Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

LUẬN VĂN: Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.72 KB, 74 trang )




z













LUẬN VĂN:

Mở rộng và nâng cao chất lượng tín
dụng đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh








Mở bài



Để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Đại hội
Đảng lần thứ 7 đã chỉ ra rằng nước ta cần phải “xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, khuyến khích xuất khẩu đồng thời
thay thế hàng nhập khẩu bằng các sản phẩm hữu hiệu được sản xuất trong nước”. Với
tinh thần đó nước ta đã thực hiện AFTA, gia nhập APEC và khi có đủ điều kiện sẽ
gia nhập WTO.
Có thể nói không một nước nào đạt được tốc độ phát triển nhanh mà không có
mở cửa kinh tế và tích cực hội nhập. Điều đó buộc các doanh nghiệp trong nước phải
chấp nhận cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên “sân
nhà” theo luật chơi chung do cộng đồng quốc tế quy định. Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh của ta chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 90% tổng số các doanh
nghiệp, có vai trò đặc biệt quan trọng tạo việc làm, tạo thu nhập, góp phần ổn định
đời sống xã hội. Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn tham gia
tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu do đó nâng cao cạnh tranh của khu vực này
nhằm giữ vững thị trường trong nước, củng cố và mở rộng thị trường nước ngoài, có
ý nghĩa quan trọng trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới. Để đạt được điều đó,
hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 8 đã đặt ra mục tiêu xây
dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó tập trung phát triển khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh đáp ứng nhu cầu cả trong và ngoài nước cả về mặt chất
lượng và giá cả.
Ngoài những điều kiện kinh tế xã hội như thị trường, thiết bị công nghệ, nhà
xưởng, trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp, trình độ lao động, hệ thống chính
sách pháp luật của Nhà nước… Để đảm bảo phát triển nhanh mạnh và có hiệu quả
đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình hội nhập thì một điều
không thể không nhắc tới là điều kiện về vốn. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
đều cần có vốn trong khi các doanh nghiệp này hiện nay rất hạn hẹp và gặp nhiều khó
khăn lớn, tuy vậy vốn của Ngân hàng tiếp cận với các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh vẫn còn nhiều hạn chế, điều đó phải chăng là do chất lượng tín dụng đối với
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn chưa cao.




Trong quá trình học tập tại ĐHKTQD và đồng thời thực tập tại Ngân hàng
Công thương Hoàn Kiếm em nhận thấy được những khó khăn của Ngân hàng Công
thương Hoàn Kiếm nói riêng và Ngân hàng thương mại nói chung đang phải đối mặt
trong công tác cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Bởi vậy sau khi
thực tập tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm em xin trình bày đề tài: “Mở rộng
và nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh (nghiên
cứu tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm)”. Kết cấu của chuyên đề
gồm 3 chương:
+ Chương I: Tổng quan về tín dụng và hoạt động tín dụng đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm.
+ Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất
lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng
Công thương Hoàn Kiếm.



Chương I
Tổng quan về tín dụng và hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
1.1 Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh.
1.1.1 Những vấn đề chung về ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất.
Tiền thân của nghiệp vụ ngân hàng hiện đại bắt đầu từ khi sản xuất hàng hoá ngày

càng phát triển, trao đổi hàng hoá và lưu thông hàng hoá được mở rộng. Do đó, sự
khác biệt giữa các đồng tiền ở các vùng khác nhau dẫn đến một thương nhân đã thực
hiện đổi tiền đúc cho các nhà buôn và thường được gọi là các “thương gia tiền tệ”.
Việc sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển đã xuất hiện nhiều thương gia giàu có,
họ không biết dùng tiền để làm gì và muốn cất giữ nó ở một nơi an toàn. Khi đó hoạt
động nhận tiền gửi xuất hiện. Cùng với hoạt động này hoạt động chi trả hộ cũng hình
thành. Do tích luỹ được nhiều tiền nên các thương gia tiền tệ này kiêm cả nghề cho
vay. Trong thời gian dài, từ nghề đổi tiền đã phát triển thành nghề ngân hàng. Các
thương nhân đổi tiền trở thành các chủ ngân hàng.
Như vậy nghề ngân hàng thời kỳ đầu chỉ bao gồm những nghiệp vụ đơn giản
như: đổi tiền, nhận tiền gửi, bảo quản hộ tiền, thanh toán, cho vay. Cùng với sự phát
triển kinh tế, số lượng các tổ chức kinh doanh tiền ngày càng tăng và nghiệp vụ mới
được áp dụng: thanh toán bù trừ, thanh toán bằng thương phiếu, nghiệp vụ bảo lãnh
trong cho vay và thanh toán. Vào thế kỷ XVII, loại hình ngân hàng hiện đại thực sự
xuất hiện trên thế giới như: ngân hàng Amxtecdam (1603 - Hà Lan), ngân hàng
Hămbuôc (1619 - Đức) và ngân hàng Anh Quốc (1964) nhưng là hệ thống ngân hàng
một cấp. Đến thế kỷ XVIII và XIX, sự mở rộng nhanh chóng kinh tế hàng hoá ở các
nước Tây Âu và Bắc Mỹ đã thúc đẩy hình thành ngân hàng hai cấp. Sau chiến tranh
thế giới thứ 2, với xu thế quốc tế hoá, nhất thể hoá và kinh tế tài chính, hệ thống ngân
hàng ở mỗi nước được hoàn chỉnh thêm một bước, đồng thời trên thế giới xuất hiện



các tổ chức quốc tế: Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển
khu vực.
Có nhiều khái niệm về NHTM:
Theo pháp lệnh ngân hàng và các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Ngân hàng
thương mại là một doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động
tín dụng”.
Theo luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là tổ chức

