Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh Habubank Hoàng Quốc Việt.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461 KB, 83 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, Ngân hàng với chức năng kinh doanh tiền tệ của mình đã đóng
góp một vai trò rất quan trọng, nhất là trong lĩnh vực tín dụng. Đây là một
nghiệp vụ chính của NHTM, nó không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà còn
có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một Ngân hàng. Vì vậy, nâng cao
chất lượng tín dụng là một vấn đề luôn bất cập mà bất kỳ một Ngân hàng nào
cũng quan tâm. Tuy nhiên, không phải một ngân hàng nào cũng đạt được chất
lượng tín dụng đạt yêu cầu. Xuất phát từ lý do này và những thực tế trong thời
gian thực tập tại Chi nhánh, em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tín
dụng tại chi nhánh Habubank Hoàng Quốc Việt” làm chuyên đề tốt
nghiệp.
Chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương:
Chương 1: Chất lượng tín dụng của các NHTM.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh
Habubank Hoàng Quốc Việt.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh
Habubank Hoàng Quốc Việt.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS Vũ Duy Hào, các anh chị
trong phòng ban Chi nhánh đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp
này.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM
1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1.1 Khái quát về hoạt động của NHTM
a/ Khái niệm về ngân hàng thương mại
Sự hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của
nền sản xuất hàng hoá. Theo quá trình phát triển thế giới, ngân hàng là một tổ


chức quan trọng, là động lực phát triển và là thành phần không thể thiếu của
nền kinh tế thị trường. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng, tuy
nhiên theo Luật các tổ chức tín dụng thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân
hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”.
Trong đó ngân hàng thương mại được định nghĩa như sau: “Ngân hàng
thương mại là một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên nhất là nhận tiền gửi, cho vay, và cung
ứng các dịch vụ thanh toán”.
b/ Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
 Hoạt động huy động vốn
Bất cứ một ngân hàng nào để thực hiện mục tiêu kinh doanh tìm kiếm lợi
nhuận thì phải thực hiện hoạt động huy động vốn. Bởi lẽ nhu cầu vốn trên thị
trường rất lớn trong khi vốn tự có của các ngân hàng thường chiếm tỷ trọng
vô cùng nhỏ bé. Ngân hàng thường huy động vốn từ các nguồn chủ yếu sau:
+ Nguồn vốn tự có và nguồn bổ sung trong quá trình hoạt động
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đây là nguồn hình thành ban đầu của mỗi ngân hàng. Tuỳ theo loại hình
ngân hàng như ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân hàng cổ phần, ngân
hàng tư nhân,... mà nguồn hình thành khác nhau. Trong quá trình hoạt động,
ngân hàng sẽ tăng vốn theo nhiều phương thức khác nhau như nguồn từ lợi
nhuận, nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, cấp thêm, góp thêm đồng
thời quá trình hoạt động của ngân hàng cũng hình thành nên các quỹ như quỹ
dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư và một số quỹ khác.
+ Nguồn vốn từ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Nguồn tiền gửi bao gồm tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ

hạn của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, tiền gửi của dân cư, tiền gửi
của các ngân hàng khác.
+ Nguồn đi vay
Khi khả năng huy động vốn hạn chế hoặc khi phải chi trả gấp một khoản
tiền lớn các ngân hàng thương mại thường đi vay để đáp ứng nhu cầu vốn của
mình. Ngân hàng thường vay từ các nguồn như vay ngân hàng nhà nước, vay
các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn. Do chi phí của các khoản
vay này khá lớn nên chỉ khi thật cần thiết thì ngân hàng mới phải sử dụng
phương thức cho vay này.
 Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là tìm kiếm các khoản vốn để sử dụng
nhằm thu lợi nhuận, tạo ra các tài sản khác nhau của ngân hàng trong đó chủ
yếu là dùng trong hoạt động tín dụng và đầu tư.
+ Hoạt động tín dụng
Đây là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng
tài sản và cũng mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, phản ánh
đặc trưng của ngân hàng là cho vay.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Hoạt động đầu tư
Ngân hàng thường đầu tư nhằm tăng thêm lợi nhuận như góp vốn vào các
doanh nghiệp hay mua bán chứng khoán trên thị trường. Cho vay trên thị
trường liên ngân hàng cũng là một cách để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi tạm
thời.
 Trung gian thanh toán
Đây là một trong ba hoạt động cơ bản của ngân hàng. Thông qua dịch vụ
thanh toán ngân hàng thu được một khoản phí và hoa hồng. Các dịch vụ của
ngân hàng cũng ngày càng phong phú, tiện lợi và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
ngân hàng, trong đó việc thanh toán cũng ngày càng nhanh chóng thuận tiện,
tiết kiệm chi phí như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại

thẻ... kết nối quỹ, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, cung cấp tiền giấy
khi khách hàng cần.
1.1.2 Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Trong nền kinh tế hàng hóa, trong cùng một thế giới luôn có một số
người có vốn dư thừa ta thời và có nhu cầu cho vay. Bên cạnh đó, luôn có một
số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Từ đó đã làm phát sinh một
mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm
thời dư thừa sang nơi thiếu vốn với điều kiện hoàn trả vốn và thu được một
khoản lợi nhuận do việc sử dụng vốn vay.
Quan hệ tín dụng được hình thành và ra đời rất lâu. Thuật ngữ “tín dụng”
xuất phát từ chữ Latinh: “Creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm.
Theo K.Mác: “Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá
trị từ người sở hữu sang người sử dụng sau một thời gian nhất định thu hồi
một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”.
Theo quan điểm hiện đại, tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả đi vay và
cho vay.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các quan hệ tín dụng cũng được hình thành và ra đời rất lâu. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, các hình thức tín dụng mới ngày càng có
trình độ hơn. Trong thực tiễn đã có những hình thức sau: Tín dụng nặng lãi,
tín dụng Ngân hàng, tín dụng nông nghiệp và tín dụng tiêu dùng. Ngày nay,
các hình thức tín dụng trên đều tồn tại và bổ sung lẫn nhau, đóng góp vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Trong các hình thức trên
tín dụng thì tín dụng Ngân hàng là một hình thức vô cùng quan trọng, nó là
mối quan hệ chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh
nghiệp và các thể nhân khác trong nền kinh tế.
Có thể nói rằng: “Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên
là Ngân hàng, còn một bên là các pháp nhân và thể nhân khác trong nền kinh
tế”.Tín dụng Ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa các cá nhân, doanh

nghiệp và các tổ chức trong xã hội. Nhưng nó là mối quan hệ di chuyển vốn
gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là Ngân hàng. Tín dụng Ngân
hàng cũng mang bản chất của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có
hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên tín dụng Ngân
hàng cũng có những điểm riêng biệt:
- Tín dụng Ngân hàng chủ yếu thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ.
Đây là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng nhu cầu cho mọi đối
tượng trong nền kinh tế.
- Tín dụng Ngân hàng cho vay chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ bên
ngoài chứ không phải hoàn toàn là vốn sở hữu của mình như tín dụng nặng lãi
hoặc tín dụng thương mại.
- Tín dụng Ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú. Ngân hàng có thể
cho vay đối với các thời hạn tín dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn, cho
vay trung hạn, cho vay dài hạn do Ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các
nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.3 Các hình thức tín dụng
1.1.3.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Theo căn cứ này tín dụng có thể chia làm 3 loại.
 Tín dụng ngắn hạn
Đây là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm. Loại tín dụng này để bổ
sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn hoặc mua các tài sản lưu động cho các
doanh nghiệp và để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân.
 Tín dụng trung hạn
Đây là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này được
cấp để mua sắm các loại tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng
sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
 Tín dụng dài hạn
Đây là loại tín dụng có thời hạn lớn hơn 5 năm. Loại tín dụng này sử

dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng xí nghiệp mới, công
trình thuộc cơ sở hạ tầng đường sá, cầu cảng sân bay… hay nhằm cải tiến và
mở rộng sản xuất với qui mô lớn.
1.1.3.2 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại.
- Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh
doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể
cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một
nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có
tài sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối
với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hỏi phải có đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm
một nguồn thứ 2, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.1.3.3 Căn cứ vào hình thức tài trợ
Theo căn cứ này tín dụng chia làm 4 loại.
- Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
- Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ).
- Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả
cả gốc và lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn (Leasing) được
ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê
ngân hàng thu được (dư nợ cho thuê).

- Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài
khoản ngoại bảng, đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng của
mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài khoản
nội bảng.
1.1.3.4 Căn cứ vào mục đích sử dụng
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia làm các loại sau:
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên
liệu…
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản
cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát
hành thẻ tín dụng.
1.1.3.5 Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Theo căn cứ này tín dụng của ngân hàng được chia làm 3 loại.
- Cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc
và lãi theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng cho vay bất động
sản, nhà ở, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ
(cho vay chợ), cho vay trang bị kỹ thuật trong nông nghiệp. Thông thường có
4 phương pháp trả góp sau:

+ Phương pháp cộng thêm.
+ Phương pháp trả vốn gốc bằng nhau và trả lãi theo số dư vào cuối mỗi
định kỳ.
+ Phương pháp trả vốn gốc và lãi bằng nhau và trả lãi tính trên mức hoàn trả
của vốn gốc.
+ Phương pháp trả vốn gốc và lãi bằng nhau trong tất cả các định kỳ
(phương pháp hiện giá).
- Cho vay phi trả góp là loại cho vay được thanh toán một lần theo kỳ hạn
đã thỏa thuận.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (áp dụng kỹ thuật thấu chi).
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1.3.6 Tín dụng phân loại theo rủi ro
Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp.
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản tín dụng,
dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín dụng.
- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
- Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách
hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá với thời hạn ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn khá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
1.1.4 Vai trò của tín dụng ngân hàng
a/ Tín dụng góp phần đẩy mạnh quá trình tập trung, tích tụ vốn sản xuất
Ngân hàng thông qua vai trò trung gian tài chính đã thực sự là một cầu
nối giữa những người có tiền muốn cho vay với những người thiếu vốn cần
vay để thoả mãn được nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Với chức năng là người cho vay, ngân hàng phải có cơ cấu tương đối ổn

