Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Bắc Giang.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.45 KB, 85 trang )

MỤC LỤC
3.2.8/ Thực hiện tốt công tác tư vấn, hỗ trợ, chăm sóc khách hàng ...... 75
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC BẢNG BIỂU
CHỈ TIÊU .......................................................................................... 34
CHỈ TIÊU .......................................................................................... 42
3.2.8/ Thực hiện tốt công tác tư vấn, hỗ trợ, chăm sóc khách hàng ...... 75
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau năm 1989 cho tới nay, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có những
đổi mới toàn diện và sâu sắc: Từ một cấp, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã chuyển
thành đa cấp, đa dạng hóa về loại hình sở hữu, từng bước hiện đại hóa các khâu
nghiệp vụ, cùng với đó là không ngừng mở rộng các loại hình dịch vụ, tính chuyên
nghiệp trong hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng được thể hiện rõ nét. Nhờ có
những bước tiến vượt bậc về chất đó, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã góp phần
đáng kể vào những thành tựu kinh tế vang dội mà đất nước đã đạt được trong những
năm qua như kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những
thành tựu đó đã được Đảng và Chính phủ ghi nhận và đánh giá cao.
Đứng trước sự phát triển nhanh chóng của nền nền kinh tế đó, những sức ép,
đòi hỏi từ xã hội vào hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung- và Ngân hàng công
thương nói riêng trong vai trò đầu tầu về các hoạt động cho vay đầu tư nhằm mở rộng
sản xuất, phát triển kinh tế nhiều vấn đề cần được bổ xung, sửa đổi. Những vấn đề đó
nằm ở hầu hết toàn bộ các khâu, bộ phận trong ngành ngân hàng như: tổ chức bộ
máy, nguồn lực, luật pháp, công nghệ Ngân hàng...
Tuy nhiên, một trong những vấn đề được đa số những người liên quan nhìn
nhận ở đây chính là sự cần thiết phải không ngừng đẩy mạnh, nâng cao chất lượng tín
dụng của hệ thống ngân hàng. Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng được coi như
phương tiện hiệu quả nhất để đầu tư cho sản xuất, mở rộng hoạt động kinh doanh của
các thành phần thuộc mọi tầng lớp trong nền kinh tế. Tín dụng thường được ví như
những mạch máu luân chuyển, vận hành tới mọi ngóc ngách trong 1 nền kinh tế, giúp
cho việc điều hòa vốn trở nên thông suốt, thuận lợi và hiệu quả. Xét trên giác độ vĩ


mô, tín dụng là công cụ quan trọng của các nhà chiến lược trong việc quản lý, hoạch
định các chính sách kinh tế. Nếu xét về góc độ vi mô, tín dụng được coi như nguồn
gốc, là một trong những yếu tố căn bản nhất giúp cho một doanh nghiệp sinh lợi,
thậm chí, với các ngân hàng, đây vẫn được coi như hoạt động truyền thống cung cấp
trực tiếp phần lớn lợi nhuận cho các ngân hàng.
Chính vì vậy, quan tâm tới sức khỏe tín dụng luôn được coi một trong những
hoạt động quan trọng nhất của một ngân hàng, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, dưới
sức ép của sự phát triển, ngày càng có nhiều những tồn tại được bộc lộ hoặc nảy sinh
ra cần được xem xét giải quyết một cách nhanh chóng, hiệu quả nhằm đảm bảo lợi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề tốt nghiệp
ích cho các ngân hàng và cho toàn nền kinh tế. do vậy, việc nâng cao chất
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
4
lượng hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại- trong đó có Ngân hàng
Công thương Bắc Giang- là một trong những yêu cầu bức thiết nhất hiện hiện.
Đứng trước những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, qua thực tế hoạt động của
Ngân hàng Công Thương Bắc Giang, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao
chất lượng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Bắc Giang" làm
chuyên đề thực tập.
Chuyên đề tập trung nghiên cứu về hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công
thương Bắc Giang trong những năm gần đây (2007-2009), từ đó đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công
thương Bắc Giang.
Kết cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 Chương:
Chương 1: Tổng quan về chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT tỉnh Bắc
Giang.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT tỉnh
Bắc Giang.

Lĩnh vực được lữa chọn trên đây là một lĩnh vực rất rộng lớn và phức tạp. Do
vậy, dù đã có những cố gắng, nỗ lực trong việc nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực
tiễn song bài viết mới chỉ đưa ra những giải pháp cơ bản, chủ yếu trên cơ sở vận
dụng lý luận vào thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, để phát huy
tốt hơn vai trò, chức năng, nhiệm vụ của NHCT tỉnh Bắc Giang, góp phần vào công
cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất của đất nước và sự nghiệp phát triển kinh tế
của tỉnh nhà.
Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của Thầy, Cô và bạn bè đồng
nghiệp để bài viết được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1/ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1/ Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ở mỗi bộ phận trong nền kinh tế, trong bất kỳ một thời điểm nào, luôn có tình
trạng mất cân đối trong luồng tiền ra và luồng tiền vào hay luôn tồn tại những nguồn
tài chính dư thừa chưa được sử dụng, được đưa ra ngoài dưới dạng tiết kiệm nhưng
tồn tại song song với nó luôn có một bộ phận thiếu hụt tài chính có nhu cầu về vốn
trong nền kinh tế. Như vậy, ở những nơi có nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi sẽ xuất
hiện sự lãng phí, nhưng ngược lại, ở những nơi mà nguồn tài chính đang ở trạng thái
thiếu hụt, ở đó cơ hội đầu tư không được tận dụng và khả năng sinh lời bị đánh mất,
điều đó làm cho nền kinh tế không ở trạng thái toàn dụng, các nguồn lực không được
phát huy một cách triệt để. Từ đó, hình thức tín dụng sơ khai của nền kinh tế được
hình thành: sự cho vay và đi vay giữa các cá thể với nhau.
Tín dụng là một phạm trù phản ánh mối quan hệ kinh tế trong đó cá nhân hay
tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật cho một cá nhân
hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: thời gian hoàn trả, lãi suất cho
vay, cách thức cho vay và thu hồi...