tín dụng mà được thực hiện tất cả những hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm nhiệm vụ
ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”.
Từ những khái niệm trên theo em hiểu thì: NHTM là một tổ chức kinh tế kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ với những hoạt động chính là nhận tiền gửi với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và làm phương tiện thanh toán.
1.1.1.2 Hoạt động của Ngân hàng thương mại.
1.1.1.2.1 Tạo lập nguồn vốn
a. Huy động vốn
Huy động vốn nhàn rỗi của xã hội là một trong những hoạt động quan trọng
hàng đầu của NHTM. Nó tạo ra nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh của bất kỳ ngân
hàng nào. NHTM huy động thông qua tiền gửi, phát hành trái phiếu và đi vay.
+ Tiền gửi
Người ta gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích: để bảo quản, để thu nhập,
để sử dụng dịch vụ chi trả hộ và để vay. Dựa trên mục đích của người gửi tiền, tiền
gửi được phân chia thành hai loại: tiền gửi giao giao dịch và tiền gửi phi giao dịch.
Tiền gửi giao dịch: là tiền gửi không có cam kết về kỳ hạn nhằm mục đích
thanh toán, gồm tiền gửi có thể phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc
chuyển tiền.
Tiền gửi phi giao dịch: là các khoản tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, xã hội, tiết kiệm dân cư. Đây là những khoản tiền không thanh toán,
tạm thời nhàn rỗi, hiệu suất sử dụng cao vì nó tương đối ổn định nhưng lãi suất cao
hơn tiền gửi giao dịch.



+ Nguồn vay
Phát hành trái phiếu: gồm tín phiếu ngân hàng, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu
ngân hàng.
Vay từ ngân hàng trung ương, từ các NHTM khác nhằm bù đắp thiếu hụt, đảm
bảo thanh toán khi cần thiết.

+ Ngoài ra ngân hàng còn có các hoạt động khác như: nhận uỷ thác đầu tư,
đầu tư tài chính nhưng không nhiều.
b. Vốn pháp định
Vốn pháp định là vốn ban đầu theo luật định khi đi vào kinh doanh. Tuy
nhiên nó gia tăng trong quá trình hoạt động bằng cách trích từ lợi nhuận kinh doanh
hoặc tăng mức đóng góp của chủ sở hữu. Bên cạnh vốn pháp định, các NHTM còn
lập các quỹ dự trữ.
1.1.1.2.2 Sử dụng và khai thác các nguồn vốn
Hướng cơ bản trong sử dụng và khai thác các nguồn vốn của NHTM là cho
vay và đầu tư trong đó chức năng cho vay là chủ yếu.
a. Cho vay
Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay thì có thể phân thành 3 loại:
+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay truyền thống, có vị trí cơ bản trong hoạt
động sử dụng và khai thác các nguồn vốn của NHTM, bao gồm những khoản cho vay
có thời hạn dưới 1 năm.
+ Cho vay trung và dài hạn: là loại cho vay được thực hiện đối với những
chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội. Bao gồm những khoản cho vay trên một
năm. Một mặt chúng đáp ứng yêu cầu vay vốn trung và dài hạn của xã hội để mở
mang các ngành nghề sản xuất kinh doanh. Mặt khác chúng phù hợp với khả năng
huy động vốn ngày càng nhiều của NHTM.
b. Đầu tư



Đầu tư hay còn gọi là hoạt động chứng khoán giúp NHTM sử dụng và khai
thác tối đa các nguồn vốn đã huy động, đồng thời mang lại nguồn thu nhập quan
trọng cho ngân hàng. Hoạt động đầu tư như:
+ Mua chứng khoán ngắn hạn của Chính Phủ: đem lại thu nhập cho Ngân
hàng, đảm bảo cân bằng thu chi ngân sách, điều hoà lưu thông tiền tệ.
+ Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp: tham gia vào việc thành lập và quản

lý các doanh nghiệp nhằm mang lại thu nhập cho ngân hàng đồng thời giảm rủi ro
cho ngân hàng trong quá trình giám sát khách hàng trong quá trình sử dung vốn vay.
c. Hoạt động ngân quỹ (có thu phí)
Hoạt động ngân quỹ là hoạt động liên quan đến việc thu chi tiền mặt. Nó bao
gồm: nghiệp vụ quỹ tiền mặt, tiền gửi ở các ngân hàng khác, tiền trong quá trình
đang thu, nghiệp vụ chứng khoán ngắn hạn.
1.1.1.2.3 Các hoạt động nhận uỷ thác
a. Hoạt động bảo lãnh: là nghiệp vụ ngân hàng cam kết trả tiền thay cho khách
hàng được bảo lãnh trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ
với bên yêu cầu bảo lãnh. Hoạt động này mang lại thu nhập cho ngân hàng thông qua
phí bảo lãnh.
b. Hoạt động thanh toán tiền hàng, dịch vụ, quản lý, phát hành chứng khoán,
mua bán, bảo quản chứng khoán, cung cấp thông tin, tư vấn kinh doanh.
c. Các hoạt động khác như dịch vụ cho thuê két sắt.
1.1.2 Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
1.1.2.1 Tín dụng Ngân hàng
a. Khái niệm
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế phát sinh trong đó chủ thể này chuyển cho
chủ thể khác một lượng giá trị dưới dạng tiền hoặc hàng hóa với những điều kiện mà
hai bên thỏa thuận.
Trong quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:



Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá
trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc hình thái hiện vật như hàng hóa, máy móc
thiết bị, bất động sản.
Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi
hết hạn sử dụng theo thoả thuận người đi vay phải hoàn trả người cho vay.
Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn lúc cho vay hoặc nói cách khác

người đi vay phải trả thêm lợi tức.
Trong quan hệ tín dụng, có nhiều loại chủ thể tham gia như: Nhà nước, Ngân
hàng, doanh nghiệp, cá nhân người tiêu dùng. Với mỗi loại chủ thể có thể phát sinh
nhiều loại quan hệ tín dụng khác nhau như: tín dụng Nhà nước, tín dụng Ngân hàng,
tín dụng thuê bao.
Tín dụng Ngân hàng là một hoạt động mà trong đó Ngân hàng luôn đóng vai
trò là người cho vay, nguồn vốn chủ yếu mà Ngân hàng cho vay là nguồn tiền gửi và
Ngân hàng chỉ đi vay trong những trường hợp khẩn cấp.
b. Phân loại tín dụng Ngân hàng
Có nhiều loại tín dụng khác nhau tuỳ theo tiêu thức phân chia, như phân chia
theo thời hạn, theo mục đích sử dụng vốn, theo đối tượng, theo hình thức đảm bảo
vốn vay.
* Phân loại theo mục đích sử dụng:
+ Tín dụng đối với bất động sản: là loại tín dụng liên quan đến việc mua bán
và xây dựng nhà cửa, đất đai.
+ Tín dụng công nghiệp và thương mại: là loại tín dụng ngắn hạn hoặc dài hạn
để bổ xung vốn ngắn hạn hoặc trung dài hạn cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực
công nghiệp thương mại và dịch vụ.
+ Tín dụng nông nghiệp: là loại tín dụng để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng,thức ăn gia súc, nhiên liệu.
* Phân loại theo thời hạn:



+ Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để
bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của cá nhân. đối với NHTM tín dụng cá nhân chiếm tỷ trọng cao.
+ Tín dụng trung hạn: Thời hạn của tín dụng trung hạn thường là không cố
định.Trước đây thời hạn mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra với tín dụng trung hạn là 1
đến 3 năm. Tuy nhiên đến nay để đáp ứng yêu cầu vay của các doanh nghiệp, các

NHTM đã đưa thời hạn này lên 5 năm. Việc nâng thời hạn tín dụng lên 5 năm đã đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp vì đối với một tài sản cố định có thời hạn sử
dụng tương đối dài nên cần phải có thời gian đủ lớn doanh nghiệp mới có thể hoàn
trả gốc và lãi cho ngân hàng và sẽ giúp cho doanh nghiệp tránh rơi vào tình trạng nợ
quá hạn. Còn đối với các nước khác trên thế giới thời hạn này lên tới 7 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tạo
hoặc đổi mới công nghệ thiết bị, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
quy mô vừa và nhỏ phục vụ đời sống sản xuất…Trong nông nghiệp tín dụng trung
hạn chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng như máy cày, máy bơm nước, xây dựng các
vườn cây công nghiệp như cà phê, điều.
+ Tín dụng dài hạn:
Là loại tín dụng mà thời hạn của nó dài hơn so với tín dụng trung hạn. Loại tín
dụng này được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị,
các phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp, nhà máy lớn, các dự
án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng…
Đối với các NHTM chủ yếu vẫn là ngiệp vụ tín dụng ngắn hạn, từ những năm
70 trở lại đây tuy đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp nhưng nghiệp vụ vẫn còn
nghèo nàn, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của nền kinh tế.
* Phân loại theo căn cứ bảo đảm.
+ Tín dụng không bảo đảm: là loại tín dụng không cần tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba.
+ Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng mà ngân hàng chỉ cấp khi khách hàng
phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có người thứ ba đứng ra bảo lãnh.



Ngoài ra còn nhiều cách phân loại khác nhau như theo phương thức hoàn trả,
theo xuất xứ món vay, theo hình thái giá trị.
c. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý, vai trò tín dụng ngân hàng cũng có sự

thay đổi về bản chất. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp tín dụng được coi như một
công cụ cấp phát thay ngân sách. Chính vì vậy xảy ra tình trạng nơi cần vốn để sản
xuất thì không có hoặc không kịp thời, nơi thì lại để vốn nằm ứ đọng trong một thời
gian dài. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường hầu như tình trạng dó đã chấm
dứt. Ngày nay, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy quan trọng cho nền kinh tế, là nguồn
vốn quan trọng, chủ động để phát triển kinh tế trong nước. Tín dụng ngân hàng có ý
nghĩa quan trọng cho toàn bộ nền kinh tế, tạo ra khả năng tài trợ cho các ngành công
nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp… và tạo ra khả năng tiêu dùng cho dân cư,
khuyến khích nhu cầu tiêu dùng sản phẩm. Điều đó tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ
cho nền kinh tế.
Trong các ngành sản xuất kinh doanh, tư khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu
dùng đều có sự tham gia của tín dụng.
Dưới đây là những vai trò cụ thể của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường, đặc biệt là đối với nền kinh tế nước ta.
+ Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập chung vốn cho sản xuất.
Hoạt động tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dân, là cầu
nối giữa cung và cầu. Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, các NHTM luôn cố gắng đạt
được lợi nhuận tối đa. Hoạt động tín dụng mang lại khoảng 70% thu nhập cho ngân
hàng. Chính vì vậy, thông qua hoạt động huy động vốn, các ngân hàng đã tập chung
được các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Trên cơ sở đó, các ngân hàng lại đưa nguồn tiền đó trở lại nền kinh tế, đáp ứng
nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất mở rộng với quy mô ngày càng lớn hơn cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc tập chung và phân phối tín dụng đã góp phần điều hoà
vốn trong toàn bộ nền kinh tế từ nơi thừa sang nơi thiếu. Như vậy tín dụng ngân hàng
được sử dụng như một công cụ quản lý tích cực tác động to lớn đối với sự phát triển



của nền kinh tế quốc dân. Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là
động lực khuyến khích tiết kiệm cũng như đầu tư.

+ Đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng cho đầu tư phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức sản xuất kinh doanh luôn phải cạnh
tranh gay gắt với nhau. Do đó nhu cầu đầu tư phát triển là rất cần thiết. Nếu thực hiện
được trình đó thì nhân tố không thể thiếu là vốn. Để có vốn, các doanh nghiệp có thể
tìm kiếm ở các nguồn khác nhau, nhưng thường thì các doanh nghiệp tìm đến ngân
hàng. Đây là nơi cung cấp vốn ổn định và an toàn, sẵn có và rẻ nhất. Như vậy, thông
qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế đồng
thời giải quyết các vấn đề xã hội.
+ Tín dụng ngân hàng tài trợ cho ngành kinh tế chủ lực, ngành kinh tế mũi
nhọn, ngành kinh tế kém phát triển.
Đối với nước ta là một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ,
lạc hậu, đầu tư phát triển cho các ngành kinh tế chủ lực, các ngành kinh tế mũi nhọn
vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài để theo kịp các nước trong khu vực
và trên thế giới. Tín dụng ngân hàng đã góp phần phát triển các ngành kinh tế này
thông qua việc cho vay đưới các hình thức khác nhau, qua đó đã góp phần vào quá
trình tăng trưởng của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước rất quan
trọng đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sao cho sử dụng toàn bộ tài nguyên và
sức lao động hiệu quả nhất. Do vậy, nhà nước phải ưu tiên phát triển một số ngành
kinh tế ít sinh lợi, một số ngành kinh tế kém phát triển. Trong việc làm này nhà nước
cũng cần sự hỗ trợ tín dụng của ngân hàng.
+ Thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các
doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là công cụ kinh tế phục vụ cho tất cả các
hoạt động kinh tế xã hội. Hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tăng nhanh vòng quay vốn. Cơ hội kinh doanh không nhiều và chỉ mang tính
chất thời điểm. Trong sự cạnh tranh gay gắt này, vốn đầu tư là yếu tố quyết định sự
thành đạt của một doanh nghiệp hầu hết các doanh nghiệp đều tìm đến ngân hàng




