Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng sử dụng vốn tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.66 KB, 89 trang )




z













LUẬN VĂN:

Thực trạng sử dụng vốn tại Công
ty cổ phần Cảng Đoạn Xá























Lời mở đầu

Kinh tế thị trường tạo môi trường để các doanh nghiệp phát triển trong mối
quan hệ kinh tế đa dạng, đan xen các hình thức sở hữu về vấn đề tài sản. Điều đó dã
và đang diễn ra trong nền kinh tế nước ta; ngày nay doanh nghiệp không chỉ tồn tại
trong khu vực kinh tế quốc doanh với hình thức doanh nghiệp Nhà nước, nó còn tồn
tại và phát triển với các hình thức: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn,
Công ty tư nhân, Công ty liên doanh… thuộc sở hữu các thành phần kinh tế.
Tuy nhiên với bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào thì khi muốn tiến hành sản
xuất kinh doanh là phải có vốn. Vốn gắn liền với sự ra đời tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Chính vì vậy một doanh nghiệp muốn thành công thì trước hết phải
quản lý và sử dụng vốn như thế nào để phù hợp với tình hình thực tế, với quy mô,
với điều kiện sản xuất và nhu cầu thị trường.
Sau hơn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế, chúng ta
đã thu được một số thành tựu đáng kể. Tuy nhiên trong cơ chế mới nhiều doanh
nghiệp đã đứng vững và phát triển song cũng có không ít doanh nghiệp kinh doanh
kém hiệu quả đang đứng trên bờ vực của sự phá sản hay giải thể. Điều đó có thể do
nhiều nguyên nhân nhưng một trong những nguyên nhân chủ yếu là do công tác

quản lý và sử dụng vốn không hợp lý và kém hiệu quả
Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá mới được chuyển đổi từ một xí nghiệp trực
thuộc Cảng Hải Phòng, và đứng trước một con đường mới nhiều khó khăn đang chờ
đợi. Với những sự cạnh tranh gay gắt của những đối thủ cùng ngành, với những khó
khăn chủ quan cũng như khách quan, công ty cần phải đứng vững trên thị trường và
phát triển ngày càng lớn mạnh. Vậy một trong những giải pháp đề ra để công ty có
được những thành công đó là công ty phải sử dụng vốn sao cho hiệu quả nhất.
Từ những thực tế trên, sau thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn
Xá - Hải Phòng, cùng sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo : GS - TS Cao Cự Bội,
cùng các cán bộ trong công ty em đã lựa chọn và hoàn thành đề tài : “ Hiệu quả sử



dụng vốn và một số biện pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá ” để làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.

Chuyên đề gồm ba phần chính sau :
Chương I : Lý luận chung về vốn va hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương II : Thực trạng sử dụng vốn tại Công ty cổ phần Cảng Đoạn Xá
Chương III : Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ
phần Cảng Đoạn Xá.




















Chương I
Lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của
Doanh nghiệp trong nền kinh tế kinh tế thị trường
I. Khái niệm vốn trong kinh doanh
1. Khái niệm
Vốn có vai trò hết sức quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Vì vậy, từ trước tới nay, có rất nhiều
quan niệm về vốn. Do mỗi người ở một hoàn cảnh kinh tế khác nhau cũng như góc
độ khác nhau mà có những quan niệm khác nhau về vốn.
Vậy Vốn là gì? Có rất nhiều những nhà kinh tế học đã đưa ra những khái
niệm khác nhau về vốn và có rất nhiều những tranh cãi xung quanh các vấn đề về
vốn bởi họ xem xét vốn ở những khía cạnh và hoàn cảnh kinh tế khác nhau. Và
cũng chưa có định nghĩa chính xác về vốn nên ta cũng chỉ có thể xem xét về vốn
qua các khái niệm sau.
Karl Marx đã đưa ra khái niệm như sau về vốn như sau: Vốn (tư bản) là giá
trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Tuy rằng ông
đã đưa ra được khái niệm khá tổng quát về vốn vì đã bao hàm được bản chất và vai
trò của vốn bởi bản chất của vốn là giá trị cho dù có được biểu hiện dưới hình thức
nào: tài sản cố định, nguyên vật liệu, tiền công, nhà cửa Tuy nhiên, do điều kiện

lịch sử nên Marx vẫn còn bị hạn chế khi quan niệm chỉ có khu vực sản xuất tạo ra
giá trị thặng dư cho nền kinh tế, ông bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản
xuất vật chất.
Còn theo Paul. Samuelson thì ông cho rằng : Vốn là các hàng hoá được sản
xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào của hoạt động sản
xuất của một doanh nghiệp (máy móc, trang thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu )
Trong cuốn Kinh tế học thì David Begg lại đưa ra khái niệm về vốn tài chính
và vốn hiện vật. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các
hàng hoá khác còn vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp.