định với qui mô nhất định. Nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn tự có của ngân
hàng, nguồn vốn vay từ thị trường vốn trong nước và nước ngoài, và bộ phận
chủ yếu có tỷ trọng lớn quyết định đối với hoạt động của một ngân hàng và
nguồn vốn huy động. Nguồn vốn này được hình thành từ nguồn tiền gửi của
các doanh nghiệp, tiền nhàn rỗi của các cá nhân trong xã hội… Tất cả được
tập trung vào thông qua chiến lược tạo vốn của ngân hàng. “Sự khơi dậy và
động viên mọi nguồn vốn trong xã hội, thu hút mạnh vốn nước ngoài hình
thành thị trường vốn và tiến tới thị trường chứng khoán” là nền tảng cơ bản để
tập trung vốn vào NHTM. Như chúng ta đã biết, chiến lược huy động vốn
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong nước là một trong những khâu quan trọng trong chính sách tài chính,
tiền tệ quốc gia, được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngân hàng
trung ương và các NHTM. Mặt khác, sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia
luôn luôn phụ thuộc vào phương hướng phát triển kinh tế, vào các nguồn lực
và cách thức tạo ra nguồn lực đó, một trong những nhân tố quan trọng cấu
thành nguồn lực này là vốn. Do vậy, ngân hàng cần phải có chính sách tài
chính, tiền tệ phù hợp tạo động lực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn,
đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
b/ Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình sản
xuất kinh doanh liên tục, quyết định thời cơ và chủ động trong kinh doanh
của doanh nghiệp
Xét về nhu cầu vay vốn, thực tế cho thấy: xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn
luân chuyển vốn, sự không ăn khớp về thời gian, khối lượng giữa người mua
và bán vật tư hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất với tiêu thụ hàng hoá, một số
doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm tài sản bằng
nguồn vốn tích luỹ, song nguồn vốn tích luỹ này chưa đủ để thực hiện các
mục đích đã định nên cũng tạm thời nhàn rỗi. Ngoài ra các nguồn vốn thuộc
dự trữ quốc gia, nguồn vốn tiết kiệm dân cư… đều là các tiềm năng đáng kể
để ngân hàng thu hút vốn, tạo nguồn vốn để sẵn sàng đầu tư cho vay. Mặt

khác, theo qui luật chung, việc tái sản xuất mở rộng là không ngừng, mối
quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng và chủ
thể thiếu hụt vốn có nhu cầu bù đắp gặp phải nhiều hạn chế. Để giải quyết
mâu thuẫn này, đòi hỏi phải có hoạt động của tín dụng ngân hàng.
Ngoài việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp duy trì hoạt động kinh doanh, tín
dụng ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và
vốn cố định của doanh nghiệp. Sự thể hiện vai trò của mình với tư cách là
người hỗ trợ, tín dụng ngân hàng được coi như một mắt xích không thể thiếu
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được đối với hoạt động của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế. Các
doanh nghiệp sử dụng khoản vốn tín dụng bắt buộc phải trả một khoản lãi
suất theo qui định và chịu các cơ chế tín dụng. Do vậy, các doanh nghiệp chỉ
sử dụng việc vay vốn tín dụng vào thời điểm mà mình thiếu vốn và không có
nguồn tài trợ nào khác để thoả mãn mục đích kinh tế của mình. Như vậy, nếu
không có nguồn vốn tín dụng thì doanh nghiệp sẽ được bổ sung kịp thời và
mới có cơ hội để khai thác và nắm bắt được thời cơ trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình.
c/ Tín dụng là công cụ tài trợ, đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn, then
chốt, hỗ trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển
Sự phát triển của các ngành kinh tế then chốt chính là yếu tố tạo sự bình
ổn, tự chủ về kinh tế của mỗi quốc gia và cũng là nền tảng vững chắc để đẩy
mạnh các ngành kinh tế mũi nhọn đạt được những ưu thế nhất định trên thị
trường thế giới, tạo thế liên hoàn thúc đẩy, hỗ trợ, lôi cuốn các ngành kinh tế
cùng nhau phát triển toàn diện. Nhất là trong bối cảnh kinh tế kém phát triển,
khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, nguồn vốn đầu tư còn thiếu hụt nghiêm trọng,
cơ cấu kinh tế còn mất cân đối nặng nề, hiệu quả thấp lại không ổn định như
nước ta hiện nay thì việc sắp xếp lại sản xuất, xác lập từng bước cơ cấu kinh
tế hợp lý theo định hướng phát triển kinh tế xã hội và những mục tiêu đã định.
Nó đòi hỏi phải có hàng loạt các chính sách, biện pháp đồng thời và hợp lý

mà trong đó tín dụng ngân hàng đóng góp phần hết sức quan trọng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tập trung vốn để cho vay đầu tư đúng đối
tượng, đúng nguyên tắc và có hiệu quả. Nó ưu tiên tập trung vốn cho ngành
kinh tế then chốt có tính quyết định trong nền kinh tế và hỗ trợ vốn cho ngành
trọng điểm, ngành mũi nhọn để có cơ hội tạo ra các bước nhảy quan trọng.
Tín dụng ngân hàng còn vận dụng cơ cấu vốn hợp lý và chính sách lãi suất
thích hợp để khuyến khích các ngành kinh tế chậm phát triển. Ngoài ra, thông
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
qua chính sách tiền tệ, tín dụng còn góp phần ổn định giá cả có tác dụng tích
cực thúc đẩy nhiều thành phần kinh tế phát triển.
d/Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc cho người lao
động
Như chúng ta đã biết tín dụng đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định
tiền tệ, ổn định giá cả, là tiền đề quan trọng để sản xuất lưu thông hàng hoá.
Nền kinh tế phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ là điều kiện
nâng cao dần đời sống của các thành viên trong xã hội, là điều kiện thực hiện
tốt các chính sách xã hội.
Mặt khác, trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức cho vay: tổ chức tín dụng
dân cư thành lập các quỹ xoá đói giảm nghèo, cho vay theo chương trình tín
dụng EC… vốn tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các nhà doanh
nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Từ đó, tín dụng
góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo công ăn việc làm, qua đó góp phần
ổn định xã hội.
1.2 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NHTM
1.2.1 Quan điểm về chất lượng tín dụng
Trong quá trình phát triển của các hoạt động kinh tế xã hội, giữa hai mặt
lượng và chất luôn luôn có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau.
Tăng trưởng và chất lượng tín dụng không nằm ngoài qui luật đó.
Khái niệm chất lượng tín dụng là một phạm vi rộng bao gồm nhiều nội

