Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Habubank Vạn Phúc pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.46 KB, 62 trang )







LUẬN VĂN:

Nâng cao chất lượng tín dụng tại
chi nhánh Habubank Vạn Phúc








LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm vừa qua nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển
mạnh mẽ, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trên 7%, được duy trì liên tục trong nhiều
năm. Nền kinh tế nước ta tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt
sau sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Các doanh nghiệp
đều có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh, duy trì được sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập, nên nhu cầu về vốn là rất lớn. Trong các
thể chế tài chính thì Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng trong huy động
vốn và phân bổ nguồn vốn cho nền kinh tế một cách rất hiệu quả. Như vậy nghiệp vụ tín
dụng trở thành nghiệp vụ chính của Ngân hàng thương mại, nó không chỉ có ý nghĩa với
nền kinh tế mà còn có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng
thương mại. Vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng là một vấn đề rất quan


trọng mà bất kỳ một Ngân hàng thương mại nào cũng quan tâm. Tuy nhiên, không phải
một ngân hàng nào cũng đạt được chất lượng tín dụng tốt. Xuất phát từ lý do này và
những thực tế em được tiếp cận trong thời gian thực tập tại Phòng phát triển kinh doanh
của Chi nhánh Habubank Vạn Phúc, em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng
tại chi nhánh Habubank Vạn Phúc” làm luận văn tốt nghiệp.
Theo các điểm 8, 10, khoản 3, điều 1 luật các tổ chức tín dụng được sửa đổi bổ
xung, số 20/2004/QH11, ngày 15/6/2004, thì hoạt động tín dụng bao gồm nhiều hoạt
động như cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các nghiệp vụ khác
Nhưng đối với Chi nhánh Habubank Vạn Phúc thời gian qua, trong hoạt động tín dụng
thì hoạt động cho vay chiếm đa số. Nên chất lượng tín dụng trong bài viết của em giới
hạn theo cách hiểu là chất lượng hoạt động cho vay.





Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Habubank Vạn Phúc.
Chương 3: Nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Habubank Vạn Phúc.






















CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái quát về hoạt động của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng bậc nhất trong thị trường tài
chính. Có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng, tuy nhiên theo điều 1, về sửa đổi
bổ xung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước ta ban hành
ngày 15/6/2004 thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân
hàng khác”. Trong đó ngân hàng thương mại được hiểu như sau: “Ngân hàng thương
mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
nhất là nhận tiền gửi sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”.
Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
-Hoạt động huy động vốn
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại. Ngân hàng thường huy động vốn từ các nguồn chủ yếu sau:

+ Nguồn vốn tự có của ngân hàng
Đây là nguồn vốn thuộc sở hữu riêng của các ngân hàng. Trong quá trình hoạt
động khoản vốn này không ngừng được tăng lên do đóng góp của lợi nhuận giữ lại từ
kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn tự có góp



phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, và
đồng thời góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng trên thị trường.
+ Nguồn vốn từ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn rất quan trọng của ngân hàng thương mại.
Nguồn tiền gửi bao gồm tiền gửi vào ngân hàng với mục đích để thanh toán hoặc với
mục đích bảo quản tài sản. Ngoài ra, ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi
của các cá nhân hay các hộ gia đình và các tổ chức xã hội đem gửi vào ngân hang với
mục đích hưởng lãi.
+ Nguồn đi vay
Khi mà khả năng huy động vốn của ngân hàng hạn chế hoặc khi phải thanh toán
gấp một khoản tiền lớn, các ngân hàng thương mại thường đi vay để đáp ứng nhu chi trả
của mình. Ngân hàng thường vay từ các nguồn như vay ngân hàng Trung ương với các
hình thức tái chiết khấu giấy tờ có giá hay vay có đảm bảo hoặc vay các tổ chức tín
dụng khác, vay trên thị trường vốn. Do chi phí của các khoản vay này khá lớn nên chỉ
khi thật cần thiết thì ngân hang thương mại mới phải sử dụng phương thức huy động
này.
-Hoạt động sử dụng vốn
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo
an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các ngân hàng thương mại.
+ Hoạt động tín dụng
Đây là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản và
tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại,
thông qua cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế.