Nói chung các khái niệm đó đều có chung một hạn chế đó là đã đồng nhất
Vốn và Tài sản của doanh nghiệp.
Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp
đang nắm giữ. Vốn là tài sản là hai mặt giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn
lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động trong quá trình kinh doanh của mình. Trong
nền kinh tế thị trường hiện nay thì vốn được hiểu là toàn bộ các giá trị ứng ra ban
đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Bất kỳ doanh nghiệp nào
khi thành lập đều không thể thiếu vốn, bởi vốn giúp doanh nghiệp trả cho chi phí
thành lập, mua sắm nhà cửa các máy móc trang thiết bị vật dụng, đầu tư cho công
nghệ tất cả những gì cần thiết cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong
suốt quá trình hoạt động. Vốn và Tài sản được phản ánh thành hai cột trên Bảng cân
đối kế toán và do Vốn là biểu hiện bằng tiền của các tài sản của doanh nghiệp nên
Tổng tài sản bằng Tổng nguồn vốn. Tuy nhiên nhiệm vụ của vốn và tài sản khác
nhau bởi vốn thì phản ánh cơ cấu và nguồn hình thành vốn còn tài sản thì lại phản
ánh việc sử dụng vốn như thế nào trong doanh nghiệp.
Khi vốn được đưa vào kinh doanh thì vốn tham gia vào quá trình kinh doanh
ấy của doanh nghiệp dưới những hình thái vật chất khác nhau để tạo ra sản phẩm rồi
sau đó được tiêu thụ. Kết quả thu được phải là đủ bù đắp chi phí và thu được lợi

nhuận, làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và giúp doanh nghiệp đạt tới các mục
tiêu khác của doanh nghiệp như tạo danh tiếng cho thương hiệu của mình, thu hút
nhiều khách hàng khác đến với mình
Vậy Vốn là giá trị được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được sử
dụng đầu tư vào toàn bộ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp .
2. Đặc trưng của vốn
Vốn có những đặc trưng cơ bản sau :
 Vốn phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản gồm có tài sản hữu hình
và vô hình của doanh nghiệp.
 Vốn phải được vận động và sinh lời đạt được các mục tiêu sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn không thể để nằm yên mà phải luôn luôn được



đem ra sử dụng và sử dụng lại phải đảm bảo có hiệu quả để vốn sinh sôi không
ngừng.
 Vốn phải được tập trung và tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng. Tức là vốn có yêu cầu nhất định về lượng và khi đạt được yêu
cầu đó thì mới có thể dùng vốn được. Do đó mà để có được lượng vốn theo yêu cầu
cần phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau một cách có hiệu quả.
 Vốn có giá trị về mặt thời gian.Thời gian làm ảnh hưởng tới giá trị của
đồng vốn. Nhất là trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
giá trị thời gian của tiền và nếu không xem xét đến điều này thì sẽ có nhiều thiệt hại
với việc sử dụng đồng tiền.
 Vốn gắn liền với chủ sở hữu và do đó không có vốn vô chủ và không có
ai quản lý.
 Vốn được quan niệm là hàng hoá đặc biệt bởi trong nền kinh tế thị
trường những người sở hữu vốn nhàn rỗi tới thị trường và những người cần vốn thì
tới đây để có được quyền sử dụng. Vậy là những người chủ sở hữu đã chuyển
nhượng quyền sử dụng cho người khác trong một thời gian thoả thuận và những

người thuê thì được sử dụng sau đó thu lợi nhuận và trích từ trong đó ra một khoản
để trả cho người sở hữu.
3. Phân loại vốn
Vốn được phân chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo mục đích của người
quản lý vốn.
3.1. Theo nguồn hình thành
 Vốn Ngân sách Nhà nước cấp : Là vốn do Nhà nước cấp cho doanh
nghiệp được xác nhận trên cơ sở biên bản giao nhận vốn mà doanh nghiệp phải có
trách nhiệm bảo toàn và phát triển. Vốn do Nhà nước cấp có hai loại là vốn cấp ban
đầu và vốn cấp bổ sung trong quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp sử dụng vốn này
phải nộp ngân sách một tỷ lệ phần trăm trên vốn cấp, gọi là Thu sử dụng vốn ngân
sách.



 Vốn tự bổ sung : là vốn nội bộ doanh nghiệp bao gồm vốn khấu hao cơ
bản, lợi nhuận để lại, vốn cổ phần
 Vốn liên doanh liên kết : là vốn mà doanh nghiệp liên kết với các doanh
nghiệp khác có thể trong nước hoặc ngoài nước. Do nhiều yếu tố phức tạp nên việc
góp vốn này cần có những điều khoản ký kết chặt chẽ giữa hai bên để thoả thuận về
quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên.
 Vốn vay : là vốn mà doanh nghiệp có thể vay từ ngân hàng, các tổ chức
tín dụng, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm hoặc có thể vay từ các cán
bộ công nhân viên hoặc phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán để huy
động thêm vốn cho doanh nghiệp.
3.2. Theo tính chất sở hữu
a.Nợ phải trả :
Nợ phải trả gồm có Nợ ngắn hạn và Nợ dài hạn
 Nợ ngắn hạn : gồm những khoản tín dụng ngắn hạn là tín dụng thương
mại và tín dụng ngân hàng, đó là những khoản nợ có hạn thanh toán trong khoảng

một năm.
+ Tín dụng thương mại : hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp là
nguồn vốn mà doanh nghiệp hay khai thác. Nguồn vốn này hình thành một cách tự
nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn này
có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà còn với toàn bộ nền
kinh tế, bởi đây là hình thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh và
còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các
điều kiện cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán hay hợp
đồng kinh tế nói chung.Tuy nhiên khi quy mô tài trợ của nguồn vốn này mà quá lớn
thì rủi ro cũng càng cao.
+ Tín dụng ngắn hạn ngân hàng : Vốn vay là một trong những nguồn vốn
quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà
còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh



nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung
cấp trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Trong quá trình kinh doanh của
mình, các doanh nghiệp thường vay ngắn hạn để đảm bảo nguồn tài chính cho các
hoạt động kinh doanh nhất là đối với các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu vốn nhanh chóng do ngân
hàng tài trợ với thời hạn tương đối ngắn (từ vài ngày đến dưới một năm) với số vốn
nhất định nào đó. Thông thường doanh nghiệp vay ngắn hạn khi thiếu vốn lưu động.
 Nợ dài hạn : bao gồm các khoản tín dụng dài hạn đó là các khoản nợ
được thanh toán từ một năm trở lên. Nợ dài hạn của doanh nghiệp bao gồm: các
khoản vay nợ và phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán.
+ Khoản vay nợ : là các khoản vay ngân hàng dài hạn, vay bạn hàng hoặc
vay cán bộ công nhân viên
+ Phát hành trái phiếu : là hình thức huy động vốn khi mà doanh nghiệp có
danh tiếng và uy tín trên thị trường thu hút vốn từ những người có vốn nhàn rỗi.

Không giống như cổ phiếu những người mua trái phiếu là chủ nợ của doanh nghiệp
và do đó doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả một số tiền trong một khoảng thời
gian đã được ghi trên trái phiếu. Các loại trái phiếu hiện nay đang lưu hành trên thị
trường tài chính là trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái
phiếu có thể thu hồi, và chứng khoán có thể chuyển đổi.
b.Vốn chủ sở hữu :
Vốn chủ sở hữu gồm các bộ phận chủ yếu là Vốn góp ban đầu, Lợi nhuận
không chia, Phần vốn tăng bằng phát hành cổ phiếu mới. Ngoài ra Vốn chủ sở hữu
của doanh nghiệp có thể được bổ sung từ phần chênh lệch đánh giá lại tài sản cố
định, chênh lệch tỷ giá Ta sẽ xem xét các bộ phận chủ yếu của vốn chủ sở hữu.
 Vốn góp ban đầu : Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ
doanh nghiệp cũng có vốn ban đầu nhất định do các cổ đông góp, tuy nhiên tuỳ theo
hình thức sở hữu của doanh nghiệp mà tính chất và hình thức tạo vốn của các doanh
nghiệp là khác nhau.



Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của
Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước chính là Nhà nước
Đối với doanh nghiệp theo luật Doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải cớ một
số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp.
Xét với công ty cổ phần, vốn do cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để
hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách
nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ đang nắm giữ.
 Lợi nhuận không chia : nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là
bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất-kinh doanh của doanh
nghiệp. Đây là phương thức giúp doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ
thuộc vào bên ngoài, do đó nhiều doanh nghiệp coi trọng và do đó họ đặt ra mục
tiêu cho doanh nghiệp là phải có một lượng lợi nhuận không chia đủ lớn để đáp ứng
lại nhu cầu vốn ngày càng tăng của họ.

 Phát hành cổ phiếu : trong hoạt động sản xuất-kinh doanh, doanh
nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới đây là hoạt
động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Các loại cổ phiếu được phát hành là cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu tiên. Trong đó cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông
dụng nhất và cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu
được phát hành. Tuỳ thuộc vào tỷ lệ nợ mà các hãng chọn cách phát hành trái phiếu
hay cổ phiếu.
3.3. Theo phương thức chu chuyển vốn
Theo phương thức chu chuyển vốn của doanh nghiệp thì vốn gồm vốn cố
định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài chính.
a.Vốn cố định :
Sự vận động của vốn cố định trong hoạt động kinh doanh được gắn liền với
hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định (TSCĐ)



Trong một doanh nghiệp có nhiều loại tư liệu lao động khác nhau, để thuận
tiện cho công tác quản lý người ta phân chia chúng theo các tiêu thức về mặt giá trị
và thời gian. Trong đó tài sản cố định phải có đủ hai tiêu chuẩn sau :
+ Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
+ Phải có giá trị tối thiểu ở mức nhất định theo quy định, mức này được Nhà
nước quy định phù hợp với tình hình kinh tế của mỗi thời kỳ (vào khoảng 5 triệu trở
lên).
Tài sản cố định tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp vào nhiều chu kỳ
sản xuất. Trong quá trình đó, tài sản cố định bị hao mòn nhưng vẫn giữ được hình
thái vật chất ban đầu và giá trị của tài sản được chuyển dịch dần vào từng phần giá
trị mới tạo ra của sản phẩm. Giá trị này được thu hồi khi sản phẩm được bán trên thị
trường.
Tuỳ theo những tiêu thức khác nhau mà người ta phân loại tài sản cố định
thành những loại khác nhau để có thể quản lý được chặt chẽ và hiệu quả.

 Theo hình thái biểu hiện và công dụng kinh tế :
+ Tài sản cố định hữu hình : những tài sản cố định có hình thái vật chất,
thuộc loại này chia thành nhà cửa vật chất, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải
thiết bị truyền dẫn, thiết bị dụng cụ quản lý, vườn cây lâu năm, súc vật làm việc
hoặc cho sản phẩm và các tài sản cố định hữu hình khác.
+ Tài sản cố định vô hình : những tài sản không có hình thái vật chất, thể
hiện một lượng giá trị lớn đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường tài sản cố định vô hình gồm các loại
như quyền sử dụng đất, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về bằng phát minh
sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về lợi thế thương mại, và các tài sản
cố định vô hình khác.
 Theo tình hình sử dụng : thì tài sản cố định được chia thành các loại
+ Tài sản cố định đang dùng
+ Tài sản cố định chưa dùng



+ Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý
Ngoài ra người ta còn phân chia theo mục đích sử dụng, theo quyền sở hữu
để đáp ứng những yêu cầu nhất định của công tác quản lý.
Số vốn doanh nghiệp ứng ra để hình thành nên tài sản cố định được gọi là
vốn cố định của doanh nghiệp. Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh,
vốn cố định thực hiện chu chuyển giá trị của nó, và sự chu chuyển này chịu sự chi
phối rất lớn bởi đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của tài sản cố định. Trong quá trình
tham gia vào hoạt động kinh doanh, giá trị của tài sản cố định chuyển dần dần vào
từng phần giá trị mới tạo ra của sản phẩm và giá trị này được thu hồi khi sản phẩm
được bán trên thị trường. Như vậy vốn cố định cũng luân chuyển từng phần và được
thu hồi dần, trong khi một bộ phận vốn cố định tiếp tục nằm trong quá trình sản xuất
dưới hình thái tài sản cố định đang sử dụng (giá trị còn lại của tài sản cố định) thì
một bộ phận vốn khác đã gia nhập vào giá thành sản phẩm và trở thành hình thái

tiền tệ ban đầu trong tiền bán sản phẩm. Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ
kinh doanh mới và chỉ hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản xuất được tài
sản cố định về mặt giá trị hoặc đơn giản hơn là thu hồi tiền khấu hao tài sản cố định
(bao gồm cả giá trị được bảo toàn). Hiện nay, Nhà nước ta đang khuyến khích các
doanh nghiệp thực hiện khấu hao nhanh có điều kiện điều kiện hoá và nhanh chóng
đổi mới công nghệ.
Do đó ta có thể nói : Vốn cố định của doanh nghiệp là bộ phận của vốn đầu
tư ứng trước về tài sản cố định, đặc điểm của nó là chu chuyển giá trị dần dần từng
phần trong nhiều chu kỳ kinh doanh và hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản
xuất được tài sản cố định về mặt giá trị.
b.Vốn lưu động :
Tài sản lưu động của doanh nghiệp thường gồm hai bộ phận : tài sản lưu
động trong sản xuất và tài sản lưu động trong lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất
gồm một bộ phận là những vật tư dự trữ để đảm bảo cho quá trình sản xuất được
liên tục như nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu và một bộ phận những sản phẩm dở



dang trong quá trình sản xuất. Tài sản lưu động trong lưu thông bao gồm : sản phẩm
hàng hoá chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán (nợ phải thu).
Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên tục
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tài sản lưu động nhất định. Do vậy, để hình
thành nên tài sản lưu động, doanh nghiệp phải ứng ra một số vốn đầu tư vào loại tài
sản này, số vốn đó được gọi là tài sản lưu động.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên vận động và chuyển hoá qua
nhiều hình thái khác nhau.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, vốn lưu động từ hình thái ban đầu là tiền
được chuyển hoá sang hình thái vật tư dự trữ và tiếp tục chuyển sang hình thái sản
phẩm dở dang, thành phẩm hàng hoá và khi kết thúc quá trình tiêu thụ thì lại trở về
hình thái ban đầu là tiền. Ta có mô hình :

TLLĐ
T H SX H' T'
ĐTLĐ
Còn đối với doanh nghiệp thương mại thì sự vận động của vốn lưu động
nhanh hơn từ hình thái tiền chuyển hoá sang hình thái hàng hoá và lại chuyển hoá
về hình thái tiền. Ta có mô hình:
T H T'
Trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh, vốn lưu động chuyển
toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được hoàn lại toàn bộ sau khi doanh nghiệp
tiêu thụ được sản phẩm thu được tiền. Như vậy là vốn lưu động hoàn thành một
vòng tuần hoàn sau một chu kỳ kinh doanh. Trong quá trình này tài sản lưu động
thay đổi hình thái không ngừng, do đó, tại một thời điểm nhất định vốn lưu động
cùng tồn tại dưới các hình thái khác nhau trong các giai đoạn mà vốn đi qua.
Tuỳ theo những tiêu thức khác nhau có thể chia vốn lưu động thành các loại
khác nhau và cũng nhờ đó để phân tích đánh giá về vốn lưu động và đưa ra các biện
pháp tổ chức quản lý phù hợp.



 Theo hình thái biểu hiện của vốn (giúp ta xem xét khả năng thanh
toán của doanh nghiệp) :
+ Vốn bằng tiền và các khoản phải thu :
Vốn bằng tiền gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển
Các khoản phải thu, trong đó chủ yếu là khoản phải thu từ khách hàng, ngoài
ra trong một số trường hợp mua sắm vật tư doanh nghiệp còn phải ứng trước tiền
cho người cung ứng từ đó hình thành khoản tạm ứng.
+ Vốn vật tư, hàng hoá : gồm nguyên liệu, vật liệu, công cụ và dụng cụ ; sản
phẩm dở dang, thành phẩm, chi phí trả trước.
 Theo vai trò của vốn lưu động đối với quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp (giúp ta đánh giá tình hình phân bố vốn lưu động trong các khâu của quá

trình chu chuyển vốn) :
+ Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất
+ Vốn lưu động trong khâu sản xuất
+ Vốn lưu động trong khâu lưu thông
Do đó Vốn lưu động của doanh nghiệp là toàn bộ số vốn ứng ra để hình
thành nên tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị
của chúng vào lưu thông và từ trong lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn
lại một lần sau một chu kỳ kinh doanh.
4. Vốn của công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân
và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình.
Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn
lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Công ty cổ phần có nhiều dạng
tương đối khác nhau vì thế cách thức huy động vốn khác nhau. Vốn của công ty
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần. Giá trị ghi trên mặt của
mỗi cổ phiếu là mệnh giá của cổ phiếu, giá cả của cổ phiếu trên thị trường gọi là thị



