được áp dụng ở các doanh nghiệp làm nhiệm vụ sửa chữa,
lắp đặt, thiết kế các dịch vụ theo hợp đồng kinh tế.
+ Phương pháp tính gia thành theo hệ số:
. Phương pháp này chi phí sản xuất được tập hợp theo từng nhóm sản phẩm
cuối kỳ kế toán xác định tổng giá thành của cả nhóm sản phẩm. Từ đó kế toán tính
tổng sản phẩm chuẩn của nhóm (thông thường sản phẩm chuẩn có hệ số = 1), từ đó
tính giá thành của một sản phẩm chuẩn.
Từ giá thành của sản phẩm chuẩn xác định được giá trị của các sản phẩm
theo yêu cầu.
. Phương pháp này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp sản xuất ra các
sản phẩm cùng tiêu hao các khoản chi phí có cùng công dụng chỉ khác nhau về kích
cỡ, khối lượng sản phẩm.
+ Phương pháp tính giá thành theo giá thành kế hoạch hay theo giá thành
định mức:
. Theo phương pháp này giá thành sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ được
tạm tính theo giá thành kế hoạch, giá thành định mức đã xây dựng.
. Cuối kỳ căn cứ vào tổng giá thành thực tế, tổng giá thành thực tế, tổng giá
thành kế hoạch hay định mức kế toán xác định hệ số điều chỉnh z:
Hệ số điều chỉnh Z
Tổng giá thành thực tế
Tổng giá thành khấu hao (định mức)
Giá thành thực tế
của sản phẩm
=
Giá thành khấu hao
(định mức)
x
Hệ số điều chỉnh
Z
. Phương pháp này thường áp dụng đối với các doanh nghiệp sản xuất ra
những sản phẩm hàng loạt, sản phẩm được xây dựng giá thành khấu hao từ trước.
+ Phương pháp tính giá thành phân bước:
Phương pháp này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có quy trình
công nghệ sản xuất phức tạp được chia thành nhiều bước (mỗi bước tương đương
một phân xưởng). Do vậy việc hạch toán chi phí sản xuất có thể tiến hành tại các
phân xưởng và việc tính giá thành của sản phẩm có thể thông qua tính giá thành bán
thành phẩm ở các phân xưởng và thành phẩm ở phân xưởng cuối cùng tuỳ theo yêu
cầu của doanh nghiệp.
- Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Về thực chất chi phí và giá thành là hai mặt khác nhau của quá trình sản
xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản
ánh mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ,
kỳ trước chuyển sang) và các chi phí tính trước có liên quan đến khối lượng sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoànm thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản
phẩm.
Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản
chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng
công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ.
Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ B Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ D
A Tổng giá thành sản phẩm C Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
AC = AB + BD - CD
Tổng giá
thành sản
phẩm
=
Chi phí sản
xuất dở dang
đầu kỳ
+
Chi phí phát
sinh trong kỳ
-
Chi phí sản
xuất dở dang
cuối kỳ
- Trong KTQT doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp tính giá thành
sản phẩm như trên tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện của doanh nghiệp mình.
Tuy nhiên việc tính giá thành sản phẩm phải tuân theo các nguyên tắc kế
toán được thừa nhận và những quy định chung của chế độ kế toán hiện hành.
Để đảm bảo tính đúng đắn, hợp lý của số liệu trên báo cáo tài chính cần phải
lựa chọn tiêu thức phân bố chi phí gián tiếp hợp lý, nhất quán giữa các kỳ khi sử
dụng phương pháp tính giá thành theo khoản mục.