như là một nguồn vốn cho vay linh hoạt nhất. Tuy nhiên, để được vay vốn của ngân
hàng, các doanh nghiệp phải chứng tỏ được tính khả thi của dự án đầu tư, sự lành
mạnh của tình hình tài chính cũng như khả năng hoàn trả lãi đúng thời hạn. Nguồn
vốn của ngân hàng không phải là vô hạn nên chỉ những sự án có mức sinh lời cao
mới được vay vốn ngân hàng. Bởi vì đây là hoạt động sinh lời chủ yếu nên ngân hàng
phải hết sức cân nhắc khi cho vay. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn ngân hàng
đều phải cam kết thực hiện các điều kiện nhằm đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục
đích, có hiệu quả phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nếu không
thực hiện đúng cam kết các doanh nghiệp sẽ phải chịu lãi suất phạt, tài sản thế chấp
bị phát mãi và quan trọng hơn cả là uy tín của doanh nghiệp trên thị trường bị giảm
sút.
Chính vì những lý do trên mà các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để
tăng hiệu quả sử dụng vốn nhằm tạo ra lợi nhuận cao hơn, đồng thời hoàn thiện công
tác hạch toán kế toán. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp cạnh tranh được với các doanh
nghiệp khác trong cuộc chạy đua nhằm vay vốn của ngân hàng. Như vậy tín dụng
ngân hàng đã gián tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo
động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
+ Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển quan hệ đối ngoại.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển kinh tế của một nước luôn gắn liền với
sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Sự hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có lợi giữa
các nước trên thế giới và trong khu vực đang được phát triển đa dạng cả về nội dung
và hình thức, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đó là nhân tố hết sức quan trọng cho sự
hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và cho sự phát triển kinh tế của mỗi nước, đặc biệt
là các nước đang phát triển, trong đó có nước ta. Tín dụng ngân hàng đã trở thành
một trong các phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau qua việc đầu tư vốn
ra nước ngoài và tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ. Để thực
hiện quá trình đầu tư ra nước ngoài hay các hoạt động thương mại giữa các nước, yếu
tố đầu tiên có ý nghĩa quyết định là vốn bằng tiền. Lượng vốn cần cho các hoạt động
này là rất lớn mà các doanh nghiệp thường không thể có đủ. Do vậy tín dụng là

nguồn vốn tài trợ đắc lực cho các doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh, xuất nhập
khẩu hàng hoá.



ở nước ta, trong thời gian qua tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào
quá trình hợp tác kinh tế với các nước mà chủ yếu là tài trợ cho hoạt động ngoại
thương, hoạt động đầu tư theo các hiệp định giữa Chính phủ nước ta với Chính phủ
các nước khác, đồng thời tận dụng nguồn vốn tín dụng từ bên ngoài để tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2.2 Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.2.2.1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
a. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Nếu nghiên cứu cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hình thức sở hữu đối với tư liệu
sản xuất thì cơ cấu kinh tế Việt Nam bao gồm: kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài
quốc doanh. Trong đó kinh tế quốc doanh mang hình thức sở hữu nhà nước về tư liệu
sản xuất còn kinh tế ngoài quốc doanh mang hình thức sở hữu phi nhà nước về tư liệu
sản xuất.
Từ trước năm 1986 kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta chỉ duy nhất là kinh tế
tập thể với hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Sau năm 1986, nền kinh tế
chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, đa thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh được mở rộng thêm các thành phần kinh tế khác bao gồm các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và sản xuất nhỏ (hộ gia đình). Các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh là các đơn vị sản xuất kinh doanh có tính chất tư hữu (không kể
các đơn vị đầu tư nước ngoài). Xét về loại hình doanh nghiệp bao gồm: các doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các đơn vị theo
hình thức hợp tác xã.
+ Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
+ Công ty TNHH: là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành viên

phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi rõ
trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng
khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do.
Việc chuyển vốn góp cho người không phải là thành viên phải được sự nhất trí của



nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty. Có công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
+ Công ty cổ phần: là công ty trong đó số thành viên gọi là cổ đông mà công
ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là 03 người. Vốn điều lệ của công ty
được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ phiếu được phát hành có ghi
tên hoặc không ghi tên, cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng, cổ phiếu
có ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu có sự đồng ý của hội đồng quản trị.
+ Hợp tác xã: là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn sản xuất
kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên nguyên tắc bình đẳng,
dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi thành viên nhằm kết hợp sức mạnh
tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề về sản xuất kinh doanh và đời
sống. Cơ quan cao nhất là đại hội xã viên, cơ quan quản lý hoạt động của hợp tác xã
là ban chủ nhiệm hợp tác xã được các xã viên bầu ra theo luật hợp tác xã.
Trong những năm gần đây quan điểm phát triển nền kinh tế nước ta bằng con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn dân đòi hỏi sự
khác nhau của các thành phần kinh tế. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
đã tăng lên nhanh chóng và tham gia tích cực hơn vào thị trường, góp phần làm cho
nền kinh tế trở nên sôi động.