Thông thường, tín dụng được hiểu là quan hệ vay mượn bao gồm hai hành
động trái chiều nhau là đi vay và cho vay. Tuy nhiên khi thuật ngữ tín dụng được gắn
liền với một chủ thể nhất định như ngân hàng hoặc các trung gian tài chính khác, ví
như thuật ngữ TDNH thì nó chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay.
Ngày nay, do nhu cầu ngày càng tăng của các thành phần trong nền kinh tế,
nghiệp vụ của các ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển, các hình thức tín
dụng trong ngân hàng theo đó cũng trở nên ngày một phong phú, đa dạng hơn. Theo
luật tổ chức TD thì "Hoạt động TD là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
nguồn vốn huy động đế cấp tín dụng".
1.1.2/ Đặc trưng của hoạt động tín dụng ngân hàng
Quan hệ tín dụng chỉ được diễn ra khi những cá nhân, tổ chức có nhu cầu đi vay
và cho vay vốn gặp nhau trên thị trường với các ràng buộc về không gian thời gian và
các điều kiện khác đã được thoả mãn. Do đó nó mang các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, Quan hệ tín dụng ngân hàng phải được xuất phát từ sự tin tưởng hai
chiều giữa chủ thể cho vay là ngân hàng với chủ thể đi vay là khách hàng. Trong đó,
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
6
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng cần tin tưởng vào những khía cạnh như khả năng tài chính của người đi
vay, mong muốn trả nợ... tin tưởng vào khả năng người đi vay sẽ hoàn trả đầy đủ cả
gốc và lãi đúng thời như thời hạn mà hai bên đã cam kết. Ngược lại, ngân hàng đó
cần có tạo dựng được uy tín nhất định đối với người đi vay, giúp người đi vay tin
rằng ngân hàng có khả năng đáp ứng một cách tốt nhất những nhu cầu của mình về
quan hệ tín dụng cũng như các dịch vụ ngân hàng được kèm theo và có liên quan
như: về số lượng vốn vay, lãi suất cho vay, thời hạn- kế hoạch giải ngân cụ thể...
Thứ hai, Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị gốc ban đầu, tức là
nó bao hàm cả gốc và lãi. Phần lãi này được coi như một dạng doanh thu cho ngân
hàng nhằm bù đắp toàn bộ những khoản chi phí, rủi ro có liên quan và mang lại cho
ngân hàng một phần lợi nhuận.
Thứ bai, Quan hệ tín dụng có nguyên tắc hoàn trả, có nghĩa là ngân hàng chỉ

giao vốn cho người đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định đã được
thoả thuận trước và được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng, đến khi đáo hạn, nếu như
không có thoả thuận khác thì người đi vay phải hoàn trả toàn bộ số vốn đó cộng thêm
phần thặng dư cho ngân hàng như đã thỏa thuận từ trước.
Thứ tư, Hai bên tham gia vào quy trình tín dụng có nghĩa vụ phải thực hiện
chính xác như những gì đã cam kết trong hợp đồng đã ký như một quy định bắt buộc
của pháp luật trừ khi cả hai đi đến một sự đồng thuận trong việc thay đổi một phần
hoặc toàn bộ những gì đã thỏa thuận.
Thứ năm, Hoạt động tín dụng luôn ẩn chứa nhiều rủi ro do tính phong phú và
đa dạng của chính hoạt động này. Tính đa dạng của nó biểu hiện ở: đối tượng cho
vay (có thể là cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp hoạt động ở mọi lĩnh vực...), hình
thức cấp tín dụng (cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính...). Những hình thái biểu
hiện rủi ro: rủi ro trực tiếp từ chính hoạt động của ngân hàng như: rủi ro thanh khoản,
rủi ro mất vốn do hoạt động tín dụng mang lại, ngoài ra còn có những rủi ro mang
tính gián tiếp khách quan và chủ quan từ bên ngoài nền kinh tế như: lạm phát, khủng
hoảng kinh tế, bất ổn về chính trị xã hội trong việc thay đổi cách chính sách vĩ mô,
đưa ra các quyết định, hoạt động có tác động tới các hoạt động kinh tế...Do vậy, chủ
động đề ra những biện pháp linh hoạt, kịp thời nhằm phòng ngừa và hạn chế những
rủi ro tín dụng có thể gặp phải là một trong những yêu cầu tất yếu khi thực hiện hoạt
động tín dụng ngân hàng.
Thứ sáu, Hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với hệ thống lưu thông tiền tệ
của một quốc gia. Biểu hiện chính của nó là các ngân hàng thương mại thông qua
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
7
Chuyên đề tốt nghiệp
việc huy động vốn và cho vay đã thực hiện đưa vốn tiết kiệm từ dân cư (vốn ngoài
lưu thông) vào quá trình đầu tư có hiệu quả làm tăng vòng quay vốn của nền kinh tế.
1.1.3/ Nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm
đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong

các quy định của ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại.
1.1.3.1/ Mục đích cho vay
Trước khi nhận được khoản vay, ngân hàng phải có một cam kết xác nhận, ghi
rõ mục đích sử dụng của khoản vốn được vay và cam kết thực hiện đúng như mục
đích đã nêu ban đầu. Khách hàng có thể được vay để sử dụng với nhiều mục đích
khác nhau như vay sản xuất, tiêu dùng, đầu tư, bảo lãnh,...nhưng không được sử dụng
vào các mục đích mà ngân hàng và pháp luật nghiêm cấm hoặc có thể nằm ngoài
phạm vi cho phép của ngân hàng, ngoài ra, trong quá trình sử dụng, khác hàng không
được phép tự ý thay đổi mục đích sử dụng dưới mọi hình thức. Trong trường hợp
khách hàng sử dụng sai mục đích, tùy theo mức độ, ngân hàng có thể quyết định đơn
phương ngừng cho vay, thu hồi nợ sớm, phạt tiền, thậm chí khởi kiện trong những
trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng.
1.1.3.2/ Khả năng sinh lời
Ngân hàng là một trong những tổ chức kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế
với mặt hàng giao dịch chính là tiền tệ- vốn nhận được những sự đòi hỏi đặc biệt về
uy tín, còn gọi là lĩnh vực kinh doanh lòng tin. Chính vì vậy, sinh lời với các ngân
hàng không chỉ mang tính chất cơ bản như bù đắp các chi phí, tổn thất phát sinh trong
quá trình kinh doanh cũng như thu về một mức lợi nhuận chấp nhận được cho chủ sở
hữu, mức sinh lời và sự ổn định, chắc chắn trong sự sinh lời còn được coi như một
trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc đánh giá uy tín, tạo danh tiếng tốt cho
ngân hàng.
1.1.3.3/ Đa dạng hóa rủi ro
Rủi ro là một trong những yếu tố tiêu biểu luôn hiện hữu trong hoạt động tín
dụng ngân hàng. Nếu khách hàng không có khả năng hoàn trả những khoản vay do
những điều kiện khách quan thì ngân hàng không thể thu hồi được khoản nợ gốc
chưa tính đến các khoản lãi. Ngân hàng nên trải rộng trên nhiều đối tượng cho vay và
những thành phần vốn khác nhau tránh tập trung vốn quá lớn vào một đối tượng vay
hoặc một lĩnh vực, một thành phần kinh tế nhất định nào đó như vậy dễ dàng bị tổn
thất khi đối tượng vay gặp khó khăn về vấn đề tài chính. Điều này dẫn đến một tập
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A

