Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

LUẬN VĂN: Tác động của toàn cầu hoá kinh tế đối với sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới và của Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.69 KB, 15 trang )









LUẬN VĂN:

Tác động của toàn cầu hoá kinh tế đối
với sự phát triển kinh tế của các nước
trên thế giới và của Việt Nam








Lời nói đầu


Toàn cầu hóa là một từ thông dụng và đối với nhiều người nó liên
quan tới nỗi sợ hãi do sự thất nghiệp và mất cân đối ngày càng tăng trên
phạm vi quốc gia và quốc tế. Ngược lại, những người khác nhìn nhận toàn
cầu hoá tạo ra cơ hội mang lại sự tiến bộ cho loài người trên toàn thế
giới. Như vậy, đánh giá toàn cầu hoá trải rộng trên sự đa dạng tư duy giữa
địa ngục và thiên đường. Không thể phủ nhận được rằng toàn cầu hoá trải
dài trên tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Tất cả các định nghĩa đều có


điểm chung là nhấn mạnh sự quốc tế hoá cao độ về kinh tế. Toàn cầu hoá
nghĩa là sự phân công lao động ngày càng mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế
giới, thể hiện qua sự phân chia các quá trình sản xuất thành nhiều bậc tại
các địa điểm khác nhau. Điều này thể hiện trước hết trong sự tăng trưởng
nhanh chóng của việc kinh doanh hàng hoá quốc tế, đầu tư nước ngoài
trực tiếp cũng như trong sự hoà nhập của các thị trường vốn dẫn tới sự
phụ thuộc ngày càng tăng của các thị trường và quá trình sản xuất ở các
nước khác nhau.














Tác động của toàn cầu hoá kinh tế đối với sự phát triển kinh tế của
các nước trên thế giới và của Việt Nam
* Những tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế:
Toàn cầu hoá kinh tế, là kết quả của sự phát triển vượt bậc của lực
lượng sản xuất lượng sản xuất, và đến lượt nó, lại tác động trở lại thúc
đẩy sự phá, tài chính, dịch vụ, lao động… giữa các quốc gia được kết nối
với nhau, tạo nên những dòng chảy vốn, hàng hoá, dịch vụ, lao động, công
nghệ ngàycàng tự do trong phạm vi khu vực và toàn cầu, hỗ trợ cho mọi

quốc gia tham gia toàn cầu hoá tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội
một cách nhanh chóng hơn.
Đó là tác động tích cực mang tính tổng quát nhất của
toàn cầu hoá kinh tế, mà thể hiện nổi trội và dễ nhận thấy nhất là t ăng
trưởng và giảm thiểu đói nghèo. Điều này thể hiện đặc biệt rõ đối với các
nước đang phát triển chủ động tham gia toàn cầu hoá có chính sách đúng
đắn và lựa chọn các bước đi thích hợp trong quá trình hội nhập kinh tế.
Nhiều nước Đông Bắc A và Đông Nam A đã tao nên những thần kỳ phát
triển kinh tế, góp phần tăng trưởng và giảm thiểu đói nghèo một cách rõ
rệt. Nhìn chung các nước đang phát triển tham gia mạnh mẽ toàn cầu hoá
đã tăng được tỷ lệ tăng trưởng trên đầu người từ 1% vào thập kỷ 60 lên
3% vào thập kỷ 70, 4% thập kỷ 80 và 5% vào thập kỷ 90.
biểu đồ.
Một nghịch lý thường thấy là tăng trưởng trong điều kiện hội nhập toàn
cầu thường đi kèm với tình trạng bất bình đẳng tăng lên, song tỷ lệ đói
nghèo lại giảm mạnh,
Ví dụ: O Trung Quốc, tăng trưởng cao một mặt làm gia tăng sự bất bình
đẳng, mặt khác lại làm giảm tình trạng đói nghèo nhanh hơn.
Nếu năm 1978, số người nghèo ở nông thôn Trung Quốc là 250 triệu
người, thì đến năm 1999 giảm xuống còn 34 triệu người.
Anh hưởng của toàn cầu hoá kinh tế đối với nền kinh tế các nước thông
qua tác động chủ yếu sau:


Thứ nhất, toàn cầu hoá kinh tế tạo lợi thế so sánh cho các quốc gia
tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phân công lao động quốc tế
theo chiều sâu và thị trường liên kết khu vực và theo các tầng nấc khác
nhau thích hợp với trình độ công nghệ, lao động, truyền thống của từng
quốc gia. Đối với những nước phát triển cao, sản xuất trước hết và chủ
yếu tập trung vào những sản phẩm trí tuệ như chế tạo máy tinh xảo, công

nghệ cao… Đó là lợi thế của họ. Ngược lại, các nước đang phát triển có
lợi thế về lao động rẻ, tài nguyên dồi dào, họ có thể tham gia vào tầng
thấp và trung bình của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới với một cơ
cấu kinh tế quốc gia phù hợp , với các ngành sử dụng nhiều lao động , cần
ít vốn đầu tư, công nghệ trung bình tiên tiến tạo ra những hàng hoá, dịch
vụ không thể thiếu đối với thị trường các nước khác.
Phát huy tối đa lợi thế so sánh trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế
nhằm tận dụng tự do hoá thương mại, đầu tư, thị trường vốn, tranh thủ
công nghệ và kỹ năng quản lý.
Thứ hai, tự do thương mại toàn cầu đem lại cơ hội cho các
quốc gia, dân tộc, được hưởng thụ những sản phẩm hàng hoá va dịch vụ
của nước khác, dân tộc khác tạo ra. Trong thời kỳ từ năm 1983 đến nă m
1995, thương mại toàn cầu đã tăng bình quân 7%/ năm. Với các nước đang
phát triển tỷ trọng mậu dịch thế giới trong tổng kim ngạch mậu dịch to àn
cầu cũng ngày càng tăng ( năm 1985: 23%, năm 1997:30% ), tỷ trọng hàng
công nghiệp trong cơ cấu hàng xuất khẩu gia tăng nhanh chóng, từ 47%
năm 1985 tăng lên 70% năm 1998. Các nước này đang nắm giữ khoảng
25% lượng hàng công nghiệp xuất khẩu trên thế giới.
Ngày nay tại thị trường Mỹ, EU hay Nhật Bản, khách hàng có
thể tìm thấy những hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam hay Trung Quốc
như hàng nông, hải sản, thủ công mỹ nghệ…. và ngược lại trên thị trường
Việt Nam hay Trung Quốc hay một nơi nào khác trên thế giới, người ta có
thể mua mặt hàng cao của ba trung tâm kinh tế quốc tế nêu trên: từ ô tô,


máy tính, các thiết bị hiện đại cho nền kinh tế và những đồ da dụng cao
cấp khác.
Tự do hoá thương mại toàn cầu từng bước tạo ra một thứ " văn
hoá tiêu dùng " toàn cầu, mà theo đo không gian được thu hẹp và dương
như các biên giới quốc gia ít còn hiện diện.