Bảng 1: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới đăng ký trong từng năm
Năm 1991


1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Số lượng
DN
110 3985 7493 7175 6158 5490 3657 3022 3601 14417

Tổng lượng
vốn (tỷ
đồng)
118 3015 3458 2588 2880 2506 1784 2204 3435 13783

Vốn trung
bình (triệu
đồng)
1073

757 461 361 468 435 488 729 954 956
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Nếu năm 1991 mới chỉ có 110 doanh nghiệp ngoài quốc doanh với số vốn điều
lệ 118 tỷ VND. Thì đến năm 1992 đã có 3985 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đăng
ký kinh doanh với số vốn điều lệ 3015 tỷ VND. Sang năm 1993 con số này tăng lên
7493 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký kinh doanh là 3458 tỷ VND. Với tốc độ
phát triển như vậy năm 1996 đã có 26091 doanh nghiệp với số vốn điều lệ là 8257 tỷ
VND tương đương khoảng 14% tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp nhà nước.
Năm 2000, cùng với sự ra đời của thị trường chứng khoán, và chủ trương của Đảng
là cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần đã tăng lên một cách
nhanh chóng, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng được mở rộng. Chỉ tính
riêng trong năm 2000 đã có 14417 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đăng ký kinh
doanh với tổng số vốn điều lệ là 13783 tỷ VND. Qua thực trạng phát triển của doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng khẳng

định được vị trí của mình trong nền kinh tế. Sự tồn tại và phát triển của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh là một tất yếu khách quan, cần được sự ủng hộ và hỗ trợ
của Đảng và nhà nước để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển ngày càng
lơn mạnh.
b. Vai trò của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh



Đối với nền kinh tế:
+ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng góp ngân sách nhà nước.
Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đóng góp rất quan
trọng, làm tăng GDP thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng của khu vực
ngoài quốc doanh rất nhanh chóng, đến nay chưa có só liệu chính thức được công bố
về đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, theo ước tính doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 27 - 30%
GDP, thì phần còn lại của khu vực ngoài quốc doanh chiếm khoảng 25 - 28% GDP.
Theo báo cáo gần đây của tổng cục thống kê thì doanh nghiệp tư nhân, công ty
TNHH, công ty cổ phần đã tạo ra khoảng 8% GDP, hộ kinh doanh cá thể tạo ra
khoảng 8 - 9% GDP và các hợp tác xã tạo ra khoảng 9% GDP.
Như vậy, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không kể sản xuất nông nghiệp đã
tạo ra khoảng 25 - 26% GDP của cả nước. Riêng năm 2000 luật doanh nghiệp ra đời
đã đẩy tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên
18,3% so với 10,9% năm 1999 và là mức cao nhất trong 10 năm qua. Qua sự phát
triển ngày càng mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà tổng giá trị thuế
nhà nước thu được từ khu vực này tăng lên góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng
tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Thu hút vốn trong dân cư, tăng thu nhập người lao động.
Theo bộ kế hoạch và đầu tư, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh đóng góp quan trọng trong việc huy động vốn cho nền kinh tế. Tổng vốn

của doanh nghiệp tư nhân, công TNHH, công ty cổ phần từ năm 1990 - 1999 là
24.500 tỷ VND chiếm 17,8% tổng số vốn đăng ký của tất cả các doanh nghiệp hoạt
động theo pháp luật (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước). Tổng số vốn đầu tư thực tế
của các doanh nghiệp, công ty tư nhân có lẽ còn cao hơn nhiều con số này.
Hết năm 2000 số vốn đã đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh theo luật doanh nghiệp mới khoảng 24.000 tỷ VND (khoảng 1,65 tỷ USD).
Tính đến tháng 03 năm 2001 cả nước có khoảng 18.400 doanh nghiệp được thành lập
với tổng số vốn đăng ký khoảng 28.000 tỷ VND (khoảng 1,9 tỷ USD). Như vậy một



lượng vốn lớn trong nhân dân đã được đưa vào sản xuất kinh doanh, bởi phần lớn số
vốn của các doanh nghiệp tư nhân là ngồn vốn phi chính thức vay của anh em họ
hàng, mua bán chịu, vay nặng lãi, chơi hụi họ…Nguồn vốn chính tức từ ngân hàng
và các tổ chức tín dụng chỉ chiếm số lượng thiểu số. Qua đó 500.000 chỗ là việc mới
đã được tạo ra góp phần tăng thu nhập của người lao động, giải quyết nạn thất nghiệp.
Trong những năm tới đây để khu vực kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa nhà nước cần
tạo ra môi trường kinh tế thông thoáng hơn cho khu vực kinh tế này, xác định rõ ràng
vai trò của từng thành phần kinh tế.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đa số hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ. Trong năm 2000, 32% doanh nghiệp mới được thành lập hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, 26% hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương
mại, 6% hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tổng hợp. Như vậy, ở thành phố các
doanh nghiệp này làm gia tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Việc các doanh nghiệp được hình thành ở các
vùng nông thôn cũng làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp ở vùng này, là gia tăng tỷ
trọng công nghiệp cơ khí, chế biến nông sản, đồng thời kéo theo sự gia tăng, phát
triển của các loại hình dịch vụ. Sự phát triển ngày càng nhiều các doanh nghiệp mới
thúc đẩy tiến trình chuyên môn hoá, công nghiệp hoá trong ngành công nghiệp và

nông thôn, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên, góp phần tăng tổng GDP lên,
giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
+ Làm nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt, vừa là
đối tác làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, cung cấp đầu vào cho doanh
nghiệp quốc doanh. Sự liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tạo ra một dây chuyền sản xuất lớn của xã hội, giúp cho
thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn lại và sản phẩm sản xuất ra là hoàn thiện
hơn với chất lượng tốt hơn, Như vậy, sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đã thúc đẩy và tăng cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra giữa
các thành phần kinh tế phải luôn đổi mới để tồn tại và phát triển. Muốn tiêu thụ sản



phẩm hàng hoá, doanh nghiệp phải tìm kiếm khách hàng, bằng mọi cách thu hút
khách hàng mua sản phẩm của mình. Qua đó, doanh nghiệp sẽ tự hoàn thiện yêu cầu
ngày càng cao của người tiêu dùng.
Đối với xã hội
+ Đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu xã hội
Những năm gần đây khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, hàng loạt
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện trong các lĩnh vực như công nghiệp,
chế biến thương mại, dịch vụ… góp phần làm cho nền kinh tế trở nên hết sức đa dạng
và phong phú. Khách hàng trở thành thượng đế, hàng hoá tràn ngập thị trường với
nhiều chủng loại đáp ứng tốt nhất yêu cầu của người tiêu dùng. Việc cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp đã góp phần tạo ra các sản phẩm có hình tức, mẫu mã đẹp, giá
thành hạ đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Không chỉ vậy, các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh còn tạo ra nguồn thu nhập, tăng sức mua của thị trường, kích thích các
ngành sản xuất, thương mại dịch vụ phát triển đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng của
người tiêu dùng. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với hình thức đa dạng chủ yếu