8
Chuyên đề tốt nghiệp
hợp các món vay có tính cân bằng và bền vững.
1.1.3.4/ Tính an toàn
Tín an toàn trong hoạt động tín dụng được hiểu là khả năng hoàn trả nợ đầy
đủ và đúng với thời hạn cam kết. Trong thực tế, những yêu cầu về trả nợ luôn được
thỏa thuận kỹ lưỡng và quy định rõ ràng trong hợp đồng. Ngân hàng đánh giá tín an
toàn của một món vay thông qua những tiêu chí như: mục đích sử dụng, phương án
kinh doanh, đạo đức của người đi vay, chất lượng- số lượng tài sản đảm bảo,...Tính
an toàn của các khoản vay được coi như một trong những yếu tố sống còn với mọi
ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp tới nguy cơ phá sản, khả năng phát triển của ngân
hàng.
1.1.4/ Vài trò của tín dụng ngân hàng
Tính an toàn ở đây biểu hiện là việc trả nợ vay bao gồm cả gốc và lãi khi đến
hạn thanh toán. Do vậy ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện
đúng cam kết này. Tính an toàn của khoản vay được ngân hàng đánh giá qua các mặt
như: mục đích sử dụng vốn vay, phương án kinh doanh, đạo đức của người vay, tài
sản đảm bảo... Tính an toàn của các khoản vay là điều kiện để ngân hàng có thể tồn
tại và phát triển được.
1.1.4.1/ Với ngân hàng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho ngân hàng, theo thống
kê, 70% chi phí hoạt động phát sinh thông qua các nghiệp vụ tín dụng, đồng thời hoạt
động này cũng đóng góp trung bình khoảng trên 70% thu nhập cho các ngân hàng
thương mại. Qua đó ta thấy được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng ngân hàng,
nó mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời
tín dụng ngân hàng cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, do vậy các ngân hàng
thương mại thường coi vấn đề "Quản trị rủi ro tín dụng" là vấn đề trọng tâm trong
công tác quản trị.
1.1.4.2/ Với khách hàng
Tín dụng ngân hàng bắt nguồn từ nhu cầu của thị trường, nó thoả mãn chính

nhu cầu về phương tiện thanh toán của chủ thể đi vay- khách hàng. Thực tế, một
khách hàng với nhu cầu cấp thiết là y tế mà không có nguồn thanh toán lúc đó thì hậu
quả sẽ ra sao? Tương tự khi một nhà kinh doanh đứng trước một cơ hội đầu tư lớn có
khả năng sinh lời cao và độ an toàn cao mà lại bất lực bởi vốn đầu tư thì thiệt hại đó
quả không nhỏ...
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư lớn, có tổ chức thì việc tiếp
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
9
Chuyên đề tốt nghiệp
cận với nguồn tín dụng ngân hàng được coi là một nguồn vốn tương đối dễ dàng,
nhanh chóng và chi phí cho việc sử dụng nguồn vốn này tương đối thấp (chi phí đầu
vào cho hoạt động kinh doanh thấp), tức là nó đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động
kinh doanh của họ do vậy nó làm tăng khả năng sinh lời, tăng tính hiệu quả cho
những kế hoạch đầu tư của khách hàng.
1.1.4.3/ Với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò như mạch máu lưu thông tiền tệ trong nền
kinh tế tập trung nguồn vốn nhàn rỗi ngoài lưu thông dưới dạng tiết kiệm đem lại đầu
tư cho nền kinh tế phục vụ mục đích phát triển kinh tế.
Vai trò của tín dụng với toàn nền kinh tế được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, dựa trên quy luật tự điều tiết của nền kinh tế thị trường, tín dụng
ngân hàng sẽ được điều tiết hài hòa, hợp lý và chính xác: luồng vốn được chảy từ
những nơi dư thừa về những nơi thiếu hụt. Thêm vào đó, trong những phương thức
chu chuyển, quỹ cho vay của nền kinh tế bao gồm:
1- Giao dịch tín dụng trực tiếp giữa các chủ thể cho vay và đi vay.
2- Giao dịch bán trực tiếp thông qua môi giới.
3- Giao dịch tín dụng gián tiếp thông qua các ngân hàng - tổ chức trung gian tài
chính.
Ở đây, giao dịch tín dụng qua các ngân hàng thực sự vẫn luôn được coi là
kênh truyền tải vốn quan trọng nhất, chiếm trên 50% chu chuyển quỹ cho vay trong
nền kinh tế, đặc biệt, tỷ lệ này ở các nước đang phát triển như ở Việt Nam thậm chí

còn cao hơn rất nhiều, rơi vào khoảng 70% tổng chu chuyển quỹ cho vay trong nền
kinh tế.
Thứ hai, dựa vào những ưu điểm vượt trội về hình thức của tín dụng ngân
hàng so với các hình thức cấp tín dụng trực tiếp và bán trực tiếp biểu hiện đó là: sự an
toàn, nhanh chóng, thuận tiện, dễ tiếp cận và có khả năng đáp ứng được những khoản
vay khổng lồ một cách dễ dàng nếu có đủ điều kiện cho vay đã củng cố thêm cho vai
trò đặc biệt quan trọng của tín dụng ngân hàng trong toàn nền kinh tế.
Thứ ba, hoạt động tín dụng góp phần ổn định sự lưu thông tiền tệ. Thông qua
hoạt động này, ngân hàng nắm được thông tin quan trọng, qua đó là cơ sở để điều tiết
thị trường và thực thi chính sách tiền tệ. Tín dụng ngân hàng cũng góp phần tích cực
tới việc ổn định và lưu thông trong thị trường hàng hoá- góp phần cân đối cung cầu
trên thị trường.
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ tư, kiểm soát thị trường và thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
• Kiểm soát thị trường: Với thị trường vốn và thị trường tiền tệ, hoạt động này
của ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong việc điều tiết khi vừa là kênh huy
động vốn (ngân hàng đóng vai trò là người đi vay, khách hàng là người cho
vay) đồng thời lại là kênh cung cấp vốn (ngân hàng là người cho vay, đối
tượng đi vay là khách hàng). Cơ chế này hoạt động theo nguyên tắc: khi thị
trường tiền tệ có biến động, tín dụng ngân hàng sẽ điều tiết lại những biến
động đó thông qua việc điều chỉnh lãi suất và thay đổi các điều kiện thực hiện
hợp đồng tín dụng. Đối với thị trường hàng hoá, tín dụng ngân hàng cũng có
những kiểm soát nhất định. Với cung hàng hoá - tín dụng đóng vai trò là kênh
hộ trợ hiệu quả nhất, có tác động trực tiếp cung cấp vốn cho các doanh nghiệp,
nhà máy hay thông qua các cổ đông, với cầu hàng hoá - hoạt động tín dụng
ngân hàng gián tiếp tác động đến tiêu dùng của khách hàng hay cầu đầu tư của
doanh nghiệp. Như vậy với sự kiểm soát thị trường sẽ tạo sự ổn định và định
hướng cho thị trường.