dung. Ban đầu chất lượng tín dụng chỉ bó hẹp trong khái niệm an toàn tín
dụng, nó phản ánh mức tổn thất phát sinh trực tiếp từ rủi ro đối với các khoản
cho vay của Ngân hàng. Chất lượng được coi là cao khi có ít các khoản vay
xấu, thiệt hại từ các khoản vay đó là nhỏ, và nó được hoàn trả theo đúng hợp
đồng. Theo sự phát triển kinh tế, quan điểm chất lượng tín dụng ngày càng
thay đổi và yêu cầu khắt khe hơn. Chất lượng tín dụng được xác định bằng
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tổng thể các tiêu chí cả trừu tượng lẫn cụ thể và việc đánh giá chúng cũng có
sự linh động nhất định. Có thể xem rằng chất lượng tín dụng là sự đáp ứng
yêu cầu của khách hàng (cả người vay tiền và người gửi tiền) phù hợp với sự
phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Khi xét đến chất lượng tín dụng người ta thường xét các khía cạnh:
- Đối với NHTM: Chất lượng tín dụng thực hiện phạm vi, mục đích, giới
hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo
tính cạnh tranh trên nguyên tắc hoàn trả đúng hạn, thu được lãi tiền vay, đảm
bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
- Đối với khách hàng: Chất lượng hoạt động tín dụng thể hiện ở chỗ tín
dụng phát ra phải phù hợp với nhu cầu sử dụng, đáp ứng được nhu cầu sản
xuất kinh doanh với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện thu
hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng. Đồng
thời khách hàng thực hiện thanh toán đầy đủ gốc và lãi đúng thỏa thuận.
- Đối với Nhà nước: Chất lượng tín dụng phải đáp ứng được các mục tiêu
phát triển chung của Nhà nước về mặt kinh tế xã hội, tín dụng phải phục vụ
cho sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng
cao cơ sở hạ tầng, tăng phúc lợi xã hội, đồng thời thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung sản xuất, giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng
và tăng trưởng kinh tế.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của NHTM
1.2.2.1 Chỉ tiêu định tính

Đối với NHTM, để đánh giá chất lượng tín dụng bao gồm một số chỉ tiêu
sau:
+ Mức độ đáp ứng kịp thời nhu cầu tín dụng cho khách hàng
Chất lượng tín dụng của một ngân hàng được coi là tốt khi ngân hàng có
khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng.
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để làm được điều đó ngân hàng cần phải có hệ thống phân tích, đánh giá, dự
báo nhu cầu tín dụng của khách hàng chính xác và nhanh chóng.
+ Sự tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc về tín dụng
Các quy định và các nguyên tắc tín dụng được xây dựng nhằm giảm
thiểu những rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng ngân hàng,
chính vì vậy việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định và nguyên tắc này phản
ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng càng cao do ngân hàng có thể hạn chế
được phần nào rủi ro tín dụng.
+ Uy tín và thị phần cho vay của ngân hàng trên địa bàn
Thông qua uy tín và thị phần cho vay của ngân hàng sẽ phản ánh phần
nào chất lượng tín dụng của ngân hàng. Bởi đối với bất kỳ ngân hàng nào, để
tăng uy tín của mình trên thị trường đều buộc họ phải tìm cách mở rộng thị
phần và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng mình.
1.2.2.2 Các chỉ tiêu định lượng
a/ Các chỉ tiêu tuyệt đối
Đây là nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng mở rộng hoạt động tài trợ của
ngân hàng, uy tín của ngân hàng trong công tác thu hút khách hàng.
 Doanh số cho vay
Được tính bằng cách cộng dồn các khoản cho vay trong một niên độ kinh
tế hay trong cùng một kỳ tính nhất định, chỉ tiêu này phản ánh tồn tại lượng
vốn mà ngân hàng đã giải ngân cho khách hàng vay. Con số này phản ánh xu
hướng hoạt động tín dụng của ngân hàng trong từng thời kỳ. Đối với từng
khách hàng cụ thể các doanh số cho vay khác nhau.