c. Một số ví dụ cho thấy tầm quan trọng của việc phân loại chi phí và việc phân
bổ chi phí gián tiếp để tính giá thành sản phẩm:
- KTQT phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí thành biến phí, định
phí và chi phí hỗn hợp. KTTC không phân chia chi phí theo tiêu thức này nhưng nó
lại rất cần thiết cho KTQT, giúp nhà quản trị có cách nhìn nhận chi phí, sản lượng
và lợi nhuận để có quyết định quản lý phù hợp về số lượng chi phí sản xuất và tiêu
thụ, về giá bán sản phẩm trong từng giai đoạn cụ thể, về việc nhận đơn đặt hàng
Ví dụ: Trong trường hợp doanh nghiệp không sử dụng hết công suất máy
móc thiết bị hiện có nhưng không thể tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ nếu giữ
nguyên giá bán hiện taị, nếu có đơn đặt hàng đột xuất, không ảnh hưởng tới khách
hàng khác, không làm mất khách hàng tương lai thì ta có thể nhận đơn đặt hàng với
giá thấp hơn hiện tại vì ta không thể cắt giảm đầu tư trong trước mắt. Khi sản phẩm
tiêu thụ tăng lên thì chi phí cố định bình quân một đơn vị sản phẩm sẽ giảm, như
vậy sẽ làm tăng lợi nhuận tiêu thụ của sản phẩm khác, tăng trong lợi nhuận tiêu thụ
sản phẩm.
- Để lựa chọn phương án phù hợp, KTQT còn xem xét đến chi phí cơ hội. Ví
dụ DN sản xuất chi tiết A với giá phí đơn vị 2000đ, có thể mua ngoài 2.200đ. Nếu
Dn không sản xuất chi tiết A có thể nhận gia công chi tiết A cho doanh nghiệp khác
với số lãi 400đ/1 đơn vị. Chi phí cơ hội là 400đ cho sản xuất 1 chi tiết A. Như vậy
nếu tính đến chi phí cơ hội thì giá phí đơn vị của chi tiết A do DN sản xuất là
2400đ, trong khi mua ngoài là 2.200đ. Doanh nghiệp có thể lựa chọn mua ngoài thì
sẽ có lợi hơn. Khi đầu tư chi phí nếu không có phản ánh nào khác thì chi phí cơ hội
sẽ là tiền lãi doanh nghiệp được hướng nếu gửi khoản tiền đó vào ngân hàng.
- Ngoài ra để đưa ra quy định chính xác nhà giá trị còn phải chù y các loại
chi phí như chi phí chìm, chi phí kiểm soát được và không kiểm soát được tuỳ theo
yêu cầu quản lý của doanh nghiệp mình.
Do vậy KTQT cần theo dõi chi phí theo đối tương. Chi tiết đến mức độ nào
là tuỳ thuộ vào yêu cầu quản lý. Có thể không nhất thiết phải theo dõi mọi sản
phẩm, công việc nếu xét thấy không cần thiết hoặc không hiệu quả nhưng có loại
sản phẩm, công việc chủ yếu lại phải theo dõi chi tiết đến từng loại chi phí, từng nơi
phát sinh, từng người chịu trách nhiệm về chi phí một cách thường xuyên để có cơ
sở đưa ra quyết định quản lý đúng đắn.
- Ví dụ về việc lựa chọn tiêu thức phân bố chi phí sản xuất chung được tính
giá thành sản phẩm:
Trong kỳ việc tiêu thụ sản phẩm A đang gặp nhiều khó khăn trên thị trường
(sản phẩm A có tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu trực tiép cao, tỷ trọng chi phí nhân
công trực tiếp thấp) trong khi sản phẩm B tiêu thụ rất nhanh và được ưa chuộng (sản
phẩm B có tỷ trọng nguyên vật liệu thấp hơn sản phẩm A và tỷ trọng chi phí nhân
công trực tiếp cao hơn). Nếu doanh nghiệp đang áp dụng việc phân bố chi phí gián
tiếp nguyên vật liệu trực tiếp thì có thể thay đổi tiêu thức phân bổ là chi phí nhân
công trực tiếp hay kết hợp hai tiêu thức thì giá trị sản phẩm A giảm, giá thành sản
phẩm B tăng từ đó sẽ dễ dàng định giá bán cho sản phẩm A phù hợp để khuyến
khích tiêu thụ sản phẩm A cũng như đảm bảo tăng cường hạch toán kinh tế nội bộ.
Phần II:
Hoàn thiện mô hình kế toán quản trị
chi phí - giá thành trong các doanh nghiệp Việt Nam
hoạt động theo cơ chế thị trường.
1. Thực tế công tác KTQT chi phí giá thành tại các DNVN hiện nay:
- Về phân loại chi phí:
Nhìn chung cách phân loại chi phí theo chức năng hoạt động ở các doanh
nghiệp tương đối tốt. Còn đối với cách phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi
phí và các cách phân loại chi phí khác hầu hết chưa được các doanh nghiệp quan
tâm đúng mức.