• Thu hút đầu tư: hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần làm bình ổn định môi
trường kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền...
Thông qua đó, rất nhiều những cơ hội đầu tư thuận lợi liên tục được sản sinh
ra chờ đón sự nắm bắt của các nàh đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ năm, hoạt động tín dụng góp phần làm đầy ngân sách chính phủ thông
qua thuế thu nhập và các khoản đầu tư có ủy thác của chính phủ cho các tổ chức kinh
tế.
1.1.5/ Các hình thức cấp tín dụng ngân hàng
Điều 49 Luật các tổ chức tín dụng quy định: "Tổ chức tín dụng được cấp tín
dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu, cầm cố thương
phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác
theo quy định của ngân hàng nhà nước".
1.1.5.1/ Cho vay đối với các tổ chức cá nhân
Đây là hình thức cấp tín dụng phổ biến của các ngân hàng thương mại nhằm
đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Tài sản giao dịch được biểu hiện dưới trạng thái tiền tệ.
Các ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay chủ yếu sử dụng nguồn tiền gửi
huy động được để cho vay, tuy nhiên việc huy động vốn chủ yếu là huy động ngắn
hạn, vì vậy, các ngân hàng chủ yếu lựa chịn hình thức cho vay ngắn hạn nhằm tránh
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
11
Chuyên đề tốt nghiệp
những cú sốc về chênh lệch kỳ hạn, qua đó hạn chế những rủi ro tín dụng có thể gặp
phải, nhưng cho vay ngắn hạn lại không đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng, vì vậy
vừa để đáp ứng mục đích tối đa hóa lợi nhuận, vừa giúp các ngân hàng thương mại
tránh được tối đa những rủi ro trong tín dụng thì ngân hàng nhà nước đã quy định các
ngân hàng thương mại tỷ lệ sử dụng vốn để cho vay dài hạn được huy động từ những
nguồn ngắn hạn là không vượt quá 30%. Đây là bài toán được đặt ra với mọi ngân
hàng thương mại vừa làm sao để vẫn đáp ứng tốt được nhu cầu vốn trên thị trường,
vừa đảm bảo không vi phạm những quy định của ngân hàng nhà nước. Tại các nước
phát triển, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn được cho phép ở một mức

lớn hơn là nhờ quy mô vốn khổng lồ của nội tại các ngân hàng này cũng nhưng trình
độ phát triển vượt bậc của thị trường vốn của nó.
Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN và các quyết định bổ sung sửa đổi của các
quyết định này như: quyết định 127/QĐ-NHNN, quyết định 783/QĐ-NHNN của
thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng, các ngân hàng thương mại có thể áp dụng các
phương thức sau:
• Cho vay từng lần: Trong phương thức này, khi khách hàng có nhu cầu tín
dụng thì khách hàng phải đến ngân hàng và hoàn thành các thủ tục đúng như
quy định của ngân hàng và ký kết giao hẹn với ngân hàng.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời gian nhất định.
• Cho vay theo dự án đầu tư: Khi có nhu cầu đầu tư thực hiện các dự án kinh
doanh dịch vụ, dự án phát triển sản xuất hay các dự án đầu tư cho các công
trình công cộng phục vụ cho lợi ích chung của cả cộng đồng khác, các tổ chức
tín dụng và các nhân đóng vai trò nhà đầu tư sẽ tới ngân hàng xin cấp tín
dụng.
• Cho vay hợp vốn: Là phương thức cho vay trong đó một nhóm các tổ chức tín
dụng cùng cho vay đối với một dự án đầu tư hoặc phương án vay vốn của
khách hàng. Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra dàn xếp, phối hợp các
tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của qui
chế cho vay hiện hành và quy chế đồng tài trợ của tổ chức tín dụng do thống
đốc ngân hàng nhà nước ban hành.
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
12
Chuyên đề tốt nghiệp
• Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Trong nhiều trường hợp, khi khách
hàng có nhu cầu thực hiện vay vốn nhằm mục đích bảo đảm tín thanh khoản
nhất thời nào đó, tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng
vay vốn trong phạm vi hạn mức nhất định. Tùy theo nhu cầu, thời gian hiệu

lực và hạn mức cụ thể cho mức dự phòng sẽ được giao hẹn từ trước một cách
rõ ràng giữa ngân hàng cấp tín dụng và người đi vay.
• Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín
dụng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn
mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại các
máy rút tiền tự động.
• Cho vay theo hạn mức thấu chi: Tổ chức tín dụng cho phép khách hàng chi
vượt mức số tiền ghi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình phù hợp với
các qui định của chính phủ và ngân hàng nhà nước về hoạt động thanh toán
qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.1.5.2/ Chiết khấu cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
Là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng
thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho ngân hàng để đổi lấy một số tiền bằng
mệnh giá, trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Đây là một trong những
nghiệp vụ lâu đời nhất, xuất hiện từ thời các ngân hàng thương mại được thành lập,
nhưng nghiệp vụ cho vay cổ điển này của ngân hàng vẫn chiếm vai trò đáng kể và
vẫn được áp dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
1.1.5.3/ Cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ vốn trong đó dựa trên nhu cầu sử
dụng của bên đi thuê, bên cho thuê tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho bên đi
thuê sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định và bên sử dụng tài sản phải thanh
toán tiền thuê cho bên sở hữu tài sản theo kỳ hạn đã thoả thuận.
Mặc dù hoạt động cho thuê đã trải qua hàng nghìn năm, nhưng cho đến thế kỷ
XX, loại hình nghiệp vụ này mới thực sự được nhìn nhận một cách đáng kể hơn, từng
bước trở thành một ngành kinh doanh thật sự hấp dẫn với các ngân hàng thương mại.
So với các nước trên thế giới hoạt động cho thuê tài chính xâm nhập vào Việt Nam
muộn hơn, hiện nay cả nước ta mới chỉ có khoảng 12 công ty cho thuê tài chính bao
gồm: các công ty cho thuê trực thuộc các ngân hàng thương mại, các công ty liên
doanh và công ty cho thuê 100% vốn nước ngoài.
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A