Thứ ba, tự do hoá thị trường tài chính toàn cầu gắn liền với tự
do hoá đầu tư mở cửa cho các dòng vốn lưu chuyển một cách tự do từ
quốc gia này tới quốc gia khác. Việc tự do hoá thị trường tài chính tạo
tiền đề cần thiết cho sự hội nhập các thị trường tài chính quốc tế. Nhờ vậy
đã tạo điều kiện cho các nguồn vốn lớn chảy vào các nền kinh tế, đồng
thời cũng làm tăng tốc độ và quy mô giao dịch tài chính toàn cầu lên mức
chưa từng có.
Theo số liệu thống kê của UNCTAD, nếu năm 1967 tổng mứ
đầu tư nước ngoài mới chỉ đạt trên 112 tỷ USD, thì năm 1983 đã tăng lên
600 tỷ USD. năm 1990: 1.700 tỷ USD và năm 1999 đã đạt mứ trên 4000 tỷ
USD.
Theo báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD, năm 1996 các
nước đang phát triển tiếp nhận 129 tỷ USD FDI, đến năm 1999 tăng lên
198 tỷ USD, trong đó có 97 tỷ USD vào Mỹ La Tinh và 91 tỷ USD vào
Châu A. Theo số liệu thống kê của IMF, năm 1997, đầu tư ròng trực tiếp
của nước ngoài vào các nước đang phát triển tăng lên 12 lần so với năm
1998. Năm 1987, các nước đang phát triển thu hút tới 37% lượng vốn FDI
toàn thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông A. Dòng vốn này
đã tăng hơn 12 lần trong vòng 12 năm, từ năm 1986 đến năm 1998. Theo
số liệu thống kê, năm 1997, các công ty xuyên quốc gia trên thế giới đã
thực hiện 424 tỷ USD, năm 1999, tổng lượng FDI toàn cầu là 644 tỷ USD,
trong đó các công ty xuyên quốc gia chiếm 441 tỷ USD.
Sự di chuyển tự do các dòng vốn lớn và tự do đầu tư đã
góp phần thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế của các nước tham gia toàn
cầu hoá kinh tế và có chính sách, bước đi đúng đắn. Tăng trưởng GDP của


nhiều nước đạt mức cao hơn trong nhiêu năm liền, nhiều ngành nghề sản
xuất kinh doanh hiện đại ra đời, hình thành những ngành nghề kinh tế mũi
nhọn đối với các nước nhận đầu tư: điện tử, viễn thông, dầu khí… xuất

khẩu tăng rất nhanh, trong đó các nước Đoong Nam A là một ví dụ điển
hình. Trong thời kỳ từ năm 1986 đến năm 1997, xuất khẩu của các nước
này đã tăng gần 5 lần.Tỷ trọng xuất khảu của Đông A trong xuất khẩu
toàn thế giới tăng từ 9% năm 1985 lến tới gần 18% năm 1997.
Thứ tư tạo điều kiện để các nước tiếp cận với khoa học kỹ
thuật hiện đại và đổi mới công nghệ.Toàn cầu hoá kinh tế tác động tích
cực đến việc thay thế và đổi mới công nghệ, thông qua các hoạt động
chuyển giao và tiếp nhận, giúp cho các nước, nhất là các nước đi sau phát
triển nhanh hơn, theo con đường đi ngắn hoặc rút ngắn, đón đầu.
Đối với các quốc gia vốn là những trung tâm nghiên cứu và
triển khai công nghệ, thì thya thế công nghệ kém tiên tiến hơn bằng công
nghệ mới, hiện đại là chủ yếu, trên cơ sở kết quả những phát minh sáng
chế của họ. Đồng thời,các nước cũng mua bản quyền phát minh sáng chế
của các nước khác.
Đối với các nước đang phát triển thì thông qua hoạt động
chuyển giao để thay thế, đổi mới công nghệ là chính, đặc biệt thông qua
FDI. Mặt khác, để tạo điều kiện tăng tốc hơn cho sự phát triển, nhiều
nước còn mua cả bản quyền.
Đồng thời với việc tiếp nhận, đổi mới công nghệ, các nước
tiếp nhận công nghệ mới cũng học hỏi và nâng cao trình độ quản lý.
Thay thế và đổi mới công nghệ trong thời đại toàn cầu hoá
kinh tế là một đòi hỏi bức bách. Nó đảm bảo cho sự phát triển của nền
kinh tế cả về trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm và trình độ quản lý,
cũng như tay nghệ của người lao động của một doanh nghiệp, một ngành
và cả một nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế.
Thứ năm toàn cầu hoá kinh tế buộc các nước phải cơ cấu lại
nền kinh tế quốc gia một cách hợp lý, bảo đảm. Phát huy tối đa lợi thế so