- Về phương pháp xác định chi phí: Nhìn chung theo các phương pháp xác
định giá thành cơ bản được các doanh nghiệp sử dụng thì chi phí gồm 03 yếu tố là:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
+ Chi phí nhân công trực tiếp.
+ Chi phí sản xuất chung.
Theo đúng nguyên tắc quy định.
Nhưng đối với chi phí sản xuất chính thì phải phân bố và có nhiều doanh
nghiệp chỉ chọn một tiêu thức duy nhất để phân bổ. Việc lựa chọn một tiêu thức để
phân bố chi phí sản xuất chung nhất là ở doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm
khác nhau sẽ làm cho giá thành sản xuất không chính xác. Vì chi phí sản xuất chung
gồm nhiều khoản mục chi phí chịu tác động ảnh hưởng của nhiều hoạt động khác
nhau và bản thân chi phí sản xuất chung lại bao gồm cả yếu tố định phí và biến phí.
Do vậy, nếu chỉ lấy một tiêu thức đại diện để phân bổ chi phí sản xuất chung thì sẽ
không phản ánh chính xác CPSXC trong từng sản phẩm sản xuất.
Việc phân thành biến phí và định phí để xây dựng công thức dự tính chi phí
khi mức độ hoạt động thay đổi cũng không được các DN quan tâm. Thế nhưng đây
lại là vấn đề ứng xử của chi phí với biến động của hoạt động SX kinh doanh trên thị
trường, rất cần thiết cho hoạt động quản trị.
-Vì xây dựng các định mức chi phí:
Để có đựơc căn cứ làm cơ sở dự toán và tiêu chuẩn kiểm tra đánh giá kết quả
kinh doanh thì việc xây dựng các định mức chi phí là rất cần thiết với doanh nghiệp.
Trên thực tế có rất ít DN có một hệ thống chi phí tiêu chuẩn hoàn thiện, vì vậy nếu
DN muốn lập dự toán để cung cấp thông tin cho việc xây dựng kế hoạch hay kiểm
tra, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh sẽ không có căn cứ vững chắc.
Các vấn đề thuộc về tổ chức theo dõi và sử lý thông tin của kế toán theo góc
độ của quản trị như:
+ Đặt chi phí trong mối quan hệ doanh thu và lợi tức để ra các quyết định.
+ Định hướng thông tin thích hợp và loại trừ thông tin không thích hợp giữa
các phương án để lựa chọn ra quyết định.
+ Vốn để hạch toán chi phí trực tiếp theo từng bộ phận kinh doanh để lập báo
cáo bộ phận nhằm đánh giá trách nhiệm thực hiện của từng bộ phận quản trị.
+ Việc phân tích điểm hoà vốn, đánh giá hoàn vốn đầu tư và các quyết định
về giá bán sản phẩm
Các vấn đề trên hiện nay ở các doanh nghiệp chưa được quan tâm một cách
đầy đủ. Nếu có quan tâm cũng chỉ dừng lại ở khái niệm chung còn về phương pháp
xử lý thông tin thì hầu như chưa nắm chắc.
- Về công tác tính giá.
Thực tế hầu hết các doanh nghiệp chưa sử dụng linh hoạt các phương pháp
tính giá phù hợp cũng như sử dụng những chỉ tiêu giá thành sản phẩm một cách hợp
lý và linh hoạt như các chỉ tiêu gía thành theo biến phí, giá thành theo biến phí có
phân bổ hợp lý chi phí cố định.
Một số doanh nghiệp nếu như có đề cập khi lập phương án cung cấp thông
tin cho lãnh đạo doanh nghiệp thì lại chỉ được thực hiện ở các bộ phận chức năng
khác như bộ phận kế hoạch, bộ phận kinh doanh bộ phận đầu tư phát triển sản
xuất
- Việc thiết lập hệ thống thông tin một số doanh nghiệp. Thực tế cho thấy hệ
thống thông tin nộ bộ ở các doamh mghiệp hiện nay chưa đảm bảo tính thống nhất