+ Hoạt động đầu tư tài chính



Ngân hàng thường đầu tư nhằm tăng thêm lợi nhuận thông qua các hoạt động như
góp vốn, mua bán chứng khoán trên thị trường hoặc cho vay trên thị trường liên ngân
hàng cũng là một cách để sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời.
-Trung gian thanh toán
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền của nền kinh tế nước ta trong quá trình
hội nhập vào nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. Nghiệp vụ này ngày càng phát
triển và trở thành một trong các hoạt động chính của ngân hàng. Thông qua dịch vụ
thanh toán ngân hàng thu được một khoản phí và hoa hồng. Các dịch vụ của ngân hàng
cũng ngày càng đa dạng, nhiều lợi ích và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, trong
đó việc thanh toán cũng ngày càng nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và thời gian như
thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ , cung cấp mạng lưới thanh
toán điện tử, đổi tiền giấy khi khách hàng cần.
1.1.2 Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Theo quan điểm hiện đại, tín dụng là quan hệ vay mượn giữa bên đi vay và bên
cho vay.
Các quan hệ tín dụng đã được hình thành từ rất lâu, và phát triển thành các hình
thức tín dụng khác gắn liền với sự phát triển của các hình thái kinh tế kinh tế. Trong
thực tiễn đã có những hình thức sau: Tín dụng nặng lãi, tín dụng Ngân hàng, tín dụng
nông nghiệp và tín dụng thương mại. Ngày nay, các hình thức tín dụng trên đều tồn tại
và bổ sung lẫn nhau, đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh
tế. Trong đó tín dụng Ngân hàng là một hình thức rất quan trọng, nó cung cấp phần lớn
vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức khác trong nền kinh tế.
Có thể nói rằng: “Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân
hàng, còn một bên là các pháp nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế”. Nghĩa là tín
dụng Ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ
chức trong xã hội. Nhưng nó là mối quan hệ di chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ




chức trung gian, đó là Ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng mang bản chất của quan hệ tín
dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Tuy
nhiên so với các loại hình tín dụng khác thì tín dụng Ngân hàng cũng có những điểm
khác biệt:
-Tín dụng Ngân hàng chủ yếu thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ, chứ
không phải là hình thức mua hàng trả chậm hay mua hàng trả góp của tín dụng thương
mại. Đây là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng nhu cầu cho mọi đối tượng
trong nền kinh tế.
- Tín dụng Ngân hàng cho vay chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ bên ngoài
chứ không phải hoàn toàn là vốn sở hữu của mình như tín dụng nặng lãi hoặc tín dụng
thương mại.
- Tín dụng Ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú. Ngân hàng có thể cho vay
đối với các thời hạn tín dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do
Ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn có kỳ hạn khác nhau mà nó huy động
với nhau một cách linh hoạt để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay.
1.1.3. Phân loại các hình thức tín dụng ngân hàng
Hiện nay, ở các ngân hàng thương mại có nhiều cách phân loại tín dụng, nhưng
phổ biến nhất là những cách sau đây:
1.1.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Bao gồm các loại sau :
+ Tín dụng ngắn hạn
Đây là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm. Loại tín dụng này để bổ sung sự
thiếu hụt tạm thời về vốn hoặc mua các tài sản lưu động cho các doanh nghiệp và để
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Với loại tín dụng này, ít có rủi ro cho




Ngân hàng vì trong thời gian ngắn, ít có biến động xảy ra và nếu có xảy ra thì Ngân
hàng có thể dự tính được.
+Tín dụng trung hạn
Đây là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này được cấp để
mua sắm các loại tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây
dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Loại tín dụng này có mức độ rủi
ro không cao vì Ngân hàng có khả năng dự đoán được những biến động có thể xảy ra.
+Tín dụng dài hạn
Đây là loại tín dụng có thời hạn lớn hơn 5 năm. Loại tín dụng này sử dụng để cấp
vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, công trình thuộc cơ sở hạ
tầng như đường sá … hay nhằm cải tiến và mở rộng sản xuất với qui mô lớn. Loại tín
dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời gian dài thì có những biến động xảy ra
không lường trước được.
1.1.3.2 Căn cứ vào mức độ tin cậy đối với khách hàng
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại:
-Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như tài sản
thế chấp, cầm cố, hoặc có sự bảo lãnh dựa vào uy tín người thứ ba. Ngân hàng nắm giữ
tài sản của người vay để xử lý thu hồi nợ khi người vay không thực hiện được các nghĩa
vụ đã được cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hình thức này được áp dụng đối với
những khách hàng không có uy tín cao với Ngân hàng. Mặc dù là có tài sản đảm bảo
nhưng hình thức tín dụng này vẫn có độ rủi ro cao vì tài sản có thể bị mất giá hay người
bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ của mình.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố,
hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng. Muốn vậy, Ngân hàng phải đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay của



người vay. Mặc dù không có tài sản đảm bảo nhưng đây là một loại tín dụng ít rủi ro cho
Ngân hàng vì khách hàng có uy tín rất lớn và khả năng trả nợ rất cao thì mới được cấp