giá, còn giá trị được phản ánh trong sổ sách kế toán của công ty gọi là giá trị ghi sổ
_ chính là mệnh giá của các cổ phiếu đã phát hành.
Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá, ghi nhận quyền sở hữu cổ phần,
đồng thời đảm bảo cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công
ty tương ứng với số cổ phần người đó nắm giữ. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành
viên của những người góp vốn vào công ty cổ phần, những người này gọi là cổ
đông công ty. Cổ đông công ty có quyền tham gia kiểm soát và điều khiển các công
việc của công ty, và họ có quyền trước hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản
hoặc thu nhập công ty. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên nhưng cổ phiếu
của sáng lập viên, của thành viên Hội đồng quản trị thì phải ghi tên. Cổ phiếu ghi

tên chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của Hội đồng quản trị trừ một số
trường hợp được quy định rõ còn cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển
nhượng.
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước quy định lượng cổ phiếu tối đa mà công ty
được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu được cấp phép để quản lý và kiểm soát
chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Thông thường một
công ty có thể phát hành một lần hoặc số lần trong giới hạn số cổ phiếu đã được cấp
phép phát hành. Công ty có thể phát hành cổ phiếu thường _ loại cổ phiếu thông
dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá
trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Khi cổ phiếu trong tay các cổ đông thì
gọi là các cổ phiếu đang lưu hành, và khi công ty phát hành mua lại một số cổ phiếu
của mình và giữ chúng nhằm mục đích nào đó thì gọi là cổ phiếu ngân quỹ và được
coi tạm thời không lưu hành. Công ty có thể phát hành cổ phiếu ưu tiên _ chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành, tuy nhiên dùng loại này trong một
số trường hợp là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố
định, người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông
thường. Loại cổ phiếu này có thể được chính công ty phát hành thu hồi lại khi công
ty thấy cần thiết. Do đó công ty cần quy định rõ những điểm về trường hợp nào thì
mua lại cổ phiếu với giá bao nhiêu và thời hạn tối thiểu không được phép mua lại cổ
phiếu. Vậy nên cổ đông thường phải chịu sự mạo hiểm rất cao khi công ty thua lỗ



nhưng cổ đông ưu tiên thì có thể yên tâm khi họ chắc chắn sẽ nhận được cổ tức cố
định. Nhưng khi công ty thành đạt trong kinh doanh thì cổ đông thường lại có lợi
hơn cổ đông ưu đãi nhờ sự mạo hiểm.
Công ty cổ phần có thể để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư
tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông sẽ không được
nhận lãi cổ phần nữa nhưng bù lại điều đó họ lại có quyền sở hữu số vốn cổ phần
tăng lên của công ty. Giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên, tuy có thể giá cổ

phiếu sẽ bị giảm sút nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn.
Công ty có thể đi vay nợ rồi trả lãi theo tỷ lệ thoả thuận, có thể phát hành,
trái phiếu và các giấy nợ khác.
5. Vai trò của vốn
Khi một doanh nghiệp thành lập pháp luật đòi hỏi doanh nghiệp phải có một
số vốn nhất định tối thiểu vốn đó được gọi là vốn pháp định. Để có thể bắt đầu cho
công việc kinh doanh doanh nghiệp cần chi trả cho chi phí thành lập doanh nghiệp,
doanh nghiệp phải mua sắm trang thiết bị máy móc nhà xưởng, mua nguyên vật
liệu, tạo quan hệ kinh doanh Vậy doanh nghiệp rất cần số vốn ban đầu để bắt đầu
cho công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Thiếu vốn doanh nghiệp không đủ điều
kiện để trở thành một doanh nghiệp hợp pháp.
Tiếp theo là quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, không có vốn doanh
nghiệp không thể đầu tư vào các giai đoạn khác nhau của quá trình kinh doanh của
mình. Không có vốn để đầu tư thì doanh nghiệp cũng không thể thu lợi nhuận được
do đó không thể bù vào các chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh của doanh
nghiệp, không đủ chi trả cho các khoản trả cổ tức cho doanh nghiệp Thiếu vốn đầu
tư doanh nghiệp không thể mở rộng đầu tư hay tiếp tục đổi mới trang thiết bị hiện
đại thay cho các trang thiết bị đã lỗi thời và lạc hậu, quy trình công nghệ, nghiên
cứu về đổi mới sản phẩm, phương thức hoạt động của doanh nghiệp hay chống đỡ
những rủi ro trong quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp luôn luôn cần có một lượng
vốn đủ lớn để tài trợ cho mọi hoạt động kinh doanh phát sinh của mình. Cũng như
thiếu vốn thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị ngưng trệ sau đó là các tác động tiêu



cực khác tới doanh nghiệp và các thành viên trong đó Doanh nghiệp sẽ đi xuống
và sẽ đứng trên bờ vực của sự phá sản, giải thể.
Thị trường hiện nay luôn đưa ra những yêu cầu cao không ngừng với mọi
doanh nghiệp và thị trường lại luôn biến động tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác
nhau. Thành viên nào đáp ứng được những yêu cầu luôn luôn thay đổi để phù hợp