sanh, tạo ra những khối lượng hàng hoá đủ lớn, có chất lượng cao,mẫu mã

đẹp, đủ sức thâm nhập các thị trường quốc tế.
Cuối cùng là tìm ra con đường thích hợp để tạo ra những đột
phá, rút ngắn thời gia phát triển, xây dựng được một nền kinh trrs tri thức
phù hợp với đặc điểm, điều kiện của nước mình.
Các nền kinh tế trong toàn cầu hoá đều theo xu thế kinh tế thị
trường mở, hội nhập quốc tế dựa vào xuất khẩu. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng này là tất yếu, nó vừa là điều kiện để hội nhập kinh tế
quốc tế thành công, vừa là thách thức đồi với quốc gia, đặc biệt là quốc
gia đang phát triển.
Nhìn chung toàn cầu hoá tạo ra khả năng phát huy có hiệu quả
nguồn lực trong nước vá sử dụng các nguồn lực quốc tế theo nguyên lý lợi
thế so sánh mà D.Ricarrdo đã nêu:
- Với quá trình toàn cầu hoá, thị trường được mở rộng, sự giao lưu
hàng hoá thông thoáng hơn, hàng rào quan thuế và phi quan thuế thuyên
giảm, nhờ đó sự trao đổi hàng hoá tăng mạnh, có lợi cho sự phát triển của
các nước. Từ đầu thế kỷ đến năm 1947 ( khi GATT ) ra đời) kim ngạch
buôn bán của thế giới tăng 2 lần, nhưng từ sau đó đến đầu những năm 90
của thế kỷ trước đã tăng mạnh mẽ như vậy là do hàng rào quan thuế và
phi quan thuế thuyên giảm đáng kể.
- Phản ánh xu thế toàn cầu hoá, dòng vốn cũng vượt qua biên giới
quốc gia, nhiều hình thức đầu tư, hợp tác sản xuất, góp phần điều hoà
dòng vốn theo lợi thế so sánh, giúp các nước tiếp cận được nguồn vốn,
công nghệ từ bên ngoài, hình thành sự phân công lao động quốc tế có lưọi
cho cả bên đầu tư lẫn bên tiếp thu. Tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài năm
1997 gấp 800 lần năm 1914.
- Dưới tác động của quá trình toàn cầu hoá, những thành tựu của
khoa học và công nghệ được chuyển giao nhanh chóng, ứng dụng rộng rãi,
qua đó các nước đi sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận
với chúng để phát triển.



- Mạng lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu, góp
phần làm cho giá thành sản xuất thuyên giảm, năng suất, hiệu quả tăng
cao, giao lưu thuận tiện.
- Về mặt chính trị, quá trình toàn cầu hoá giá tăng tính tuỳ thuộc lẫn
nhau có lợi cho cuộc đấu tranh cho hoà bình, hợp tác và phát triển vì ngay
sự phát triển của các nước công nghiệp phát triển cũng tuỳ thuộc đáng kể
vào các nước đang phát triển. Qua những phương tiện hiện đại, những
thành tựu văn hoá cũng được chuyển tải nhanh chóng hơn.
* Những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá kinh tế
Có quan điểm cho rằng: " Toàn cầu hoá không ác độc những
mù quáng" Thực vậy, là một xu thế khách quan, toàn cầu hoá kinh tế t ự nó
không muốn làm hại ai, nhưng ngày nay, do bị chi phối bởi những kẻ nắm
các lực lượng kinh tế hùng hậu nhất luôn áp đặt ý đồ chủ quan của chúng,
cho nên quá trình này không có không ít tác động tiêu cực đối với kinh tế
của nhiều quốc gia mà trước hết và chủ yếu là kinh tế các nước đang phát
triển,
Thứ nhất, tác động rõ nhất và lớn nhất, mà ai cũng phải thừa
nhận là toàn cầu hoá kinh tế càng mở rộng và gia tăng tốc độ, thì sự phân
hoá giàu nghèo giữa hai nhóm quốc gia Bắc - Nam cũng như trong từng
quốc gia càng lớn, đặc biệt đối với các nước phương Nam.
Nếu mức chênh lệch thu nhập giữa 20% dân c ư nghèo và và
20% dân cư giàu nhất trên thế giới năm 1976 là 1/30 thì vào đầu những
năm 1990 tỷ lệ này là 1/60 và hiện nay sự chênh lệch này đã doãng ra hơn
nữa
- Những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá bắt nguồn từ
nguyên nhân cơ bản là các nước công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ hiện
còn chiếm ưu thế trong nền kinh tế thế giới thao túng quá trình toàn cầu
hoá.
Dưới tác động của quá trình toàn cầu hoá, do các nước công nghiệp