tín dụng mà không cần đảm bảo.
1.1.3.3 Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay
Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng ra làm hai loại:
Tín dụng doanh nghiệp: Là loại cấp tín dụng cho các đơn vị kinh doanh để tiến
hành sản xuất, lưu thông hàng hoá. Nguồn trả nợ của hoạt động này phụ thuộc chủ yếu
vào kết quả hoạt động kinh doanh. Vì vậy Ngân hàng cần phải có đầy đủ các thông tin
cần thiết về khách hàng của mình, về phương án sản xuất kinh doanh của họ.
- Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để mua sắm các tài
sản đắt tiền như: nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền như ti vi, điều hoà, tủ lạnh.
với nguồn trả nợ là thu nhập trong tương lai của người vay.
Với cách thức phân loại này, Ngân hàng sẽ có quy trình nghiệp vụ cụ thể để đảm
bảo Ngân hàng có đủ tiền để cho vay và thu hồi nợ theo đánh giá mức độ rủi ro và mức
lãi suất được đặt ra cho từng loại.
1.1.3.4 Căn cứ vào phương thức cho vay
Theo căn cứ này tín dụng của ngân hàng được chia làm 3 loại:
- Thấu chi: Ngân hàng sẽ cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi
thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoản thời gian nhất định.
Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Do hình thức này phần lớn là không có đảm bảo
nên chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, có thu nhập ổn định và kỳ thu
nhập là ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay của ngân hàng đối với khách
hàng không có nhu cầu vay thường xuyên và cũng không có đủ điều kiện để được cấp
hạn mức thấu chi.



-Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một
hạn mức tín dụng. Hạn mức có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Hạn mức tín dụng sẽ
được cấp cho khách hàng trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, và nhu cầu vay vốn
của khách hàng. Đối với trường hợp ngân hàng tính hạn mức cả kỳ, thì trong kỳ khách

hàng có thể vay trả nhiều lần, nhưng dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng.
Trong trường hợp ngân hàng tính hạn mức cuối kỳ, thì dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn
hạn mức, nhưng đến cuối kỳ khách hàng phải trả nợ để làm giảm dư nợ, để dư nợ cuối
kỳ không được lớn hơn hạn mức tín dụng.
1.1.3.5 Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Theo căn cứ này tín dụng của ngân hàng được chia làm 3 loại:
- Tín dụng kỳ hạn: Là loại tín dụng được thanh toán một lần khi đến hạn theo kỳ
hạn đã thoả thuận.
- Tín dụng trả góp: Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ đã thoả thuận. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng cho vay bất động
sản, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những hộ kinh doanh nhỏ, cho vay trang bị các
kỹ thuật canh tác trong nông nghiệp.
-Tín dụng trả nợ nhiều lần: nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể: Khách hàng có
thể thanh toán bất cứ lúc nào tùy theo khả năng tài chính của mình.

1.1.4 Vai trò của tín dụng ngân hàng
-Thứ nhất: Tín dụng Ngân hàng là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả cho nền kinh
tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế không ngừng phát triển. Các doanh nghiệp tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một trong những
nguồn để vay là từ Ngân hàng, đó là nguồn tài trợ hiệu quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu
vốn của doanh nghiệp về số lượng vốn vay và thời hạn vay. Mặt khác, để có thể vay vốn



được từ Ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phải nâng cao uy tín của mình đối với
Ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh toán cho Ngân hàng cả gốc và lãi. Do vậy, các
doanh nghiệp phải nỗ lực để hoạt động kinh doanh có hiệu quả từ đó thúc đẩy phát triển
kinh tế.
-Thứ hai: Tín dụng Ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của
nguồn vốn, nâng cao tính hiệu quả sử dụng tiền tệ trong lưu thông. Ngân hàng thương

mại là một trung gian tài chính quan trọng có vài trò hút tiền nhàn rỗi mà không có
phương án sử dụng hiệu quả của dân cư, và tiền mặt nhàn rỗi tạm thời của doanh nghiệp
được Ngân hàng thương mại huy động và sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp đang
thiếu vốn, mà có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, hoặc cho nhu cầu tiêu dùng
tạm thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho nhu cầu chi của ngân sách nhà
nước khi chưa có nguồn thu
- Thứ ba: Tín dụng Ngân hàng là công cụ để nhà nước điều tiết khối lượng tiền
lưu thông trong nền kinh tế. Một trong những đặc điểm quan trọng của Ngân hàng
thương mại là khả năng tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi nhà
nước muốn tăng khối lượng tiền cung ứng thì Ngân hàng nhà nước có thể ra quyết định
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng hạn mức tín dụng của các Ngân hàng thương mại
đối với nền kinh tế và ngược lại. Do vậy thông qua hình thức tín dụng Ngân hàng nhà
nước có công cụ quan trọng có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu
thông.
- Thứ tư: Tín dụng Ngân hàng góp phần tạo việc làm và ổn định đời sống cho
người lao động. Khi doanh nghiệp vay được vốn sẽ duy trì được sản xuất, mở rộng sản
suất tạo việc làm cho người lao động. … vốn tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu
của các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Từ đó, tín
dụng góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo công ăn việc làm, qua đó góp phần ổn
định xã hội.