13
Chuyên đề tốt nghiệp
Hoạt động cho thuê tài chính ra đời là hình thức tài trợ bổ sung, nhằm tạo
thêm những điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong việc hoàn thiện và nâng cao
năng lực cạnh tranh.
1.1.5.4/ Bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng được coi là một hình thức cấp tín dụng, thông qua cam
kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền có liên quan, ngân hàng
được quyền thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng, khi khách hàng thực
hiện không đầy đủ hoặc không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết của mình.
1.2/ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
1.2.1/ Khái niệm chung về chất lượng tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng về bản chất là mối quan hệ giữa người cho vay- ngân
hàng và người đi vay- khách hàng của ngân hàng dựa trên nền tảng uy tín và sự hiểu
biết lẫn nhau. Quan hệ tín dụng được hình thành dựa trên tin thần tự nguyện, hợp tác
để cùng có lợi, hai bên tham gia đều dưới hình thức tự nguyện, nhằm thỏa mãn những
mục đích riêng của mình. Ngoài ra, xét trong tổng thể toàn nền kinh tế, sự hợp tác lẫn
nhau này còn tạo ra sự thuận lợi, phù hợp, lợi ích cho những thành phần khác có thể
trực tiếp hay gián tiếp có liên quan tới mối quan hệ này. Như vậy, theo một góc nhìn
rộng hơn, mối quan hệ tín dụng đó còn góp phần làm lợi chung cho toàn nền kinh tế.
Do đó, chất lượng tín dụng dưới giác độ vi mô chính là mức độ đáp ứng nhu cầu của
khách hàng là người gửi tiền cũng như người vay tiền và đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng, còn khi xét trên giác độ vĩ mô, đó là khả năng phù hợp với sự
phát triển kinh tế của toàn xã hội nói chung. Chất lượng tín dụng ngân hàng được
hiểu cụ thể như sau:
• Đối với khách hàng: về mục đích, khoản tín dụng được cấp phải phù hợp với
lý do, nhu cầu tín dụng của khách hàng. Ngoài ra, một số yếu tố cơ bản, thiết
yếu khác không thể không nhắc đến như lãi suất và kỳ hạn cần có sự hợp lý,
cũng như đảm bảo thủ tục đơn giản thuận tiện, vừa thu hút được khách hàng
nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc tín dụng.

• Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: tín dụng được sinh ra nhằm giải quyết,
đáp ứng những yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất cũng nhưng
thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối hàng hóa, qua đó một mặt mang lại
công ăn việc làm cho người dân, một mặt tạo ra những hàng hóa đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của toàn xã hội. Nói rộng hơn, tín dụng giúp thúc đẩy quá trình
sản xuất, tạo sự phát triển cho nền kinh tế.
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
14
Chuyên đề tốt nghiệp
• Đối với bản thân các ngân hàng thương mại: cần đảm bảo các nhân tố như
phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng đã thực hiện phải phù hợp với năng lực
của ngân hàng và đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn
trả đúng hạn và có lãi, hạn chế mức thấp nhất rủi ro trong hoạt động, đồng
thời đảm bảo lợi nhuận và khả năng thanh khoản.
Như vậy, chất lượng tín dụng ngân hàng là một khái niệm vừa cụ thể (có thể
thể hiện qua các chỉ tiêu định lượng như: kết quả kinh doanh, tỷ lệ nợ quá hạn, hiệu
suất sử dụng vốn vay...) lại vừa mang tính trừu tượng (thể hiện ở khả năng thu hút
khách hàng, tác động đến vấn đề xây dựng hình ảnh thương hiệu cho ngân hàng, tác
động của nó đến nền kinh tế...). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng của rất nhiều
nhân tố cả về mặt chủ quan như: khả năng quản lý, trình độ cán bộ, chất lượng
nguồn vốn huy động...đến các nhân tố khách quan như sự thay đổi của môi trường
kinh tế hay pháp luật...
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, mà dựa trên chỉ tiêu đó, người ta
có thể nhìn ra được sức đề kháng, khả năng thích ứng, biến đổi để bắt kịp với những
đòi hỏi không ngừng tăng của thị trường cũng như thể hiện sức mạnh của ngân hàng
với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành và uy tín, tầm ảnh hưởng của nó với toàn nền
kinh tế. Chất lượng tín dụng là kết quả của một quá trình kết hợp hoạt động giữa
những con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì mục đích chung, do
đó để có chất lượng tín dụng cần có sự quản lý đồng bộ trong ngân hàng từ việc theo
dõi, tìm hiểu và loại trừ những nguyên nhân gây ra những cản trở trong việc cấp tín

dụng.
Qua đó có thể rút ra kết luận là để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động
tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và
uy tín trong hoạt động.
1.2.2/ Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ở các ngân hàng thương
mại
Hệ thống ngân hàng luôn được xem như hệ thần kinh của toàn bộ hệ thống
kinh tế thị trường. Chính vì vậy, muốn toàn bộ nền kinh tế ấy luôn hoạt động tốt, vận
hành nhịp nhàng, thống nhất và luôn nhận được những tín hiệu điều chỉnh chính xác
thì hệ thống ngân hàng- hệ thần kinh của nền kinh tế ấy phải có được sự thông suốt,
mạch lạc và hiệu quả. Đây cũng được coi như tiền đề cho sự phát triển lâu dài, bền
vững của một quốc gia: khi nhu cầu tài chính được đáp ứng tốt, tiền tệ được lưu
thông linh hoạt sẽ là điều kiện lý tưởng kích thích nền kinh tế phát triển. Trong chiều
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
15
Chuyên đề tốt nghiệp
dài lịch sử hàng trăm năm hình thành và phát triển, tín dụng ngân hàng vẫn luôn giữ
vững vị thế độc tôn, đóng vai trò là trung tâm trên mọi phương diện của các ngân
hàng thương mại. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường thì rủi ro trong kinh doanh
là không thể tránh khỏi, đặc biệt, trong lĩnh vực tín dụng, khi mối quan hệ được xây
dựng trên yếu tố tâm lý, lòng tin,những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
còn trở nên đặc biệt nghiêm trọng do có tính dây truyền, tính lây lan mạnh mẽ và với
thực tế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, những hệ lụy từ rủi ro tín dụng ngày càng có
ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế và có thể lan rộng sang quy mô quốc tế.
Chính vì vậy, không giống với các thành phần khác trong nền kinh tế, Chính
phủ của tất cả các quốc gia trên thế giới luôn dành sự quan tâm, giám sát và đưa ra
những quy định mang tính đăc thù, hết sức chặt chẽ cho khối ngân hàng và các hoạt
động liên quan. Về cơ bản, những chính sách trên nhằm:
• Đảm bảo sự an toàn cho khoản tiết kiệm của công chúng.
• Bảo đảm sự bình đẳng và công khai trong việc tiếp cận với các khoản tín dụng