 Tổng dư nợ tín dụng
Được xây dựng bằng tổng dư nợ tại một thời điểm nhất định (thông
thường là vào cuối năm kinh tế). Đây là một trong những chỉ tiêu tổng hợp
được sử dụng để so sánh, xem xét khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tại các thời điểm khác nhau. Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh qui mô tín dụng
của ngân hàng đồng thời đây là chỉ tiêu phản ánh uy tín của ngân hàng. Nếu
chỉ tiêu này thấp và có xu hướng giảm hoặc nếu tăng thì tăng không nhiều và
không ổn định thì cũng có nghĩa là chất lượng hoạt động tín dụng của ngân
hàng đó sẽ không thể đánh giá là cao. Tuy nhiên chỉ tiêu này chưa đủ để ngân
hàng có thể đưa ra một đánh giá chính xác về thực trạng chất lượng tín dụng
tại ngân hàng mình khi kết hợp xem xét các chỉ tiêu khác liên quan, do còn
chịu ảnh hưởng bởi một số nguyên nhân như hoạt động cho vay, đảo nợ, cho
vay theo chỉ định, cho vay ưu đãi…
 Doanh số thu nợ
Được tính bằng cách cộng dồn các khoản thu nợ trong một niên độ kinh
tế, chỉ tiêu này phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã cho khách hàng vay và
đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Doanh số cho vay lớn phải đi kèm với
doanh số thu nợ cao. Nếu doanh số cho vay lớn nhưng doanh số thu nợ thấp
cho thấy dư nợ quá hạn của ngân hàng cao, khả năng thu hồi vốn là lãi thấp,
chất lượng hoạt động tín dụng kém.
 Thu lãi tín dụng
Phản ánh nguồn thu từ cho vay của các NHTM là nguồn chia lãi cổ phần
và bổ sung vốn hoạt động. Qua chỉ tiêu này cho chúng ta thấy được hiệu quả
thực sự mà hoạt động tín dụng mang lại cho ngân hàng.
b/ Các chỉ tiêu tương đối
 Vòng quay vốn tín dụng:
Đây là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán hằng năm để đánh giá
khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp

ứng nhu cầu của khách hàng.
Doanh số thu nợ trong kỳ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển tối thiểu của vốn tín dụng. Vòng
quay của vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn ngân hàng luân chuyển
càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Hệ số này cao quản lý càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao. Chỉ số này cao
trước hết thể hiện khả năng thu nợ tốt. Nó còn thể hiện hiệu quả cho vay của
ngân hàng. Một đồng vốn khi cho vay được nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi
nhuận hơn. Tuy nhiên, cần xét đến yếu tố quan trọng là “dư nợ bình quân”.
Khi dư nợ bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn hơn nhưng lại không
phản ánh chất lượng khoản tín dụng là cao bởi thực tế nó thể hiện khả năng
cho vay kém của ngân hàng. Chỉ tiêu này cần phải được xem xét với chỉ tiêu
“hiệu suất sử dụng vốn”.
 Hiệu suất sử dụng vốn
Chỉ tiêu này phản ánh tỉ lệ vốn cho vay trong tổng nguồn huy động. Nó
xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng về vốn
của bản thân ngân hàng cũng như nền kinh tế.
Tổng nguồn vốn huy động
Hiệu suất sử dụng vốn =
Dư nợ bình quân

Tỷ lệ này trên thực tế di động từ 30% đến 100%. Thông thưòng vào
khoảng 80% là tốt, còn nếu dưới hoặc trên, thậm chí xấp xỉ 100% có thể sẽ
gây ảnh hưởng không tốt cho ngân hàng. Lúc đó tính thanh khoản của ngân
hàng sẽ bị đe dọa do khối lượng doanh thu không được đảm bảo. Tuy vậy, để

xác định một tỷ lệ thế nào là phù hợp còn phụ thuộc vào kết cấu của vốn huy
động, lĩnh vực ngân hàng tập trung tài trợ và nhiều nhân tố khác.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
 Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Một khoản tín dụng có chất lượng cao sẽ đem lại một khoản tín dụng cho
ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu để ngân
hàng tồn tại và phát triển. Lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại chứng tỏ
khoản vay không những thu hồi được gốc mà còn có lãi, đảm bảo độ an toàn
nguồn vốn cho vay.
Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Tỷ trọng TN từ hoạt động tín dụng =
Tổng thu nhập
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng so với
tổng lợi nhuận mà ngân hàng thu được, phản ánh tầm quan trọng hoạt động
tín dụng bên cạnh hoạt động thu lợi nhuận khác.
 Tỷ lệ nợ quá hạn

Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Đây là chỉ số để đo lường chất lượng tín dụng của NHTM, chỉ số này
càng thấp càng thể hiện chất lượng tín dụng là tốt. Chỉ số này thể hiện một
cách thực tế hơn về chất lượng tín dụng do nó hạn chế được việc ngân hàng
đảo nợ hay giãn nợ đối với các khoản cho vay đến hạn mà không có khả năng
thu hồi. Tuy nhiên, đôi khi chỉ tiêu này cũng không phản ánh hết chất lượng
tín dụng của một ngân hàng vì bên cạnh những ngân hàng mặc dù có nợ quá
hạn thấp khả năng xử lý các khoản nợ có hiệu quả. Do đó, để đánh giá chính
xác hơn chất lượng tín dụng có thể dùng kết hợp chỉ tiêu:
Dư NQH có khả năng thu hồi