- Thứ năm: Tín dụng Ngân hàng còn là động lực đối với việc hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vốn để
thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có thể là vốn huy động từ
trong nước, có thể là vốn vay từ nước ngoài. Song phát triển kinh tế dựa vào nội lực vẫn
là mục tiêu cơ bản và Ngân hàng chính là trung gian huy động các nguồn vốn trong nền
kinh tế để cho vay.
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Quan điểm về chất lượng tín dụng
Tín dụng thường là hoạt động quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại,
tạo ra thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng. Hoạt động tín dụng hàm chứa rất nhiều rủi
ro, nó có thể ảnh hưởng đến một ngân hàng, cũng có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống
ngân hàng và thậm chí là cả nền kinh tế. Để đảm bảo sự phát triển bền vững, và an toàn,
và sự tăng trưởng liên tục của nguồn thu từ hoạt động tín dụng, hiện nay các ngân hàng
thương mại đang cố gắng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của mình. Trước đây,
chất lượng tín dụng chỉ được hiểu là an toàn tín dụng. Chất lượng được coi là cao khi có
ít các khoản nợ xấu, thiệt hại từ các khoản vay đó là nhỏ, và nó được hoàn trả theo đúng
hợp đồng. Theo sự phát triển kinh tế, quan điểm chất lượng tín dụng cũng thay đổi. Có
thể xem xét rằng, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng
trong quan hệ tín dụng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng và phù hợp với
sự phát triển kinh tế, xã hội. Như vậy khi xét trên từng khía cạnh cụ thể thì chất lượng
tín dụng được hiểu như sau:
- Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở chỗ đáp ứng tốt nhu
cầu về vốn của khách hàng với mức lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận lợi, thu hút
được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng, thực hiện theo đúng
hợp đồng tín dụng.



- Đối với ngân hàng thương mại: Chất lượng tín dụng là an toàn tín dụng, đảm
bảo nguyên tắc hoàn trả và hoạt động tín dụng phải có lãi, doanh số cho vay cao phải đi
cùng với doanh số thu nợ cao. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chất lượng tín
dụng còn thể hiện phạm vi, quy mô cấp tín dụng phải phù hợp với điều kiện hiện có của
ngân hàng. Thêm vào đó chất lượng tín dụng còn được được đánh giá qua các tiêu chí
sau: lợi nhuận tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn, và tỷ lệ nợ xấu ngày càng giảm, sự phù hợp
về kỳ hạn của nguồn huy động và kỳ hạn vốn vay.
- Đối với sự phát triển kinh tế, xã hội: Chất lượng tín dụng phải đáp ứng được các
mục tiêu phát triển chung của Nhà nước về mặt kinh tế, xã hội. Tín dụng phải phục vụ

cho sản xuất và lưu thông hàng hóa, nên sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giảm
tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Nâng cao chất
lượng tín dụng giúp ngân hàng giảm thiểu được rủi ro, duy trì được hoạt động, tạo tiền
đề cho sự phát triển ổn định, bền vững của ngân hàng, đồng thời làm giảm chi phí và gia
tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Mặt khác, khi chất lượng tín dụng được nâng cao, thì
nguồn vốn tín dụng của ngân hàng được sử dụng đúng mục đích, đảm bảo được việc thu
hồi nợ đúng hạn, tạo điều kiện cho ngân hàng trong việc mở rộng quy mô tín dụng và
các hoạt động khác. Đồng thời tạo được uy tín đối với khách hàng, vừa duy trì được
khách hàng truyền thống, vừa thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng, gia
tăng vị thế trên thị trường tài chính.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính
Chỉ tiêu định tính là các chỉ tiêu mang tính tương đối và rất khó xác định, đối với
ngân hàng thương mại, để đánh giá chất lượng tín dụng người ta thường xem xét một số
chỉ tiêu sau đây:



 Cơ sở pháp lý:
Hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại dựa trên các quy định pháp
luật và các quy định của Ngân hàng Nhà nước. Hoạt động của các ngân hàng được đánh
giá là có chất lượng khi Ngân hàng thực hiện tốt các quy định đã ban hành.
 Quy chế cho vay:
Dựa trên các quy định pháp luật và của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng
thương mại căn cứ vào nội lực của mình mà đề ra quy chế cho vay riêng phù hợp. Như
vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng, trước hết các Ngân hàng thương mại cần phải
thực hiện tốt các quy định mà mình đề ra.
 Uy tín và thị phần của ngân hàng