với yêu cầu của những người tiêu dùng, doanh nghiệp đó sẽ thắng. Nhưng chưa phải
đã dừng ở đó, các doanh nghiệp lại còn phải củng cố vị trí của mình sao cho vững
chắc. Vậy chỗ đứng vững chắc đó không phải tự nhiên mà có, phải có đầu tư nâng
cao công nghệ, thiết bị, và trình độ của người lao động, mở rộng kinh doanh, tạo ra
những sản phẩm tốt nhất cùng với những hình thức dịch vụ tốt nhất, sửa đổi những
mặt hạn chế và yếu kém trong doanh nghiệp. Điều kiện tiền đề của tất cả những
điều đó chính là vốn.
Có những doanh nghiệp có nhiều vốn thì doanh nghiệp đó có thể chủ động
hơn trong kinh doanh và có thể hoạt động tốt hơn những doanh nghiệp cùng ngành
có ít vốn hơn. Tuy nhiên điều này không hoàn toàn đúng bởi cũng có rất nhiều
doanh nghiệp nắm giữ một số lượng vốn rất lớn trong tay mà lại làm thất thoát cùn
mòn vốn, để số vốn lớn nhàn rỗi trong tay mà không đầu tư làm số vốn ấy sinh lời,
doanh nghiệp hoạt động trì trệ, không thể bằng các doanh nghiệp khác tuy có ít vốn
hơn nhưng số vốn ấy sinh sôi không ngừng không lãng phí. Do đó sử dụng vốn sao
cho có hiệu quả để bảo toàn và phát triển vốn là một vấn đề luôn luôn cần được xem
xét trong các doanh nghiệp.
II. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp
1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn
1.1. Khái niệm :
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh
tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để đạt được kết
quả cao nhất với chi phí thấp nhất và hướng tới mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản chủ sở hữu.



Như ta đã bàn ở trên vốn là điều kiện tiền đề và tiên quyết với doanh nghiệp
vậy thì nếu không sử dụng vốn tốt sẽ gây ra tình trạng lãng phí và thất thoát vốn,
không tận dụng và phát huy được hết vai trò của vốn. Vậy nên doanh nghiệp cần
phải thường xuyên tự đánh giá về phương diện sử dụng vốn của mình để thấy được

chất lượng kinh doanh của mình và tình trạng sử dụng các nguồn lực và khai thác
các tiềm năng của mình.Nhờ đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp quản lý phù
hợp và sử dụng hợp lý không lãng phí các nguồn lực đồng thời khắc phục các hạn
chế yếu kém của doanh nghiệp mình.
Hiệu quả sử dụng vốn phải đạt được những yêu cầu sau :
 Sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm tránh thất thoát lãng phí hoặc để vốn
ứ đọng chậm luân chuyển
 Huy động vốn có hiệu quả để đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, tăng
hiệu quả kinh doanh.
 Đảm bảo thực hiện được các mục tiêu của doanh nghiệp
Các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả khi họ biết kết hợp hài hoà tính
kinh tế và tính xã hội. Do đó khi tăng hiệu quả sử dụng vốn góp phần đem lại những
thành công cho doanh nghiệp đồng thời góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội như
bảo vệ quyền lợi của các thành viên về thu nhập, đảm bảo ổn định về việc làm, các
chính sách hỗ trợ khác , bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và các bạn hàng,
đóng góp ngân sách quốc gia đầy đủ.
Về tầm vĩ mô thì các doanh nghiệp khi sử dụng vốn hiệu quả thì sẽ không chỉ
mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp mà còn thúc đẩy quá trình phát triển
của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.2. Các phương pháp phân tích hiệu quả sử dụng vốn
 Phương pháp so sánh :
Dùng để xác định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Để
tiến hành so sánh, phải giải quyết những vấn đề cơ bản như các định số gốc để so
sánh, xác định điều kiện so sánh và xác định mục tiêu so sánh. Mục tiêu so sánh



trong phân tích kinh doanh xác định biến động tuyệt đối và mức biến tương đối
cùng xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.
Mức biến động tuyệt đối được xác định trên cơ sở so sánh trị số của chỉ tiêu

giữa hai kỳ: kỳ phân tích và kỳ gốc: phản ánh quy mô, sự tăng trưởng hay thụt lùi
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp khắc phục trong
kỳ tới.
Mức biến động tương đối là kết quả so sánh giữa số thực tế với sổ gốc nhằm
đánh giá được đúng đắn hơn mức chênh lệch thực tế kế hoạch sau khi đã điều chỉnh
kế hoạch theo một hướng quyết định quy mô, khối lượng công tác.
So sánh số tương đối thường được kết hợp với số tuyệt đối để đánh giá bổ
sung kết cấu của một chỉ tiêu kinh tế.
 Phương pháp phân tích tỷ lệ :
Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các ngưỡng,
các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp trên cơ sở so
sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu. Các tỷ lệ tài chính
trong doanh nghiệp được phân thành các nhóm phản ánh những nội dung cơ bản
theo mục tiêu hoạt động như: nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ
về khả năng thanh toán, tỷ lệ về khả năng sinh lời. Tuỳ theo góc độ phân tích mà
người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu phù hợp.
2.Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
2.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tổng vốn
Đây là phần đánh giá mang tính chất tổng hợp, khái quát về tình hình sử
dụng tài sản và vốn của doanh nghiệp thông qua một số chỉ tiêu và phương pháp
phân tích.
 Xem xét sự biến động tăng giảm của tổng tài sản giữa các chu kỳ kinh
doanh để thấy được sự thay đổi quy mô sản xuất của doanh nghiệp như thế nào.