Tỷ lệ NQH có khả năng thu hồi =
Tổng dư nợ
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi là khoản nợ mà người vay có thể vẫn
tiếp tục trả được cho ngân hàng sau thời hạn ghi trên hợp đồng mà lí do khoản
nợ bị chậm là gặp rủi ro về thiên tai hay hoả hoạn.
Dư nợ khó đòi
Tỷ lệ NQH không có khả năng thu hồi =
Tổng dư nợ quá hạn
Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi là những khoản nợ mà người vay
hầu như không thể trả được cho ngân hàng, nguyên nhân là do khách hàng
vay vốn về kinh doanh nhưng bị thua lỗ dẫn đến phá sản và không có khả
năng hoàn trả nợ cho ngân hàng hoặc có trường hợp khách hàng lừa đảo ngân
hàng.
1.2.3 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng
1.2.3.1 Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của
NHTM
Các NHTM hiện nay trong hoạt động của mình luôn hướng tới khách
hàng lấy mục tiêu lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Hoạt động tín dụng là
một hoạt động cơ bản của NHTM. Hoạt động tín dụng phát triển kéo theo các
hoạt động khác của Ngân hàng phát triển. Do vậy muốn tăng cường và phát
triển hoạt động tín dụng các Ngân hàng cần phải xem xét chất lượng tín dụng.
- Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để Ngân hàng làm tốt chức
năng thanh toán, trung gian tín dụng, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Chất
lượng tín dụng được nâng cao sẽ làm lành mạnh hóa quan hệ tín dụng, giảm
rủi ro tín dụng, nâng cao hiệu suất sử dụng vốn và vòng quay vốn, góp phần
tăng lợi nhuận của hoạt động kinh doanh.
- Chất lượng tín dụng tốt tạo điều kiện tăng khả năng sinh lời của sản
phẩm dịch vụ do sự chậm trễ, giảm các loại chi phí, do đó cải thiện được tình

hình tài chính của Ngân hàng, tạo thế mạnh cạnh tranh.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Giúp cho Ngân hàng có những khách hàng trung thành và khoản lợi
nhuận bổ sung vốn đầu tư. Nói cách khác, chất lượng tín dụng củng cố mối
quan hệ khách hàng, tạo ra môi trường thuận lợi cho Ngân hàng.
1.2.3.2 Nâng cao chất lượng tín dụng là đòi hỏi bức thiết đối với sự phát
triển kinh tế
Ra đời trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng có những đóng góp đáng
kể cho việc thúc đẩy quá trình tập trung tích tụ vốn thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế xã hội. Lịch sử chứng minh điều này thông qua sự ra đời và phát
triển của xã hội loài người qua các hình thái kinh tế xã hội.
- Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ làm giảm tối thiểu lượng tiền thừa trong
lưu thông, điều đó không chỉ giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn trong
nền kinh tế mà còn tạo điều kiện để mở rộng phạm vi thanh toán không dùng
tiền mặt, từ đó tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội, góp phần vào việc ổn
định và điều hòa lưu thông tiền tệ.
- Chất lượng tín dụng tốt có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế, nó là đòn bẩy để phát triển kinh tế. Nguồn vốn kinh doanh của
các doanh nghiệp chủ yếu là nguồn vốn vay. Vì vậy, hiệu quả của các khoản
tín dụng gắn liền với hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, tức là nền kinh tế có
tăng trưởng hay không phụ thuộc vào nguồn đầu tư vốn. Do đó để làm tốt
chức năng đòn bẩy kinh tế của tín dụng, trước hết cần nâng cao chất lượng tín
dụng.
- Nâng cao chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh hóa quan hệ tín dụng
vì hoạt động tín dụng được mở rộng với thủ tục đơn giản, thuận tiện nhưng
vẫn đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng, sẽ góp phần cho vay đúng đối
tượng cần thiết. Mặt khác nâng cao chất lượng tín dụng cũng làm tăng hiệu
quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành vùng, ổn định và phát
triển kinh tế.

19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.3.3 Sự cần thiết của nâng cao chất lượng tín dụng đối với khách hàng
Các khách hàng là doanh nghiệp có nguồn vốn để sản xuất kinh doanh
chủ yếu là vốn vay. Một doanh nghiệp sử dụng vốn tối ưu khi chi phí vốn đạt
ở mức thấp nhất, nghĩa là WACC là thấp nhất. Để đạt được cơ cấu vốn tối ưu
thì doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý giữa vốn vay và vốn tự có.
Chất lượng tín dụng có tốt sẽ làm cho nhu cầu của khách hàng được đáp ứng
được nhanh chóng, kịp thời với số lượng lớn. Chất lượng tín dụng tốt thì
khách hàng mới vay vốn của ngân hàng với thủ tục đơn giản, hợp lý giúp
doanh nghiệp mở rộng kinh doanh, tăng lợi nhuận.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NHTM
1.3.1 Các nhân tố từ phía ngân hàng
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Trong nền kinh tế hiện đại, các doanh nghiệp nói chung và các NHTM
nói riêng muốn tồn tại và phát triển kinh doanh có lãi phải xây dựng cho mình
một chiến lược kinh doanh hiệu quả, nó sẽ giúp ngân hàng có một phương
hướng và khai thác một cách tốt nhất năng lực hiện có của đơn vị đồng thời
có thể giúp ngân hàng thích ứng một cách nhanh nhất những biến động của
môi trường. Trên cơ sở có chiến lược kinh doanh đúng đắn, NHTM mới có
thể có những kế hoạch cho các bộ phận trong từng thời kỳ để đảm bảo thực
hiện mục tiêu nêu ra. Đó là các bộ phận ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
tín dụng như: Kế hoạch phát tiển nguồn nhân lực, kế hoạch Marketing…
- Chất lượng thẩm định dự án, thu thập và xử lý thông tin tín dụng
Thẩm định dự án là việc xem xét một cách khách quan toàn diện những
nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án, hiệu quả kinh
tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của dự án đầu tư để quyết
định cho vay hoặc từ chối. Cũng từ qui trình thẩm định, ngân hàng có thể
20