Ngoài ra để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại, theo chỉ tiêu
định tính ta còn xét đến khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng. Hoạt động tín dụng
là có chất lượng trước hết ngân hàng phải thu hút được nhiều khách hàng, uy tín được
nâng cao, thị phần được mở rộng.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu định lượng
 Tổng dư nợ và tăng trưởng dư nợ
-Tổng dư nợ: là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền Ngân hàng cấp cho nền
kinh tế tại một thời điểm nhất định. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của Ngân hàng yếu kém hiệu quả,
không có khả năng mở rộng mạng lưới khách hàng, trình độ cán bộ công nhân viên thấp.
Điều đó cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức.
Nhưng không phải là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao. Bởi vì chất
lượng tín dụng còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nữa.
-Tăng trưởng dư nợ: là chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng tín dụng về quy mô giữa
các thời kỳ kinh tế. Nếu mức tăng trưởng dư nợ là cao thì chứng tỏ quy mô tín dụng



được mở rộng, ngân hàng phục vụ được nhiều nhu cầu của khách hàng hơn, chất lượng
tín dụng được cải thiện. Và ngược lại, mức tăng trưởng dư nợ thấp, chứng tỏ chất lượng
tín dụng của ngân hàng chưa được quan tâm đúng mức.
 Doanh số cho vay và doanh số thu nợ
-Doanh số cho vay: Là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của Ngân hàng đối
với khách hàng. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh chính xác về hoạt động cho vay của
ngân hàng trong một thời gian dài, được tính bằng cộng dồn các khoản cho vay trong
một niên độ kinh tế. Doanh số cho vay càng cao, chứng tỏ ngân hàng thu hút được nhiều
khách hàng hơn, khả năng cho vay của ngân hàng tốt hơn và chứng tỏ là chất lượng tín
dụng được cải thiện.
-Doanh số thu nợ: Được tính bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong một
niên độ kinh tế, chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã cho khách hàng vay

và đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Doanh số cho vay lớn phải đi kèm với doanh số
thu nợ cao. Nếu doanh số cho vay lớn nhưng doanh số thu nợ thấp cho thấy dư nợ quá
hạn của ngân hàng cao, khả năng thu hồi vốn cho vay và lãi vay thấp, rủi ro tín dụng
cao, vòng quay vốn tín dụng thấp, chất lượng hoạt động tín dụng không tốt.
Thu nhập từ hoạt động tín dụng: Nhìn chung hoạt động tín dụng là hoạt động
mang lại thu nhập cao nhất cho ngân hàng, duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển
của ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó không
ngừng nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng. Nếu doanh thu từ hoạt động tín dụng tăng
trưởng liên tục, chứng tỏ khoản vay không những thu hồi được gốc mà còn có lãi.
 Vòng quay vốn tín dụng:
Chỉ tiêu này thường được các ngân hàng thương mại tính toán hằng năm để đánh
giá khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân hàng trong
việc đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng.



Doanh số thu nợ trong kỳ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Vòng quay vốn tín dụng phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng, phản
ánh tốc độ luân chuyển vốn nhanh hay chậm. Vòng quay của vốn tín dụng càng cao
chứng tỏ nguồn vốn ngân hàng luân chuyển càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu
kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá, đồng thời nó cũng phản ánh tình hình quản lý vốn tín
dụng có tốt hay không. Vòng quay vốn tín dụng cao, một mặt thể hiện khả năng thu nợ
tốt. Mặt khác, thể hiện hiệu quả cho vay của ngân hàng. Một đồng vốn khi cho vay được
nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, cần xét đến yếu tố quan trọng là
“dư nợ bình quân”. Khi dư nợ bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn hơn nhưng lại
không phản ánh chất lượng khoản tín dụng là cao bởi thực tế nó thể hiện khả năng cho
vay kém của ngân hàng. Nên chỉ tiêu này cần phải được xem xét với chỉ tiêu Hiệu suất
sử dụng vốn.

 Hiệu suất sử dụng vốn:
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của vốn cho khách hàng vay trong tổng nguồn
vốn mà ngân hàng huy động được. Một tỷ lệ phù hợp, nó phụ thuộc vào cơ cấu của
nguồn vốn huy động, và lĩnh vực hoạt động chủ yếu của ngân hàng, và các nhân tố khác.
Nếu tỷ lệ này là rất cao, một mặt sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, góp phần làm tăng
thu nhập cho ngân hàng, măt khác sẽ ảnh hưởng không tốt đến tính thanh khoản của
ngân hàng.
Tổng nguồn vốn huy động
Hiệu suất sử dụng vốn =



Tổng dư nợ
 Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng khi người đi
vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho Ngân hàng đúng hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của Ngân hàng
thương mại ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ

Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, ban hành ngày 22/4/2005, các khoản nợ được phân loại như sau:
-Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn
-Nhóm 2: Nợ cần chú ý
-Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
-Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
-Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Nợ quá hạn bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5.