và các khoản tài chính của công chúng.
• Là nguồn cung cấp các khoản tín dụng, thuế và các dịch vụ tài chính khác cho
chính phủ.
• Trợ giúp các khu vực của nền kinh tế có nhu cầu tín dụng đặc biệt (như các hộ
gia đình, các doanh nghiệp nhỏ, nông nghiệp).
• Tăng cường lòng tin của công chúng vào hệ thống tài chính, đảm bảo các
khoản tiết kiệm được đầu tư cho sản xuất và đảm bảo quá trình thanh toán
được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.
• Kiểm soát mức cung ứng tiền tệ và tín dụng, phục vụ cho mục tiêu chung của
quốc gia như: tạo việc làm cao, tỷ lệ lạm phát thấp...
• Ngăn chặn sự tập trung tiềm lực tài chính vào tay một số ít cá nhân hay tổ
chức.
• Những nhiệm vụ, mục tiêu trên giúp ta thấy được tầm quan trọng của hoạt
động ngân hàng, cũng như hoạt động tín dụng ngân hàng do đó việc nâng cao
chất lượng tín dụng ngân hàng là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế và cũng là
nhu cầu thiết thực của chính các ngân hàng thương mại.
Đối với các ngân hàng thương mại, chất lượng tín dụng luôn là yếu tố hàng đầu quyết
định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng:
• Chất lượng tín dụng tốt làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
16
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng
và thu hút được nhiều khách hàng, bởi lẽ sự phong phú và chất lượng của các
sản phẩm dịch vụ tạo ra một hình ảnh, uy tín cho ngân hàng tạo ra những
khách hàng trung thành với ngân hàng.
• Chất lượng tín dụng tạo thuận lợi cho sự tồn tại của ngân hàng bởi vì chất
lượng tín dụng cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và
những khoản lợi nhuận để bổ sung vào vốn đầu tư.
• Một ngân hàng muốn giảm thiểu sự chậm trễ, yếu kém còn tồn đọng trong

những hoạt động nghiệp vũ cũng như công tác quản lý, tránh nguy cơ thất
thoát tài sản từ những khoản vay rủi ro cao, đồng thời vẫn đảm bảo đem về lợi
nhuận cao cho ngân hàng thì yêu cầu tất yếu là phải không ngừng nâng cao
chất lượng tín dụng.
• Chất lượng tín dụng củng cố mối quan hệ xã hội của ngân hàng bằng những
điều kiện lao động tốt nhất.
• Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, nâng cao uy
tín, tạo thế mạnh cho các ngân hàng trong cạnh tranh.
• Đứng trước sức ép cạnh tranh ngày càng khốc liệt từ phía các đối thủ, mức độ
yêu cầu ngày một cao của thị trường cũng như những đòi hỏi, giám sát gắt gao
của chính phủ cùng mục tiêu chung là tăng trưởng kinh tế - xã hội và sự phát
triển vững mạnh của hệ thống ngân hàng, việc không ngừng nâng cao hơn nữa
chất lượng tín dụng là cần thiết khách quan.
Ngoài ra, với toàn nền kinh tế, việc chất lượng tín dụng ngày càng nhận được
những sự quan tâm sâu xát do:
• Muốn thực hiện tốt vai trò là trung tâm thanh toán chủ yếu trong nền kinh tế,
thực tế bặt buộc phải ngày càng đảm bảo hơn nữa chất lượng tín dụng: chất
lượng tín dụng được đảm bảo sẽ làm tăng vòng quay vốn tín dụng, qua đó, chỉ
một số lượng tiền như cũ có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều
kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông và củng cố sức mua của đồng tiền.
• Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế và nâng cao uy tín quốc gia: Thực vậy, do sự gắn bó mật thiết giữa
hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại với khối lượng tiền mặt
trong lưu thông, cho nên thông qua các nghiệp vụ hiện đại như cho vay
chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
17
Chuyên đề tốt nghiệp
thương mại được coi như một mắt xích vô cùng quan trọng trong cơ chế tạo
tiền, mở rộng số nhân tiền tệ trong nền kinh tế. Nhờ khả năng tạo tiền của hệ

thống ngân hàng, khối lượng tiền được mở rộng và đưa vào lưu thông có
quyền thanh toán và chi trả như các phương tiện khác và có thể được chuyển
thành tiền mặt - phương tiện lưu thông có tính lỏng cao nhất. Trong nền kinh
tế hàng hóa thô sơ, do quan hệ tín dụng chưa đạt tới những trình độ nhất định,
tiền ghi sổ chưa xuất hiện, lạm phát không hề tồn tại, chỉ tới khi tín dụng phát
triển, lạm phát ra đời, có thể coi tín dụng ngân hàng chính là cha đẻ của lạm
phát. Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng
thương mại cung cấp tổng phương tiện thanh toán phù hợp với yêu cầu của
nền kinh tế qua đó giảm bớt lượng tiền thừa, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn
định tiền tệ và tăng uy tín quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của sản phẩm
dịch vụ trong tương lai của các công trình đầu tư.
• Chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian
tín dụng trong nền kinh tế: tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu
tư, góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế. Tăng cường chất lượng tín dụng
đồng nghĩa với việc giảm thiểu lãng phí vốn do không sử dụng hết lượng tiền
trong lưu thông giải quyết mối quan hệ về cung cầu vốn trên thị trường, điều
hoà và ổn định lưu thông tiền tệ .
• Chất lượng tín dụng góp phần làm lành mạnh hoá quan hệ tín dụng: Hoạt động
tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản, thuận tiện, đảm bảo nguyên
tắc tín dụng góp phần cho vay đúng các đối tượng cần thiết, giảm thiểu và xoá
bỏ tình trạng cho vay nặng lãi chủ yếu hiện nay ở khu vực nông thôn và miền
núi xa xôi.
• Tín dụng là một trong những công cụ đắc lực nhất của chính phủ trong việc
thực hiện các chủ trương, đường lối, định hướng về phát triển kinh tế - xã hội
theo phân bố địa lý, các ngành nghề và lĩnh vực đầu tư. Dựa trên những phân
tích, đánh giá khả năng phát triển của các đối tượng kinh tế, khu vực kinh tế
cụ thể, kết hợp với nguồn tín dụng, đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn sẽ
khai thác được khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động... qua đó nâng cao
năng lực sản xuất chung cho toàn nền kinh tế, cung cấp ngày càng nhiều sản
phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, cải thiện, nâng cao thu nhập