phát triển thao túng, sự phân cực giữa các nước giàu và các nước nghèo


trong từng nước ngày càng sâu sắc.Theo đánh giá của UNDP, xét trên
nhiều khía cạnh thì dân số ở 85 quốc gia trên thế giới đã có mức sống
thấp hơn cách đây 10 năm, khoảng cách giữa các nước giàu và các nước
nghèo ở mức báo động. Trong khi các nước công nghiệp phát triển với
khoảng 1,2 tỷ người chiếm 1/5 dân số thế giới, hiện đang chiếm 85% GDP
toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/3 đầu tư trực tiếp nước ngoài, 74%
số máy điện thoại của toàn thế giới thì 1/5 dân số thế giới đang chiếm
thuộc các nước nghèo nhất chỉ chiếm 1% GDP của toàn thế giới mà thôi.
- Nền kinh tế toàn cầu là một nền kinh tế rất dễ bị chấn th ương, sự
trục trặc ở một khâu có thể lan nhanh ra phạm vi toàn cầu. Cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam A vào những năm cuối thế kỷ trước
đã minh chứng rõ ràng cho điều đó.
- Ngay trong những mặt tích cực cũng ẩn chứa không ít những mặt
tiêu cực. Về trao đổi hàng hoá, việc tự do hoá thương mại thường đem lại
lợi ích lớn hơn cho các nước công nghiệp phát triển vì sảm phẩm của họ
có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp. do đó có sức cạnh tranh cao,
dễ chiếm lĩnh thị trường.
- Toàn cầu hoá kinh tế, khoa học và công nghệ cũng kéo theo cả
những tội phạm xuyên quốc gia, truyền bá nền" văn hoá" phi nhân bản,
không lành mạnh, băng hoại đạo đức, xâm hại bản sắc văn hoá của các
dân tộc.
*Những tác động của xu thế toàn cầu hoá tới quan hệ quốc tế và quá
trình hội nhập kinh tế trên thế giới.
Xu thế toàn cầu hoá tới quan hệ quốc tế và quá trình hội nhập kinh
tế của các nước, trong đó có Việt Nam có những tác động sau:
- Trước nhu cầu phát triển, nắm bắt khả năng vận dụng những mặt
tích cực của quá trình toàn cầu hoá, các nước trên thế giới đều có thiên

hướng từ bỏ chính sách đóng cửa, chuyển sang chính sách mở cửa với bên
ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản


lý để phát triển. Ngay các nước lâu nay vốn khép kín cũng từng bước điều
chỉnh theo hướng này.
- Bên cạnh quan hệ song phương, quan hệ đa phương đóng vai trò
ngày càng quan trọng trong quan hệ quốc tế, xuất hiện nhiều cơ cấu hợp
tác trên mọi tầng nấc: tiểu vùng, khu vực, đại khu vực và toàn cầu. O tiểu
vùng là các tam, tứ giác, các chương trình hợp tác phát triển. O khu vực
là các khu mậu dịch- đầu tư tự do. O các châu lục như châu Mỹ, Châu A-
TBD, châu Phi xuất hiện các khu vực mậu dịch tự do hoặc diễn đàn hợp
tác toàn khu vực. Trên phạm vi toàn cầu là các tổ chức như WTO,
WB,IBF, OECD, G8.
Các hình thức kiên kết diễn ra ở các cấp độ như: ưu đãi
thương mại, thị trường tự do, liên minh thuế quan…
- Những nhân tố nói trên đã tạo nên một mạng quan hệ quốc tế
đan xen nhau làm gia tăng thêm tính " tuỳ thuộc lẫn nhau" giữa các nền
kinh tế. Tuy nhiên, các chủ thể tham gia quá trình toàn cầu hoá đều có lợi
ích riêng, độc lập với nhau thậm chí đối nghịch nhau, từ đó, trong quan hệ
kinh tế quốc tế luôn luôn tồn tại 2 chiều hướng: độc lập và cạnh tranh.
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi thế giới. Các lực lượng tham gia quá trình toàn cầu
hoá bao gồm hàng trăm dân tộc và các nhà nước khác nhau: các nước tư
bản phát triển, các nước đang phát triển, các nước đi theo định hướng
XHCN.
Các nước tư bản phát triển không chỉ theo đuổi mục tiêu trực
tiếp là lợi nhuận mà còn tìm cách chi phối, khống chế thị trường thế
giới,cải biến kinh tế các nước khác theo quỹ đạo của mình. Các nước dân
tộc chủ nghĩa hội nhập để có điều kiện phát triển, thoát khỏi nghèo nàn,

lạc hậu. Các nước đi theo định hướng XHCN chủ động hội nhập để tranh
thủ những mặt có lợi trên thị trường thế giới, phục vụ mục tiêu phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thu hẹp khoảng cách về
trình độ phát triển kinh tế so với các nước phát triển,


Y thế có sức mạnh về kinh tế và khoa học - công nghệ, các
nước tư bản phát triển đang thao túng các tổ chức kinh tế tài chính toàn
cầu như IMF, WB… áp đặt những quy chế và phương thức hoạt động
không bình đẳng, gây thiệt hại ngày càng nghiêm trọng, uy hiếp chủ
quyền quốc gia của các nước đang và chậm phát triển.
Trong bối cảnh đó, để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia,
các nước đang phát triển thông qua các tổ chức như UNCTAC, Nhóm
G77, Trung tâm Phương Nam và nhiều diễn đàn khác, tăng cường đoàn
kết, không ngừng đấu tranh ra sức chống lại sức ép và sự thao túng của
các nước tư bản phát triển.
Mặt khác, các nước công nghiệp phát triển cũng cần thị trường
nguồn lao động, nguồn tài nguyên… của các nước đang và chậm phát triển
để phục vụ cho lợi ích của mình. Trước làn sóng phản ứng của nhiều quốc
gia, các nước phát triển buộc phải xoá nợ, giãn nợ cho các nước đang và
kém phát triển.
Hiện nay đang diễn ra cuộc đấu tranh xung quanh vòng đàm
phán mới trong khuôn khổ WTO. Các nước công nghiệp phát triển muốn
đẩy nhanh quá trình " tự do hoá", nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp,
dịch vụ, đưa ra các tiêu chuẩn về lao động, môi trường để kiềm chế các
nước đang phát triển. Trái lại, các nước đang phát triển lại đòi các nước
công nghiệp phát triển rỡ bỏ các hàng rào bảo hộ, chưa muốn đi xa hơn
trên con đướng " tự do hoá"
*Tác động của toàn cầu hoá đối với an ninh của các quốc gia.
Dưới tác động chủ yếu của cuộc cách mạng khoa học- công