Tín dụng thì phải có hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để
cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả đúng hạn như đã cam
kết, mà không có lý do chính đáng thì nó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất quá
hạn cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là các



khoản nợ có vấn đề có khả năng mất vốn. Như vậy, tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì Ngân
hàng thương mại càng gặp khó khăn trong kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất
khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận, tức là tỷ lệ nợ quá hạn càng cao, chất lượng tín
dụng càng thấp.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng thương mại, hoạt
động tín dụng phát triển cũng kéo theo các hoạt động khác của Ngân hàng phát triển.
Chính vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng có tầm quan trọng đặc biệt mà tất cả các
Ngân hàng thương mại đều phải thực hiện. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
tín dụng, bao gồm các yếu tố chủ quan từ phía Ngân hàng cũng như các yếu tố khách
quan như về phía khách hàng và môi trường kinh tế, xã hội.
1.2.4.1. Các nhân tố từ phía Ngân hàng
Các ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh của riêng mình, bao gồm các
chiến lược trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Các chiến lược kinh doanh khác nhau
sẽ có chất lượng tín dụng khác nhau, tạo nên bản sắc riêng cho mỗi ngân hàng.
1.2.4.1.1. Chính sách tín dụng của Ngân hàng
Chính sách tín dụng là một trong những chính sách trong chiến lược kinh doanh
của ngân hàng. Chính sách tín dụng được hiểu là cương lĩnh tài trợ vốn của một ngân
hàng cho khách hàng, và các yếu tố có liên quan trong mối quan hệ tín dụng như: quy
mô tín dụng, kỳ hạn của các khoản vay, lãi suất cho vay, các hình thức cho vay Các
điều khoản của chính sách tín dụng được xây dựng dựa trên nhiều yếu tố khác nhau như
các điều kiện kinh tế, chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước, nhu cầu tín dụng của
khách hàng, và khả năng cấp tín dụng của ngân hàng cho khách hàng. Khi các yếu tố

này thay đổi, chính sách tín dụng cũng thay đổi theo. Đối với mỗi khách hàng, ngân
hàng có thể đưa ra các chính sách khác nhau cho phù hợp. Ví dụ như với các khách hàng
có uy tín với ngân hàng thì ngân hàng có thể cho vay không có tài sản đảm bảo, có hạn



mức cao hơn, lãi suất ưu đãi hơn; còn đối với các khách hàng khác, việc có tài sản đảm
bảo là cần thiết…
Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả
năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở hạn chế rủi ro, tuân thủ đường lối chính
sách của Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc xây
dựng chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại có đúng đắn hay không. Do vậy,
ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng tốt cũng đều phải có chính sách tín dụng
thật sự hiệu quả.
1.2.4.1.2. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng bao gồm những nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành phải
thực hiện trong quá trình cho vay, thu hồi nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó
bao gồm các bước bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho vay, giải ngân, kiểm tra trong quá trình
cho vay cho đến khi thu hồi được nợ. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng mà
có những quy trình phù hợp. Một quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần đáng kể đến
việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Đồng thời với các bước trong quy trình tín dụng là công tác thu thập thông tin.
Đó là các thông tin liên quan đến khách hàng như mối quan hệ với các tổ chức tín dụng,
các thông tin về tài chính, trình độ quản lý, năng lực pháp lý. Thông tin có vai trò quan
trọng đối với chất lượng tín dụng, thông tin càng nhanh, đầy đủ và chính xác thì sẽ giúp
các các bộ tín dụng có được những quyết định đúng đắn khi cho vay, cho nên rủi ro tín
dụng sẽ giảm. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ rất nhiều nguồn: từ trung tâm
tín dụng của ngân hàng Nhà nước ( Credit Information Center), từ những nguồn sẵn có
tại các ngân hàng thương mại, từ nguồn mà cán bộ tín dụng trực tiếp thu thập tại cơ sở
sản xuất kinh doanh của khách hàng, qua báo cáo tài chính của khách hàng…