Số tăng (giảm)
tuyệt đối
Số lượng tài sản
kỳ gốc
Số lượng tài sản kỳ

phân tích
=
_









 Xem xét cơ cấu vốn đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp
Ta xem xét cơ cấu vốn đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp để thấy
được mối quan hệ giữa các thành phần tài sản trong doanh nghiệp, từ đó có thể phân
bố điều chỉnh lại cơ cấu vốn hợp lý hơn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp.

Tỷ trọng TSCĐ

=
TSCĐ
Tổng tài sản


Tỷ trọng TSLĐ

=
TSLĐ
Tổng tài sản



Cơ cấu tài sản

=
TSLĐ
TSCĐ
Từ công thức trên ta thấy tỷ lệ đầu tư vào tài sản là bao nhiêu ở doanh
nghiệp, tuy rằng hoạt động kinh doanh của mỗi đơn vị là khác nhau thì cơ cấu tài
sản là khác nhau nhưng việc xác định cơ cấu vốn đầu tư sao cho hợp lý luôn rất
quan trọng cho từng doanh nghiệp. Đồng thời cũng cần xét cơ cấu tài sản của doanh
nghiệp thay đổi qua các kỳ như thế nào và đã hợp lý chưa để có các biện pháp cân
đối thích hợp.
 Xem xét hiệu quả sử dụng tổng vốn trên một số chỉ tiêu sau :
Tỷ lệ tăng (giảm) tài
sản
Số tăng (giảm) tuyệt đối

=
Số lượng tài sản kỳ gốc

x 100



+ Hiệu suất sử dụng vốn :

Hiệu suất sử dụng vốn



=

Doanh thu thuần trong kỳ
Bình quân tổng vốn trong kỳ
Tỷ suất này cho ta biết cứ một đồng vốn tham gia vào quá trình kinh doanh
cho ta bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Chỉ số này cao hay thấp tuỳ thuộc vào
lượng sản phẩm do các tài sản tạo ra được tiêu thụ hay ứ đọng trong kỳ. Chỉ tiêu
này càng cao càng tốt, và do đó doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp nhằm
nâng cao sản lượng tiêu thụ, giảm chi phí để giảm giá thành, thêm những dịch vụ
sau bán, quảng cáo. khuyến mại, mở rộng thị trường và thu hút nhiều khách hàng
mới
+ Sức sinh lợi của vốn :

S
ức sinh lợi của vốn


=
Lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế) trong kỳ
Bình quân tổng vốn trong kỳ
Tỷ suất này phản ánh một đồng vốn tham gia vào quá trình kinh doanh cho ta
bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ tiêu này còn gọi là tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu hay doanh lợi vốn đầu tư và chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
+ Doanh lợi vốn chủ sở hữu

Doanh lợi vốn chủ sở hữu



=

Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
Vốn chủ sở hữu
Tỷ số này cho ta biết một đồng vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình kinh
doanh cho ta bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế trong kỳ, chỉ tiêu này càng cao càng
tốt.
2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định



 Hiệu suất sử dụng vốn cố định (VCĐ) :

Hiệu suất sử dụng vốn cố định


=
Doanh thu thuần trong kỳ
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Hiệu suất này cho ta biết một đồng vốn cố định sử dụng trong kỳ tạo ra bao
nhiêu đồng doanh thu trong kỳ đó.
 Hàm lượng vốn cố định :

Hàm lượng vốn cố định

=
Vốn cố định bình quân sử dụng trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
Chỉ tiêu này còn gọi là mức đảm nhận vốn cố định phản ánh số vốn cố định
cần thiết để tạo ra một đồng doanh thu trong kỳ, là chỉ tiêu nghịch đảo với chỉ tiêu
hiệu suất sử dụng vốn cố định nên càng nhỏ càng tốt.
 Sức sinh lợi vốn cố định :


Sức sinh lợi VCĐ

=
Lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế) trong kỳ
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Sức sinh lợi của vốn cố định hay tỷ suất lợi nhuận trên vốn cố định chỉ ra
một đồng vốn cố định được đầu tư vào quá trình sản xuất trong kỳ thì tạo ra bao
nhiêu lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
Trong các chỉ tiêu trên số vốn cố định bình quân trong kỳ được tính như sau :

Vốn cố định bình quân đầu kỳ

=
VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ
2



Ngoài các chỉ tiêu tổng hợp trên người ta còn sử dụng thêm một số chỉ tiêu
khác để phản ánh sâu hơn về vốn cố định như hệ số hao mòn tài sản cố định, tỷ suất
tự tài trợ tài sản cố định.

Tỷ suất tự tài trợ TSCĐ


=
Nguồn vốn chủ sở hữu x 100
Tổng tài sản cố định
Tỷ suất này sẽ cung cấp dòng thông tin cho biết số vốn chủ sở hữu của doanh

nghiệp dùng để trang bị cho tài sản cố định. Nếu tỷ suất này nếu lớn hơn 1 chứng tỏ
rằng khả năng tài chính vững vàng và lành mạnh, nếu tỷ suất này nhỏ hơn 1 thì một
bộ phận của tài sản cố định được tài trợ bằng vốn vay và đặc biệt mạo hiểm khi đấy
là vốn vay ngắn hạn.