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tham gia để thu hồi vốn, góp ý cho chủ đầu tư đồng thời căn cứ vào đó để xác
định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ, phương thức thu nợ hợp
lý, taọ cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả để ngân hàng có thể thu hồi
vốn nhanh chóng, nâng cao chất lượng tín dụng. Thêm vào đó, công tác thẩm
định dự án còn giúp ngân hàng thuận tiện hơn trong quá trình kiểm tra, giám
sát khoản vay thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu kế hoạch và các chỉ
tiêu bên vay thực hiện. Ngoài ra, thẩm định dự án rất cần tới yếu tố thu thập
và xử lý thông tin tín dụng, đây là yếu tố xuyên suốt và cơ bản của qui trình
tín dụng. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng cần thu thập thông
tin đầy đủ và linh hoạt, nhờ đó cung cấp các thông tín, xử lý và quản lý các
khoản vay một cách an toàn, hiệu quả. Thông tin tín dụng có thể thu được từ
các nguồn: hồ sơ vay vốn, thông tin giữa các tổ chức tín dụng, thông tin tình
hình sản xuất kinh doanh. Thông tin càng đầy đủ chính xác thì khả năng ngăn
ngừa rủi ro càng lớn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng.
- Trang thiết bị phục vụ thông tin tín dụng
Trang thiết bị là một điều kiện tiên quyết và không thể thiếu cho hoạt
động ngân hàng cũng như hoạt động tín dụng. Đây là công cụ, phương tiện
thực hiện tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm tra qui trình thực
hiện vốn vay, thực hiện các nghiệp vụ giao dịch vụ với khách hàng. Đặc biệt
với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay, các trang thiết bị tin
học tiên tiến, nhiều tiện ích, linh hoạt, giúp ngân hàng xử lý những khoản vay
có hiệu quả, đảm bảo an toàn tín dụng, xây dựng qui trình cấp tín dụng hợp
lý, duy trì quá trình đo lường và quản lý tín dụng, đảm bảo kiểm soát rủi ro tín
dụng đầy đủ, cải thiện tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh cho
ngân hàng.
- Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Kiểm soát nội bộ là một bộ phận cấu thành quản lý và thuộc trách nhiệm
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

của ban điều hành. Hệ thống kiểm soát nội bộ là cơ cấu tổ chức cộng với
những biện pháp, thủ tục do ban điều hành của một ngân hàng chấp nhận,
nhằm hỗ trợ thực thi mục tiêu của ban điều hành đảm bảo khả năng thực tiễn,
tiến hành kinh doanh trong trật tự và hiệu quả. Kiểm toán của cơ quan kiểm
toán bên trong và kiểm tra của thanh tra ngân hàng nhà nước là một hoạt động
kinh doanh của NHTM. Trong đó, quan trọng nhất là hoạt động kiểm toán nội
bộ của các NHTM vì nó là một trong những công cụ quan trọng nhất trong
công tác quản lý, điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng. Công tác kiểm tra
nội bộ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng thường xuyên, càng
chặt chẽ sẽ làm cho hoạt động tín dụng đúng hướng, thực hiện đúng các
nguyên tắc, các yêu cầu, thể lệ trong qui chế tín dụng cũng như quy trình, thủ
tục tín dụng. Kiểm soát nội bộ là biện pháp mang tính chất phòng ngừa, hạn
chế những sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng kịp thời
sửa chữa, giải quyết những khó khăn, vướng mắc, phát huy những thuận lợi,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Phẩm chất và trình độ cán bộ
Con người là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định tới sự thành bại
trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Trong thời đại hiện
nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất chính thì yếu tố con
người càng khẳng định được vị trí trung tâm của nó. Trong hoạt động tín
dụng, muốn nâng cao hiệu quả tín dụng, ngân hàng cần có đội ngũ quản lý,
cán bộ tín dụng giỏi, được đào tạo có hệ thống, có năng lực kiến thức chuyên
môn, và thường xuyên được bồi dưỡng những kiến thức cần thiết để bắt kịp
với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, muốn
chất lượng tín dụng có hiệu quả, người cán bộ ngân hàng cần có tư cách đạo
đức tốt, liêm khiết, trung thực, yêu nghề, chấp hành tốt qui định của pháp luật
và ngân hàng, vì nếu cán bộ ngân hàng chạy theo lợi ích riêng trước mắt mà
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thực hiện không đúng qui định sẽ gây ra những thiệt hại, ảnh hưởng đến chất