1.2.4.1.3. Tình hình huy động vốn của ngân hàng
Ngân hàng là trung gian tài chính với đăc trưng là huy động vốn để cho vay. Vốn
huy động càng lớn ngân hàng thương mại càng có điều kiện để mở rộng hoạt động tín
dụng. Tình hình huy động vốn ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, vốn huy động ngắn
hạn là nguồn chủ yếu để cho vay ngắn hạn, vốn huy động trung dài hạn là nguồn chủ
yếu để cho vay trung dài hạn. Nếu ở ngân hàng không có sự phù hợp về kỳ hạn giữa
nguồn huy động và cho vay mà không có nguồn bù đắp thì rủi ro thanh khoản sẽ sảy ra.
1.2.4.1.4. Kiểm soát nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ là một hoạt động có vai trò rất quan trọng
trong Ngân hàng thương mại. Hoạt động này giúp cho ngân hàng hạn chế được sai phạm
trong quá trình hoạt động, giảm các khoản nợ xấu, giảm rủi ro tín dụng. Đồng thời giúp
nhà lãnh đạo ngân hàng có được những thông tin chính xác về tình hình hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, để từ đó đề ra các quyết định đúng đắn trong việc giải quyết
những sai phạm, đưa ngân hàng hoạt động theo những định hướng đã đề ra.
1.2.4.1.5. Chất lượng cán bộ tín dụng
Phẩm chất và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tín dụng có ảnh hưởng rất
lớn sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong hoạt
động tín dụng nói riêng. Bởi vì cán bộ tín dụng là người tham gia trực tiếp vào mọi khâu
của quy trình tín dụng, từ bước đầu tiên đến bước cuối cùng. Nếu cán bộ tín dụng có
chuyên môn cao, giỏi về kỹ năng nghiệp vụ, sẽ có những quyết định đúng đắn trong
công việc. Ngoài ra, cán bộ tín dụng có phẩm chất đạo đức tốt, sẽ có trách nhiệm cao đối
với công viêc, luôn tận tâm trong công việc của mình góp phần tạo niềm tin cho khách
hàng, thu hút thêm được nhiều khách hàng mới, tăng vị thế của ngân hàng trên thị
trường tài chính.
1.2.4.2. Các nhân tố từ phía khách hàng




Khách hàng là người lập dự án xin vay vốn ngân hàng và sau khi được ngân hàng
chấp nhận, khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay để kinh doanh. Vì vậy, khách
hàng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng.
1.2.4.2.1. Tình hình tài chính của khách hàng
Đối với các khách hàng vay vốn để kinh doanh, thì nguồn để trả nợ cho ngân
hàng chính là kết quả thu được từ dự án kinh doanh đó. Nhưng không phải lúc nào cũng
có lợi nhuận, khi khách hàng gặp phải những rủi ro từ bản thân doanh nghiệp hoặc môi
trường kinh tế, sự biến động của giá nguyên vật liệu đầu vào, và giá bán trên thị trường,
khi chưa thu hồi được nợ đúng hạn, hoặc thua lỗ, phá sản…
Đối với khách hàng vay vốn để phục vụ mục đích tiêu dùng, thì nguồn để trả nợ
cho ngân hàng chính là từ thu nhập của họ. Hầu hết họ có thu nhập ổn định, nhưng có
những rủi ro làm giảm thu nhập như, tai nạn, mất việc…nên sẽ làm ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ cho ngân hàng.
1.2.4.2.2. Rủi ro đạo đức
Rõ ràng sự trung thực của khách hàng ảnh hưởng lớn tới chất lượng tín dụng của
ngân hàng
Nếu các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không cung cấp các số liệu trung thực,
vi phạm chế độ kế toán thống kê đã được ban hành thì sẽ gây khó khăn cho ngân hàng
trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng để qua đó có thể đưa
ra quyết định cho vay đúng đắn.
Nếu khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng không đúng đối tượng kinh doanh,
không đúng với mục đích khi xin vay thì sẽ không trả được nợ đúng hạn.
1.2.4.3. Các nhân tố khác



1.2.4.3.1. Môi trường kinh tế, xã hội
Mọi thành phần kinh tế hoạt động trên thị trường đều chịu tác động của tình hình
kinh tế, xã hội. Hoạt động của ngân hàng thương mại có thể được coi là chiếc cầu nối

giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy, sự ổn định hay mất ổn định của nền
kinh tế sẽ có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng nhất là hoạt động tín
dụng.
Các yếu tố vĩ mô như lạm phát, khủng hoảng kinh tế sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng tín dụng. Một nền kinh tế ổn định tỷ lệ lạm phát vừa phải sẽ tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, tạo ra lợi nhuận cao hơn, từ đó mà có thể trả vốn và lãi
cho ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế biến động thì các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh cũng thất thường ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp, từ đó ảnh
hưởng tới việc trả nợ cho ngân hàng.
Chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ tới hoạt động tín dụng. Trong thời kỳ suy
thoái, sản xuất vượt quá nhu cầu dẫn tới hàng tồn kho lớn, hoạt động tín dụng gặp nhiều
khó khăn do các doanh nghiệp đình trệ, thu hẹp sản xuất, cắt giảm lao động, không có
nhu cầu vay vốn nhiều. Ngược lại trong thời kỳ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các
doanh nghiệp có xu hướng mở rộng sản xuất kinh doanh, nhu cầu tín dụng tăng các
doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn và rủi ro ít, do đó chất lượng tín dụng cũng tăng.
1.2.4.3.2. Môi trường pháp lý
Hoạt động ngân hàng không chỉ chịu sự giám sát của các điều luật chung mà còn
phải thực hiện theo luật các tổ chức tín dụng và các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan. Chính vì vậy, nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, hay thay đổi sẽ làm cho hoạt
động kinh doanh gặp khó khăn. Ngược lại nếu hệ thống pháp luật tạo được tạo một môi
trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt kết quả
cao, nghĩa là vốn ngân hàng đã tham gia vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nên chất
lượng tín dụng được nâng cao.