là quy mô vừa và nhỏ, chuyển đổi kinh doanh nhanh xâm nhập vào mọi nơi của thị
trường mà các doanh nghiệp Nhà nước không thực hiện được. Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tồn tại như một thực thể khách quan nhằm lấp những chỗ trống trong nhu
cầu đa dạng của thị trường mà các doanh nghiệp Nhà nước không đáp ứng được.
Qua thực tiễn hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta nhận thấy
một điều là: cùng với sự ra đời và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì
hàng hoá trên thị trường đã hết sức đa dạng, từ hàng hoá thiết yếu đến hàng hoá
thông thường, phong phú về mẫu mã, chất lượng chủng loại.
+Việt Nam là một quốc gia có dân số đông và trẻ, vì vậy trung bình hàng năm
có từ 1,2 - 1,4 triệu thanh niên gia nhập vào thị trường lao động gây nên một sức ép
lớn cho việc giả quyết việc làm ngày càng lớn giữa cung và cầu lao động kể cả về
mặt chất lượng và về mặt số lượng. Trong khi khu vực kinh tế Nhà nước đang sắp
xếp lại và tinh giảm biên chế tạo ra một lượng lớn lao động dư thừa, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hàng năm cũng chỉ thu hút được khoảng 30.000 chỗ
làm việc mới thì số lượng người làm việc hàng năm ở khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh tăng nhanh hơn rất nhiều số người làm việc trong khu vực Nhà nước và những



năm gần đây và hiện nay. Khu vực tư nhân đã thu hút chủ yếu người lao động, trở
thành “cứu cánh cho nền kinh tế” nếu xét trên phương diện việc làm.
Tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp Năm 1998
Doanh nghiệp Nhà
nước
Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh
Doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài
22.4% 65,5% 12%
Năm 2000, các doanh nghiệp mới thành lập đã tạo ra hơn 500.000 việc làm,

hầu hết trong số những người nhận việc làm đều là thanh niên, học sinh, sinh viên
mới gia trường. Nhờ đó gián tiếp làm giảm gánh nặng cho xã hội, bởi tỷ lệ thuận với
số thanh niên thất nghiệp là tệ nạn xã hội gia tăng khi không có việc làm. Giải quyết
được việc làm cho thanh niên cũng chính là góp phần ổn đỉnh xã hội , đẩy lùi tệ nạn
trong xã hội.
+ Nâng cao đời sống nhân dân, giảm chênh lệch thu nhập.
Từ khi áp dụng luật doanh nghiệp mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát
triển mạnh, đem lại rất nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Hiện nay các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh giải quyết một lượng lao động lớn cho xã hội nhất là lao động có
trình độ học vấn thấp. Qua đó nâng cao đời sống của bộ phận dân nghèo, phân phối
thu nhập cho mọi tầng lớp xã hội, góp phần giảm chênh lệch giầu nghèo trong xã hội.
Chính sự năng động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà nhu cầu của người
tiêu dùng đều được đáp ứng một cách nhanh chóng, đời sống, vật chất và tinh thần
của được củng cố nâng cao về mọi mặt…
1.1.2.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Có thể nói, rất ít các doanh nghiệp chỉ sử dụng vốn tự có của mình để hoạt
động sản xuất kinh doanh, bởi lẽ điều đó không những hạn chế khả năng mở rộng sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn làm tăng chi phí vốn. Hiện nay, để thực
hiện các quyết định đầu tư, doanh nghiệp thường thích sử dụng vốn vay vì nếu chủ sở



hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn góp thì tỷ lệ rủi ro
trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ khác gánh chịu, mặt khác bằng cách
tăng vốn thông qua vay nợ, chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát doanh
nghiệp. Ngoài ra nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn lãi vay
phải trả thì lợi nhuận dành cho chủ doanh nghiệp gia tăng đáng kể. Hơn nữa lãi vay

được tính trong chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập, từ đó công ty sẽ được hưởng
một phần lợi từ thuế. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá cao thì doanh nghiệp sẽ bị rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán. Việc tăng sử dụng nợ làm tăng rủi ro của các luồng
tiền vào công ty. Nhưng tỷ nợ quá cao thường đẫn đến mức lãi suất mong đợi cao
hơn. Vì vậy, rủi ro cao hơn cùng với khuynh hướng làm giảm giá cổ phiếu, nhưng
mức lãi suất mong đợi cao hơn. Do đó công ty phải xác định một cơ cấu vốn tối ưu
đó là một cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa lãi suất và rủi ro đồng thời tối đa được
giá cổ phiếu của công ty. Qua đó, chúng ta thấy rằng doanh nghiệp sử vốn vay từ
ngân hàng hay vốn vay từ tín dụng sẽ góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần tăng quy mô vốn lưu động của doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Do đặc điểm sản xuất của các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh
thường có chu kỳ sản xuất nhanh, đòi hỏi thường xuyên phải bổ sung vốn lưu động
vượt qua khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Vốn lưu động là số tiền ứng trước để
trả lương, mua nguyên nhiên vật liệu chính, vật phụ liệu, phụ tùng thay thế, một số
công cụ lao động nhỏ và các chi phí khác phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh.
Thông thường nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp không lớn hơn nhiều so
với vốn tự có của doanh nghiệp. ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chủ yếu sử dụng vốn tự có để kinh doanh nhưng nguồn vốn này rất thấp. Do
đó, sự có mặt của vốn vay dưới hình thức tín dụng ngắn hạn là nguồn bổ sung vốn
lưu động rất quan trọng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong nền kinh
tế thị trường hàng hoá của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không phải lúc nào
cũng tiêu thụ ngay được, nếu có tiêu thụ được thì cũng không phải lúc nào cũng thu
được tiền ngay. Trong khi đó thì sản xuất không thể ngừng được. Để việc sản xuất
kinh doanh tiến hành bình thường, liên tục và có hiệu quả nếu chỉ có doanh nghiệp



thì khó có thể giải quyết được vấn đề này nên cần thiết phải thông qua tín dụng ngân
hàng để bổ sung vốn lưu động cho chính mình.

+ Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư
chiều sâu, đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như các doanh nghiệp Nhà nước có
đặc trưng chung là trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu. Hầu hết các thiết bị sản xuất
đều cũ kỹ, tuổi thọ khá cao, thường xuyên trên 20 năm và được tân trang lại. Do đó
các sản phẩm làm ra có giá thành cao, chất lượng thấp, không cạnh tranh được với
hàng ngoại nhập, dẫn đến tình trạng sản xuất kinh doanh bị thua lỗ. Bởi vậy, nhu cầu
đổi mới kỹ thuật công nghệ của các doanh nghiệp ngày càng trở nên bức xúc. Với
khả năng của mình NHTM hoàn toàn có thể hỗ trợ vốn giúp các doanh nghiệp từng
bước tháo gỡ các khó khăn, thích nghi với thị trường thông qua hoạt động cho vay
trung và dài hạn. Ngoài ra, NHTM cũng có thể giúp các doanh nghiệp thực hiện việc
đổi mới công nghệ thông qua hình thức tín dụng thuê mua đây là hình thức cho thuê
máy móc, thiết bị để phục vụ cho hoạt động sản xuất, được ngân hàng mua theo yêu
cầu của bên thuê. Hình thức này được thực hiện theo thể lệ tín dụng thuê mua đã
được ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành. Bên thuê có quyền tự chọn bên cung
ứng hàng, thương lượng và thỏa thuận chủng loại, giá cả, việc bảo đảm, cách thức và
thời gian giao hàng, việc lắp đặt, bảo lãnh và những vấn đề khác liên quan đến tài sản
thuê mua. Quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên được xác định dựa trên hợp đồng
tín dụng thuê mua đã ký kết. Nhờ đó, các doanh nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi
hơn trong việc đầu tư trang thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp mình.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có
hiệu quả hơn.
Tín dụng ngân hàng với đặc điểm là buộc người vay phải trả gốc và lãi trong
thời gian nhất định nào đó đã buộc người kinh doanh phải nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn vay. Người đi vay phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ quay vòng vốn để sao
cho khi hết hạn vay có đủ vốn và lãi trả cho ngân hàng và tạo ra một phần lợi nhuận
cho mình. Với điều kiện ràng buộc về lãi suất, thời gian vào mục đích sử dụng vốn
vay và thúc đẩy sản xuất kinh doanh của mình sao cho đạt được hiệu quả cao nhất.




Như vậy, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh của các
doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.2 Chất lượng tín dụng.
1.2.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng.
Để tìm hiểu khái niệm chất lượng tín dụng trước hết ta đi xem xét khái niệm
hẹp hơn, đó là chất lượng của một khoản tín dụng:
Chất lượng của một khoản TDNH có thể được hiểu là lợi ích kinh tế mà khoản
tín dụng đó có thể mang lại cho cả người đi vay (khách hàng) và người cho vay (ngân
hàng). Một khoản tín dụng ngân hàng được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại
lợi ích kinh tế cao cho cả ngân hàng và khách hàng, tức là vốn vay được người vay
đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả gốc
và lãi vay, vừa trang trải các chi phí khác và đảm bảo có lợi nhuận, qua đó đóng góp
vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Xét về phía ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả
kinh tế vừa mang lại hiệu quả xã hội.
Với tư cách là một trung gian tài chính trong nền kinh tế, hoạt động chủ yếu
và thường xuyên nhất là nhận tiền gửi và cho vay, chất lượng tín dụng luôn là mối
quan tâm hàng đầu của các NHTM. Chất lượng TDNH đương nhiên được tạo nên bởi
chất lượng của từng khoản tín dụng. Song không chỉ có vậy, nếu bó hẹp khái niệm
chất lượng tín dụng đồng nghĩa với chất lượng của một khoản tín dụng thì rõ ràng là
không đầy đủ và không phản ánh được chính xác tính đa dạng và phức tạp của hoạt
động TDNH. Do đó, một cách đầy đủ có thể hiểu khái niệm chất lượng tín dụng như
sau:
Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thể hiện ở vốn vay Ngân hàng đáp ứng
đầy đủ, kịp thời vốn cho các nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng có sự lựa chọn
đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội theo đường lối đổi mới của đất nước và
số vốn này được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ để tạo ra số tiền lớn
hơn hoàn trả được Ngân hàng đủ nợ gốc và lãi, trang trả hết chi phí và có lợi nhuận
Như vậy, nếu xét về mặt định tính:

+ Chất lượng tín dụng cao thể hiện ở khả năng đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho
khách hàng từ đó tăng uy tín Ngân hàng tạo khả năng mở rộng tín dụng Ngân hàng:



Một ngân hàng có uy tín sẽ có khả năng thu hút nhiều khách hàng hơn. Nếu một ngân
hàng có một đội ngũ khách hàng đông đảo và là những doanh nghiệp làm ăn có uy tín
thì đó là một trong những dấu hiệu cho thấy chất lượng tín dụng ngân hàng là khả
quan. Để Ngân hàng có uy tín thì khả năng đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng là rất
quan trọng. Đối với doanh nghiệp điều này trước hết biểu hiện ở chỗ thủ tục đơn
giản, thuận tiện (tuy nhiên vẫn đảm bảo những nguyên tắc an toàn tối thiểu cần thiết),
cung cấp vốn nhanh chóng, kịp thời, an toàn. Nhờ đó doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được
chi phí giao dịch, tiết kiệm được thời gian và nhất là không bỏ lỡ những cơ hội kinh
doanh tốt. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những yêu cầu ban đầu, trong điều kiện nền kinh
tế thị trường cạnh tranh gay gắt và đầy biến động thì đòi hỏi các NHTM phải năng
động hơn nữa mới mong có được chất lượng tín dụng cao, đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng lên cả về chất cũng như lượng của khách hàng. Để đạt được điều đó thì
ngoài đáp ứng nhanh chóng, kịp thời nhu cầu vốn, ngân hàng phải thực sự trở thành
người bạn của doanh nghiệp, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với họ. Chẳng hạn
trong quá trình xét duyệt cho vay vốn nếu thấy dự án vay vốn của doanh nghiệp có
những điểm chưa hợp lý, không khả thi thì thay vì từ chối cho vay ngân hàng có thể
tư vấn, góp ý cho doanh nghiệp để họ xem xét điều chỉnh lại cho hợp lý. Trong quá
trình kinh doanh nếu doanh nghiệp gặp khó khăn bất khả kháng thì ngân hàng có thể
xem xét cùng tháo gỡ. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể là người cung cấp các thông
tin bổ ích về thị trường, về khoa học công nghệ cho doanh nghiệp. Làm được như
vậy thì nguồn vốn tín dụng của ngân hàng sẽ thực sự phát huy vai trò đòn bẩy giúp
doanh nghiệp cải tiến thiết bị, đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng
cạnh tranh. Và một khi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì ngân hàng cũng sẽ
tránh được rủi ro, bảo đảm hiệu quả kinh doanh của chính mình.
+ Bảo đảm sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng: Nói cách khác hoạt động