cho người lao động. Như vậy, nâng cao chất lượng tín dụng là góp phần tăng
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
18
Chuyên đề tốt nghiệp
hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành các
vùng trong cả nước, ổn định và phát triển nền kinh tế.
• Từ những đòi hỏi thiết thực, khắt khe đó, sự hoàn thiện, nỗ lực của riêng
những ngân hàng thương mại là không đủ trong viẹc cải thiện chất lượng tín
dụng. Điều này còn đòi hỏi có sự tham gia, trợ giúp, quản lý đắc lực từ phía
chính phủ bằng việc đưa ra các cơ chế chính sách phù hợp, thêm vào đó là sự
phối hợp nhịp nhàng và có hiệu quả giữa các cấp các ngành là điều cần thiết.
1.3/ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu quan trọng và phức tạp: nó không những
được thể hiện qua những góc cạnh, cách nhìn khác nhau mà khi đánh giá, nó vừa
mang tính chất trừu tượng lại vừa có nét cụ thể. Về cơ bản, việc cung cấp tín dụng
cho khách hàng phải đảm bảo mục tiêu hiệu quả, an toàn và lợi nhuận cho ngân hàng,
do vậy chất lượng tín dụng cần được thỏa mãn các yêu cầu theo những chỉ tiêu sau:
1.3.1/ Các chỉ tiêu định tính
• Hoạt động tín dụng phải đảm bảo mục tiêu định hướng của ngân hàng trong
ngắn hạn cũng như trong dài hạn.
• Hoạt động tín dụng phải linh hoạt, phù hợp với từng loại khách hàng...thực
hiện tốt chính sách hỗ trợ khách hàng để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của
ngân hàng.
• Hoạt động tín dụng phải thực hiện đúng quy trình thủ tục, tuân thủ các nguyên
tắc: sử dụng vốn đúng mục đích, hoàn trả tiền vay đầy đủ và đúng hạn, có tài
sản đảm bảo... Có như vậy mới đảm bảo tính chất pháp lý và an toàn cho ngân
hàng.
1.3.2/ Các chỉ tiêu định lượng
Bên cạnh những chỉ tiêu định tính, chất lượng tín dụng cũng được phản ánh
bằng các chỉ tiêu mang tính định lượng nhằm hỗ trợ cho công tác quản trị ngân hàng

một cách có hiệu quả như:
Cơ cấu cho vay: về thành phần kinh tế, vùng kinh tế, thời hạn cho vay, phương
thức cho vay...trong từng thời kỳ cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng.
Cơ cấu về thời hạn, số lượng và chi phí huy động vốn: Nếu thời hạn huy động
vốn quá ngắn cũng ảnh hưởng đến thời gian và quy mô cho vay của ngân hàng, số
lượng và chi phí đầu vào cũng quyết định đến số lượng và lãi suất đầu ra, do đó công
tác huy động vốn có hiệu quả cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng.
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
19
Chuyên đề tốt nghiệp
1. Nợ quá hạn, nợ xấu:
Nợ quá hạn là chỉ tiêu cơ bản hàng đầu cho biết chất lượng hoạt động tín
dụng. Theo Quyết định số 493/2005/QĐ - NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ban hành các quy định về phân loại nợ, cũng như cụ thể cách
thức trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong tổ chức hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng thì:
Nợ quá hạn được định nghĩa là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và
/ hoặc lãi đã quá hạn.
Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Tỷ lệ NQH =
Từ công thức trên, ta thấy: tỷ lệ nợ quá hạn có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với
tổng dư nợ. Về lý thuyết, khi tổng dư nợ tăng lên trong khi số dư nợ quá hạn không
đổi, tỷ lệ nợ quá hạn sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, trên thực tế, việc giảm tỷ lệ nợ quá
hạn thông qua phương pháp này thường gặp phải một số khó khăn, do khi đẩy mạnh
tăng trưởng tổng dư nợ, sẽ rất khó để có thể giữ nguyên số dư nợ quá hạn, thậm chí
tỷ lệ này còn có xu hướng tăng, nhất là khi nền kinh tế có những dấu hiệu không
thuận lợi. Vì vậy, biện pháp điều chỉnh tổng dư nợ nhằm giảm tỷ lệ nợ quá hạn đòi
hỏi sự nghiên cứu, tính toán thận trọng và chỉ có thể áp dụng trong những điều kiện
kinh tế thích hợp. Để tiện cho việc theo dõi, ra chiến lược, mục tiêu cho từng giai
đoạn, người ta thường chia chỉ tiêu này ra về mặt kỳ hạn như sau:

Tỷ lệ NQH ngắn hạn =
Tỷ lệ NQH dài hạn =
Và tỷ lệ nợ quá hạn phân theo thành phần kinh tế.
Cũng theo Quyết định số 493/2005/QĐ - NHNN ngày 22/04/2005 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành các quy định về phân loại nợ, cũng như cụ thể
cách thức trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong tổ chức hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng thì: Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, và
5 theo quy định về phân loại nợ. Quy định về phân loại nợ chia các khoản vay thành
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
Dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Nợ quá hạn dài hạn
Nợ dài hạn
20
Chuyên đề tốt nghiệp
5 nhóm:
• Nhóm 1 : Nợ đủ tiêu chuẩn gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá
là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi đúng hạn.
• Nhóm 2 : Nợ cần chú ý gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc lẫn lãi nhưng co dấu hiệu khách hàng
suy giảm khả năng trả nợ.
• Nhóm 3 : Nợ dưới tiêu chuẩn gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này
được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi
(các khoản nợ quá hạn từ 90-180 ngày, các khoản cơ cấu lại thời hạn trả nợ
trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu, các khoản khác theo quy định).
• Nhóm 4 : Nợ nghi ngờ gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có
khả năng tổn thất cao (các khoản nợ quá hạn từ 181-360 ngày, các khoản nợ