1.2.4.3.3. Môi trường tự nhiên
Những biến động sảy ra trong môi trường tự nhiên như thiên tai ( hạn hán, lũ lụt,
động đất…), hoả hoạn…đều làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của khách hàng, đặc biệt là trong các ngành có chịu ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường

tự nhiên như nông nghiệp, thuỷ sản, hải sản.Vì vậy khi môi trường tự nhiên không thuận
lợi thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn từ đó làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng
thương mại
Trên đây là tất cả những nhân tố chính tác động hoạt động của các Ngân hàng
thương mại, đăc biệt là hoạt động tín dụng. Như vậy, chúng ta cần nghiên cứu cẩn thận
các yếu tố trên, cùng với kết quả hoạt động thực tiễn của các ngân hàng thương mại để
nâng cao chất lượng tín dụng.



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LUỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI
NHÁNH HABUBANK VẠN PHÚC
2.1. Giới thiệu về Chi nhánh Habubank Vạn Phúc
2.1.1. Sự ra đời và phát triển
Habubank là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam, được thành lập
từ năm 1989 với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát
triển nhà. Tiền thân của Habubank là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam kết hợp
với các cổ đông bao gồm Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội và một số doanh nghiệp
quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, quản lý nhà và du lịch. Với số vốn điều
lệ ban đầu là 5 tỷ đồng, Habubank được phép kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ ngân
hàng trong 99 năm. Tới nay, vừa tròn 20 năm hoạt động, tính đến thời điểm cuối năm



2008, Habubank đã có số vốn điều lệ là 2.800 tỷ đồng, tổng tài sản là 24.000 tỷ đồng,
tổng huy động là 19.758 tỷ đồng, tổng dư nợ là 10.000 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế là
500 tỷ đồng. Chín năm liên tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xếp loại A và được
công nhận là ngân hàng phát triển toàn diện với hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả.
Hiện tại, Habubank có 1 Hội sở chính, 2 Sở giao dịch và 33 chi nhánh, phòng
giao dịch với sản phẩm kinh doanh đa dạng gồm dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp (tài

trợ thương mại quốc tế, ngoại hối, quản lý tiền mặt…), dịch vụ ngân hàng cá nhân (huy
động, cho vay tiêu dùng, mua nhà…) và các hoạt động đầu tư khác trên thị trường
chứng khoán


CHI NHÁNH HABUBANK VẠN PHÚC
Được thành lập ngày 27/9/ 2005, trụ sở đóng tại toà nhà 2C Vạn Phúc, Ba Đình,
Hà Nội. Hay 302 đường Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội. Đây cũng là nơi đặt trụ sở chính
của công ty chứng khoán Habubank.
Với bộ máy tổ chức, cán bộ hoàn toàn mới, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn.
Tuy mới được thành lập và đi vào hoạt động được hơn 3 năm nhưng với sự lỗ lực cố
gắng phấn đấu hết mình của toàn thể cán bộ công nhân viên, Chi nhánh đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ ngân hàng trong giai
đoạn nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, và chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ
các ngân hàng khác
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức Chi nhánh Habubank Vạn Phúc


Giám đốc
Nguyễn Văn Hùng












Habubank hiện có mô hình tổ chức báo cáo ít tầng nhằm giảm thiểu tính
quan liêu trong hệ thống cũng như nâng cao tính năng động của tổ chức. Ðặc điểm nổi
bật của mô hình Habubank là tập trung vào khách hàng, đội ngũ nhân viên chuyên
nghiệp và quản lý rủi ro hiệu quả.
Rủi ro là một phần gắn liền với mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Kiểm tra và quản lý rủi ro sao cho cân bằng được mối quan hệ rủi ro - lợi nhuận
trước hết đòi hỏi một cơ cấu tổ chức phù hợp và chính sách nhất quán trong toàn hệ
thống. Do đó, cơ cấu Habubank hoàn toàn được tổ chức theo chiến lược phát triển do
Hội đồng Quản trị đề ra và liên quan chặt chẽ đến quản lý rủi ro. Đồng thời tính linh
hoạt và giảm thiểu quan liêu cũng luôn được đề cao giúp Ngân hàng dễ thích ứng và
thay đổi khi môi trường kinh doanh biến chuyển.
Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban:
 Phòng phát triển kinh doanh
+Số lượng nhân viên: 01 trưởng phòng phát triển kinh doanh và 06 cán bộ tín
dụng

×