nghệ, xu thế hoà bình hợp tác để phát triển và vai trò to lớn của các công
ty xuyên quốc gia, quá trình toàn cầu hoá ngày nay đã đạt đến một đỉnh
cao mới và trở thành một xu thế bao trùm trong quan hệ quốc tế. Tình
hình này có tác động sâu sắc tới mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội
trong các nước cũng như quan hệ giữa các quốc gia. An ninh của mỗi


quốc gia và an ninh quốc tế đứng trước những biến chuyển mới bao gồm
cả cơ hội và thách thức.
Về cơ hội quá trình toàn cầu hoá làm ra đời và củng cố mạng
lưới dày đặc các thiết chế quốc tế, đặc biệt là các tổ chức quốc tế trong
mọi lĩnh vực. Vai trò ngày càng tăng của các tổ chức quốc tế trong quan
hệ quốc tế góp phần hạn chế và giúp giải quyết xung đột giữa các nước,
duy trì và củng cố hoà bình, an ninh quốc tế. Thông qua các thiết chế và
tổ chức quốc tế này, các nước đặc biệt là các nước vừa và nhỏ, có khả
năng bảo vệ tốt hơn lợi ích quốc gia cũng như an ninh của mình và có vị
thế ít bất lợi hơn trong quan hệ với các nước lớn. Bên cạnh đó, xu thế
toàn cầu hoá cũng tạo ra nhưng cơ hội quan trọng ( thị trường, vốn, công
nghệ, cạnh tranh nâng cao hiệu quả kinh tế…) mà các n ước có thể tận
dụng để phát triển kinh tế- xã hội, tạo cơ hội để đảm bảo an ninh, quốc
gia.
Qúa trình toàn cầu hoá cũng đặt các nước trước rất nhiều
thách thức đe doạ chính an ninh quốc gia của họ nếu bản thân họ không
kiểm soát và xử lý tốt các vấn đề nảy sinh.
Qúa rình toàn cầu hoá có xu hướng thống nhất các thị trường
quốc gia thành các thị trường khu vực và toàn cầu, làm cho sự phân công
lao động quốc tế trở nên sâu rộng, do vậy làm cho các nước ngày càng tuỳ
thuộc lẫn nhau ở mức cao hơn. Đặc biệt, sự phát triển của mạng lưới các
công ty xuyên quốc gia trên thế giới gắn kết chặt chẽ hơn nữa các nền
kinh tế quốc gia với nhau như những mắt xích của một hệ thống hoàn

chỉnh. Thực tế hiện nay cho thấy không một nước nào có thể phát triển mà
không cần đến thị trường vốn và công nghệ của nước khác. Sự phát triển
và an ninh của tất cả các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau. Khó có
thể có sự phát triển bền vững và an ninh cho một hoặc một số quốc gia
trên sự lụi bại về kinh tế và mất an ninh của các quốc gia khác.
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của xu thế toàn cầu hoá
và tri thức hoá kinh tế, ngày càng có nhiều người nhận thức rõ hơn mối đe


doạ lớn nhất đối với các nước không phải là sự tiến công xâm lược về
quân sự nữa mà chính là sự tụt hậu về phát triển, đói nghèo và kém khả
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Như vậy, phát triển kinh tế là nền
tảng và an ninh kinh tế là nội dung trụ cột của an ninh quốc gia trong một
thế giới toàn cầu hoá và tri thức hoá. Trong điều kiện toàn cầu hoá, các
nước đang phát triển không có cách nào khác là phải hội nhập để tận dụng
các cơ hội và thuận lợi của quá trình này để phát triển kinh tế và do vậy
họ phải chịu lệ thuộc vào thị trường quốc tế và nguồn vốn nước ngoài.
Sự phát triển của toàn cầu hoá cũng khiến người ta phải quan
tâm nhiều hơn đến vấn đề môi trường, bởi lẽ quá trình này có nguy cơ lam
trầm trọng thêm vấn đề môi trường ở nhiều nước, nhất là các nước đang
phát triển. Sự phát triển kinh tế và công nghiệp hoá ở các nước này đã và
đang làm cho các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, rừng bị tàn
phá, không khí và nguồn nước bị ô nhiễm…. Tình trạng này đe doạ an
toàn cuộc sống của con người và ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh
tế- xã hội.
Sự phát triển của xu thế toàn cầu hoá làm cho việc giao l ưu
giữa các quốc gia cũng như giữa các công dân của các nước với nhau ngày
càng trở nên thuận tiện và chặt chẽ thông qua hệ thống các phương tiện
truyền thông như điện thoại, du lịch… Điều này cùng với quá trình tự do
hoá và phát triển kinh tế thị trường bên trong mỗi nước sẽ góp phần làm