tín dụng phải mang lại cho ngân hàng thu nhập đủ để trang trải các chi phí liên quan
và có lãi, hạn chế thấp nhất nguy cơ rủi ro. Điều này không chỉ phụ thuộc vào ngân
hàng mà còn phụ thuộc rất lớn vào doanh nghiệp vay vốn. Một khoản tín dụng chỉ có
thể được coi là có hiệu quả khi các nguyên tắc cho vay được tuân thủ triệt để; sử
dụng vốn vay đúng mục đích; sử dụng vốn vay có hiệu quả kinh tế cao; hoàn trả nợ
gốc và lãi đúng thời hạn. Việc tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tín dụng vừa là điều
kiện cần thiết vừa là biểu hiện của chất lượng tín dụng tốt. Mục đích sử dụng vốn vay



đã ký kết trong hợp đồng tín dụng đã được cả hai bên ngân hàng và doanh nghiệp
phân tích, đánh giá kỹ lưỡng về hiệu quả, tính khả thi cũng như mức độ phù hợp với
chính sách phát triển kinh tế - xã hội chung của ngành, của địa phương và của cả
nước. Do đó, sử dụng vốn vay đúng mục đích là một trong những điều kiện đảm bảo
mục tiêu đã đề ra ban đầu. Sử dụng vốn vay đúng mục đích, cộng với sự năng động,
nhạy bén trong kinh doanh của doanh nghiệp và sự giúp đỡ hiệu quả của ngân hàng
sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp đạt được kết quả kinh doanh cao nhất và đó chính là
tiền đề để doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng.
+ Đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của vùng, địa
phương đất nước: Điều này là hệ quả tất yếu đạt được khi cả ngân hàng và doanh
nghiệp đều hoạt động có hiệu quả. Nó được biểu hiện ở sự ổn định của nền tài chính -
tiền tệ quốc gia, giúp nâng cao năng lực sản xuất, năng lực công nghệ cho doanh
nghiệp, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân cư. Tuy
nhiên, khi đánh giá tiêu thức này cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể trong từng
thời kỳ chứ không thể có một tiêu chuẩn chung cho tất cả các trường hợp. Chẳng hạn
các dự án cải tạo, nâng cấp trang thiết bị, đổi mới công nghệ giúp doanh nghiệp tăng
hiệu quả sản xuất kinh doanh nhưng đồng thời lại thu hẹp công ăn việc làm của người
lao động, hoặc có những dự án hiệu quả nhất thời không cao nhưng có ý nghĩa “quốc
kế dân sinh” rất quan trọng. Trong những trường hợp đó thì để đánh giá chính xác

chất lượng tín dụng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng nhiều mặt liên quan.
Tóm lại, chất lượng TDNH là một chỉ tiêu tổng hợp được đánh giá trên quan
điểm của cả ba chủ thể: ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Các chỉ tiêu định
tính chỉ là những căn cứ để đánh giá chất lượng TDNH một cách khái quát. Để có thể
kết luận chính xác hơn cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể
bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến ngân hàng và doanh nghiệp. Còn về phía nền kinh
tế thì rất khó có thể đo lường cụ thể, nên trong thực tế thường sử dụng các chỉ tiêu
định tính để đánh giá.
Xét về mặt định lượng:



Về phía Ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở doanh số và tốc độ tăng
doanh số cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các chỉ tiêu đánh giá tình
trạng nợ quá hạn, các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận.
Về phía doanh nghiệp: Chất lượng tín dụng thể hiện ở mức tăng năng suất lao
động nhờ thực hiện dự án, doanh thu tăng từ dự án, lợi nhuận tăng từ dự án. Các chỉ
tiêu này càng cao càng tốt, nó cho thấy hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp
đạt mức cao. Đó là tiền đề để doanh nghiệp thực hiện đúng cam kết trả nợ cho ngân
hàng đồng thời bản thân doanh nghiệp có lợi nhuận, đóng góp vào sự phát triển
chung của nền kinh tế.
1.2.2 Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ cũng như mọi hoạt đông kinh doanh khác trong
xã hội là có những mặt hàng làm ra: đó là sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. Cái độc
đáo của sản phẩm ngân hàng đó là nó được chế biến từ một nguyên liệu chính là tiền
mà ngân hàng huy động được. Sản phẩm chủ yếu là cho vay các thành phần kinh tế
theo nguyên tắc hoản trả cả gốc lẫn lãi. Sản phẩm này phải là kết quả hữu ích của
hoạt động kinh doanh tiền tệ mang lại, có nghĩa là chỉ tính vào sản phẩm ngân hàng
những sản phẩm hữu hiệu làm ra trong kỳ đó, chính là dư nợ hữu hiệu trong kỳ. Đây
là thành phẩm vì nó đáp ứng được yêu cầu chất lượng, trái lại những sản phẩm không

đủ chất lượng là những sản phẩm kém phẩm chất như nợ quá hạn, gây ảnh hưởng đến
kết quả kinh doanh của ngân hàng. Như vậy để đánh giá được chất lượng tín dụng
người ta sử dụng các nhóm chỉ tiêu sau đây:
1.2.2.1 Nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
+ Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là những khoản nợ mà thời gian tồn tại của
nó vượt quá thời gian cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng cộng
với thời gian đã được gia hạn thêm nếu khách hàng có yêu cầu. Nợ quá hạn có thể do
nhiều nguyên nhân khác nhau như từ phía doanh nghiệp, do khách quan… các ngân
hàng luôn mong muốn giảm thấp tỷ lệ nợ quá hạn bởi nó làm giảm lợi nhuận của
ngân hàng.

×