Hệ số hao mòn TSCĐ

=

Số khấu hao luỹ kế của TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Tổng nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
Chỉ tiêu này một mặt phản ánh mức độ hao mòn của tài sản cố định trong
doanh nghiệp mặt khác phản ánh tổng quát tình trạng về năng lực của tài sản cố
định cũng như vốn cố định ở thời điểm đánh giá. Nếu hệ số này nhỏ nghĩa là tỷ lệ
vốn cần phải thu hồi để bảo toàn vốn nhỏ và doanh nghiệp cần thay máy móc thiết
bị đã cũ kỹ trong thời gian tới.
Người ta có thể sử dụng chỉ tiêu hệ số công suất của tài sản cố định là so
sánh giữa công suất thực tế và công suất thiết kế.
Sau khi tính toán các chỉ tiêu, kết hợp và so sánh các chỉ tiêu trong các kỳ
khác nhau với nhau hoặc so sánh với chỉ tiêu ngành, ta có thể đưa ra các nhận xét về
tình hình sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp sau đó giúp các nhà quản lý đưa ra
các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp.
2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
 Tốc độ luân chuyển của vốn lưu động (VLĐ)



Muốn xem xét doanh nghiệp có sử dụng vốn lưu động tiết kiệm hay không
thì ta cần xem xét trước hết về tốc độ luân chuyển của vốn lưu động. Nếu tốc độ
luân chuyển này càng cao thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao. Tuy nhiên

để tính tốc độ này thì ta lại phải đo bằng hai chỉ tiêu sau đó là : Số vòng quay vốn
(số lần luân chuyển vốn) và Số ngày của một vòng quay vốn (kỳ luân chuyển vốn)
+ Số vòng quay vốn (Số lần luân chuyển vốn):

Số vòng quay vốn lưu động


=
Doanh thu thuần trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Số vòng quay vốn lưu động chính là hiệu suất sử dụng vốn lưu động trong kỳ
của doanh nghiệp. Ta có thể tính Vốn lưu động bình quân trong kỳ như sau :
VLĐ bình quân tháng = (VLĐ đầu tháng + VLĐ cuối tháng) / 2
VLĐ bình quân quý = Cộng VLĐ bình quân 3 tháng / 3
VLĐ bình quân năm =
=
Cộng VLĐ bình quân 4 quý / 4
(V
1
/2 + V
2
+ V
3
+ + V
n
/2)/(n-1)
( Với V
n
là VLĐ của các tháng )
+Số ngày của một vòng quay vốn:


Số ngày 1 vòng quay VLĐ


=
360 ngày
Số vòng quay vốn lưu động trong năm
Ta có thể thấy rằng số vòng quay vốn lưu động càng nhiều thì số ngày của
một vòng quay càng ít.
Vậy nếu không có sự gia tăng đột biến của vốn trong kỳ mà số vòng quay
vốn nhiều thì có thể nói rằng doanh nghiệp tiêu thụ mạnh sản phẩm của mình,
doanh thu đạt được trong kỳ cao. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động mà cao thì sẽ
giúp doanh nghiệp trong việc sử dụng tiết kiệm phần vốn lưu động dư thừa vào mục
đích khác. Doanh nghiệp có thể dùng để mở rộng quy mô kinh doanh mà không



hoặc tăng ít vốn của mình. Ngoài ra tăng tốc độ lưu chuyển vốn còn góp phần hạ
thấp giá thành hoặc phí lưu thông tăng tích luỹ.
 Hàm lượng vốn lưu động :

Hàm lượng VLĐ

=

Vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động nên
chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt và số vốn tiết kiệm được càng nhiều.
 Sức sinh lợi vốn lưu động :


Sức sinh lợi củaVLĐ

=
Lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế) trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu thể hiện số lợi nhuận thu được trong kỳ khi bỏ ra một đồng vốn lưu
động của doanh nghiệp do đó chỉ tiêu này càng cao thì càng tốt.
Ngoài ra ta có thể xem xét các chỉ tiêu sau như vòng quay tiền, vòng quay
hàng tồn kho, kỳ thu tiền bình quân
 Vòng quay tiền :

Vòng quay tiền


=
Doanh thu thuần trong kỳ
Tiền + Các tài sản tương đương tiền
Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số của doanh thu trong kỳ trên tổng số
tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân như chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng và chỉ tiêu cho ta biết số vòng quay tiền trong năm.
 Vòng quay hàng tồn kho :




Vòng quay hàng tồn kho


=

Doanh thu tiêu thụ trong kỳ
Giá trị dự trữ
Chỉ tiêu này là một chỉ tiêu khá quan trọng trong việc đánh giá hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. giá trị dự trữ ở đây là các nguyên vật liệu, sản phẩm
dở dang, thành phẩm bình quân
 Kỳ thu tiền bình quân :

Kỳ thu tiền bình quân


=
Các khoản phải thu x Số ngày trong một kỳ
Doanh thu
Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong
thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các
khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của
doanh nghiệp và các khoản trả trước.
Ngoài ra ta cũng có thể tính toán số vốn lưu động tiết kiệm được hay lãng phí
của doanh nghiệp khi tăng hay giảm tốc độ luân chuyển của vốn lưu động như sau :

V
TK (LP)


=
M
1
x ( K
1
– K

0
)
360
Trong đó :
V
TK (LP)
: Mức tiết kiệm hay lãng phí VLĐ
M
1
: Tổng mức luân chuyển VLĐ trong kỳ
K
1
– K
0
: Hiệu kỳ luân chuyển của kỳ gốc với kỳ này
Ngoài các chỉ tiêu nói trên đối với doanh nghiệp cổ phần thì người ta có thể
xem xét một số chỉ tiêu liên quan tới các chủ sở hữu và giá trị thị trường như :

×