tăng nhận thức của mỗi cá nhân về thế giới và xã hội, đặc biệt là vấn đề
dân chủ và quyền con người. Do vậy, các nước sẽ ngày càng phải đối mặt
với áp lực của vấn đề này cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu
hoá. Phát triển kinh tế bền vững và bảo đảm an ninh kinh tế trở thành
trung tâm của các chính sách quốc gia và lợi ích kinh tế trở thành một
trong những động lực chủ yếu nổi bật của các tập hợp lực lượng trên
phạm vi toàn cầu và khu vực. Xu hướng phát triển các thể chế toàn cầu và
khu vực như là một chiến lược để duy trì an ninh của các quốc gia và an
ninh quốc tế được tiếp tục khẳng định về tính hợp lý và hữu hiệu trong


một thế giới đang trong quá trình toàn cầu hoá. Ngày càng có nhiều nước
đặt vấn đề an ninh quốc gia như là một mục tiêu và thành tố của chiến
lược phát triển tổng thể đất nước, gắn chặt vấn đề này với các yêu cầu
phát triển kinh tế- xã hội, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hoá dân
tộc và phát triển con người.
Có những quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá sẽ làm gia
tăng khả năng thất nghiệp. Họ lập luận rằng:
- Sự cạnh tranh khốc liệt trong toàn cầu hoá làm cho hàng loạt
doanh nghiệp gặp khó khăn phải thu hẹp sản xuất, chuyển đổi kinh doanh
hoặc phá sản và ngừng hoạt động, khiến cho nhiều người mất việc làm.
- Cùng với sự phát triển của toàn cầu hoá, sự gia tăng của các
luồng di chuyển nhân công giữa các nước càng làm cho những người lao
động kém thuận lợi ( kém năng lực. ít được đào tạo ) đứng trước nguy cơ
bị mất việc cho những người có khả năng cạnh tranh cao hơn và ngày
càng khó khăn để kiếm được những việc làm mới.
- Tự do hoá thương mại và đầu tư tạo điều kiện làm gia tăng
các luồng đầu tư ra nước ngoài, như vậy làm cho những người lao động
trong nước mất bớt cơ hội có việc làm. Nhiều người lao động ở các nước
phát triển tham gia biểu tình chống toàn cầu hoá.

Những người ủng hộ toàn cầu hoá lại cho rằng toàn cầu hoá
không phaỉ là nguyên nhân làm cho nạn thất nghiệp gia tăng, mà trái lại
góp phần tạo nên nhiều việc làm hơn vì:
Thứ nhất quá trình này thúc đẩy sự cơ cấu lại nền kinh tế hợp
lý hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển thêm nhiều ngành, lĩnh
vực mới, thu hút lực lượng lao động vào những ngành mới này.
Thứ hai quá trình này làm cho những người lao động có cơ hội
kiếm được việc làm phù hợp hơn với năng lực và thế mạnh của mình trên
thị trường quốc gia và quốc tế nhờ tính " lưu động" của thị trường rộng
lớn.


Thứ ba tự do hoá thương mại và đầu tư làm cho việc sử dụng
các nguồn lực hiệu quả và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế tốt hơn, giúp
tăng ngân sách cho chính phủ để đầu tư cho việc đào tạo, tái đào tạo và
giúp cho người lao động có việc làm.

×