lượng tín dụng của ngân hàng.
1.3.2 Nhóm nhân tố từ phía khách hàng
- Năng lực quản lý kinh doanh của người vay
Năng lực kinh doanh của khách hàng bao gồm cả năng lực về tài chính,
năng lực quản lý doanh nghiệp… là yếu tố quyết định sự thành công của
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều yếu tố kinh doanh vi
mô và vĩ mô thường xuyên biến động như nhu cầu thị trường, giá cả nguyên
vật liệu, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, các máy móc thiết bị nhập về không
phát huy được tác dụng như mong muốn… sẽ làm sai lệch những tính toán
mang tính khả thi của doanh nghiệp. Muốn khắc phục được những điều này,
đòi hỏi doanh nghiệp phải có kiến thức, trình độ, kinh nghiệm để phán đoán
được những tình huống biến động có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt
đến tình hình kinh doanh của khách hàng, có thể làm cho khách hàng bị thua
lỗ, dẫn đến không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
- Triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp
Khả năng trả nợ của doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp trong tương lai. Nếu một doanh nghiệp đang trong tình
trạng thị phần bị thu hẹp, nhà cung cấp không ổn định… thì khả năng trả nợ
của ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Hơn nữa, khi ngân hàng cho vay theo
dự án, nếu dự án đó không có tính khả thi thì ngân hàng cũng có khả năng
không thu hồi được vốn và lãi đúng hạn.
- Đạo đức, uy tín người vay
Là một yếu tố quan trọng của quá trình tín dụng, ảnh hưởng đến chất
lượng. Đạo đức, tư cách của người vay không chỉ thể hiện trước khi cấp tín
dụng mà còn thể hiện sau khi cấp tín dụng. Có rất nhiều người có những kỳ
vọng thu được lợi nhuận cao, vì vậy để đạt được những mục đích của mình họ
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai,
mua chuộc cán bộ ngân hàng, gian lận giấy tờ số liệu, sử dụng vốn vay không

đúng mục đích, không đúng với phương án kinh doanh. Việc khách hàng gian
lận sẽ ảnh hưởng rất lớn đến rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Ngoài yếu tố đạo đức, uy tín của khách hàng cũng là một yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng, khả năng thực hiện những cam kết đối với
ngân hàng. Uy tín của khách hàng thể hiện ở nhiều khía cạnh như: chất lượng,
giá cả của hàng hoá, dịch vụ, mức độ chiếm lĩnh thị trường, chu kỳ sống sản
phẩm, các quan hệ kinh tế tài chính, tình hình vay vốn, trả nợ với khách hàng,
bạn hàng và ngân hàng khác. Yếu tố này thể hiện hiệu quả kinh doanh, lợi
nhuận của khách hàng là tiêu chí để ngân hàng đánh giá khả năng thực hiện
nghĩa vụ của khách hàng.
1.3.3 Các nhân tố thuộc môi trường
- Môi trường kinh tế chính trị
Sự ổn định hay bất ổn về kinh tế chính trị và chính sách kinh tế của mỗi
quốc gia đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cũng như ngân hàng. Tính ổn định về kinh tế chính trị mà trước
hết là ổn định về tài chính quốc gia, ổn định tiền tê, lãi suất, khống chế lạm
phát là những yếu tố có thể gây ra những rối loạn mang tính hệ thống, có thể
không trừ một ngân hàng nào. Những yếu tố bất ổn như tăng trưởng kinh tế
âm, thâm hụt tài chính lớn không có khả năng chống đỡ, bù đắp, cán cân vốn
không tương xứng với sự phát triển kinh tế nội địa, sự tăng, giảm giá đột biến
của tài sản có thể là nguyên nhân gây ra rủi ro hệ thống. Đối với khách hàng,
trong điều kiện thuận lợi, khách hàng có thể sử dụng vốn vay một cách hiệu
quả, khả năng thành công của phương án là lớn, thủ tục vay vốn là dễ dàng
hơn, nhanh gọn hơn, do đó nó cũng là những khoản tín dụng có chất lượng.
Về phía nhà nước, khi các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ góp phần thúc
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đẩy nền kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện
đời sống nhân dân. Hệ thống ngân hàng đảm bảo được uy tín, vững mạnh về
tài chính cũng như mang lại sức mạnh cho nền kinh tế. Ngược lại, khi nền

kinh tế biến động, các doanh nghiệp làm ăn thất thường, kém hiệu quả sẽ làm
ảnh hưỏng đến lợi nhuận doanh nghiệp, từ đó làm ảnh hưởng đến khả năng
thu nợ của ngân hàng. Một môi trường kinh tế ổn đinh và phát triển sẽ tạo
điều kiện các hoạt động kinh doanh có hiệu quả, kinh tế đất nước sẽ phát triển
và do vậy chất lượng tín dụng mới được đảm bảo.
- Môi trường pháp lý
Ngân hàng hoạt động không chỉ chịu sự giám sát điều hành của pháp
luật, mà còn chịu sự giám sát điều hành của luật ngân hàng và luật các tổ chức
tín dụng. Do đó, nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, thống nhất giữa các
luật, văn bản dưới luật… sẽ làm cho hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó
khăn, thiếu tính linh hoạt, rủi ro về vốn cao, gây bất lợi cho ngân hàng. Cùng
với nó là sự thay đổi trong chính sách tiền tệ hoặc chính sách tài khoá của
chính phủ qua từng thời kỳ cũng gây khó khăn không nhỏ cho ngân hàng
trong quá trình hoạt động của nó. Ngược lại, nếu pháp luật phù hợp với thực
tế khách quan tạo môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiến
hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao.
- Môi trường cạnh tranh
Đối với các NHTM thì các tổ chức trung gian tài chính khác như: công
ty bảo hiểm, công ty tài chính, tổ chức tín dụng, các NHTM cùng hệ thống
hoặc các ngân hàng cùng hệ thống nhưng khác địa bàn được xem là mối quan
hệ tương tác, tác động qua lại lẫn nhau và các tổ chức trên vừa là đối thủ cạnh
tranh đồng thời là đối tác kinh doanh của ngân hàng. Chính những đối thủ
cạnh tranh sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do đó
25

×