cơ cấu lại hạn trả nợ quá hạn từ 90-180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại, các
khoản khác theo quy định).
• Nhóm 5 : Nợ có khả năng mất vốn gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không còn khả năng thu hồi vốn, mất vốn (các khoản nợ quá hạn
trên 360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý, các khoản nợ đã cơ
cấu lại thời hạn nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn được cơ cấu lại, các
khoản khác theo quy định).
Ngoài ra, một chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng tín dụng là tỷ lệ nợ xấu,
tuy nhiên thực tế các ngân hàng thương mại hiện nay thường sử dụng chỉ tiêu nợ quá
hạn để phản ánh, đo lường và đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng.
Tỷ lệ nợ xấu =
Tương tự như tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu tỷ lệ nghịch với tổng dư nợ tín
dụng. Như vậy, về mặt lý thuyết, để giảm tỷ lệ nợ xấu, ta có thể mở rộng cho vay,
qua đó làm tăng tổng dư nợ tín dụng. Trong thực tế, trong mỗi ngân hàng, vẫn luôn
tồn tại nợ quá hạn, đây là điều không tránh khỏi, điều quan trọng là tỷ lệ này đang ở
mức nào, xu hướng diễn biến trong thời gian tới ra sao, làm sao để hạn chế tới mức
thấp nhất những tỷ lệ này. Tại các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, tỷ lệ nợ
quá hạn và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng mức cho phép lần lượt là dưới 2%
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
Số dư nợ xấu
Tổng dư nợ tín dụng
21
Chuyên đề tốt nghiệp
và 3%.
2. Vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng =
Như vậy, vòng quay vốn tín dụng tỷ lệ nghịch với dư nợ bình quân và tỷ lệ
thuận với doanh số thu nợ. Theo lý thuyết, vòng quay vốn tín dụng tăng khi doanh só
dư nợ tăng và dư nợ bình quân giảm. Vòng quay vốn tín dụng phán ánh tốc độ luân
chuyển các khoản vay mà ngân hàng đã cấp cho nền kinh tế. Thông qua chỉ tiêu này,

ngân hàng sẽ tính toán được mức luân chuyển bình quân, lãi suất yêu cầu là bao
nhiêu thì có lợi. Vòng quay tín dụng càng nhỏ thì việc thu hồi nợ của ngân hàng càng
kém hiệu quả. Và ngược lại, vòng quay vốn tín dụng càng lớn càng chứng tỏ chất
lượng tín dụng cao vì nó khẳng định khả năng thu nợ của ngân hàng và càng chứng tỏ
nguồn vốn của ngân hàng đã được đầu tư hiệu quả.
3. Hiệu suất sử dụng vốn
Hiệu suất sử dụng vốn =

Chỉ tiêu này thể hiện % vốn huy động được sử dụng cho hoạt động tín dụng.
Trong bảng tổng kết tài sản tín dụng chiếm tới 70% tổng tài sản có, do vậy nếu hệ số
này thấp tức vốn huy động lớn mà dư nợ lại nhỏ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn.
Ngược lại dư nợ tín dụng tăng khá nhanh có thể dẫn đến mức tăng trưởng tín dụng
quá nóng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro tín dụng cao: rủi ro ứ đọng vốn và rủi ro mất vốn.
Theo công thức, hiệu suất sử dụng vốn tỷ lệ thuận với tổng dư nợ và tỷ lệ nghịch với
tổng nguồn vốn huy động, theo nguyên tắc đó, ngân hàng có thể điều chỉnh hiệu suất
sử dụng vốn sao cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của ngân hàng và biến động
của nền kinh tế.
4. Lợi nhuận thu hồi được từ hoạt động tín dụng

=
Đây là chỉ tiêu cơ bản nhất thể hiện khả năng sinh lời của khoản tín dụng được
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
Doanh số thu nợ
Dư nợ bình quân
Tổng dư nợ tín dụng
Tổng nguồn vốn huy động
Lợi nhuận từ HĐTDNH
Tổng dư nợ tín dụng
Tỷ lệ lợi nhuận từ
HĐTDNH

22
Chuyên đề tốt nghiệp
cấp. Ngân hàng thương mại hoạt động vì mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, chính vì
vậy, ngân hàng sẽ không thể cấp cho khách hàng một khoản tín dụng được cho là
không có lợi nhuận. Sự thành lập, tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng đều là vì
lợi nhuận, trong đó tín dụng ngân hàng được coi là hoạt động chính, mang lại cho
ngân hàng thương mại nói chung nhiều lợi nhuận nhất, do vậy, chất lượng tín dụng đi
kèm với hiệu xuất sinh lời là mối quan tâm hàng đầu với các ngân hàng thương mại.
Dựa trên nguyên tắc đó, những phương án nào đem lại lợi nhuận cao hơn so với các
phương án có ít lợi nhuận hơn nếu có các chỉ tiêu khác tương đương nhau như: mức
độ an toàn, uy tín chất lượng...thì các ngân hàng sẽ lựa chọn các phương án đem lại
lợi nhuận nhiều hơn.
Trên thực tế, việc xác định được chính xác những chỉ tiêu này là một vấn đề
hoàn toàn không dễ dàng do đặc thù của tín dụng ngân hàng: lợi nhuận từ một hoạt
động riêng rẽ luôn có những ảnh hưởng tới các hoạt động khác qua đó tác động tới
tổng lợi nhuận chung một cách phức tạp.
Vì vậy, cần hết sức tránh gặp phải tình trạng sử dụng cái nhìn phiến diện khi
đánh giá bất kỳ một sự việc nào, vấn đề đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng cũng
vậy không thể chỉ căn cứ vào một chỉ tiêu đơn lẻ, cụ thể nào mà phải sử dụng tổng
hợp một hệ thống các chỉ tiêu để đưa ra kết luận một cách chính xác và xác thực nhất.
Bởi lẽ vấn đề chất lượng tín dụng là một vấn đề mang tính chất phức tạp mang cả
tính trừu tượng và cụ thể nên hệ thống các chỉ tiêu đánh giá không mang tính tuyệt
đối chính xác.
Việc áp dụng các chỉ tiêu vào xem xét chất lượng tín dụng cần đảm bảo yêu
cầu tính toán phân tích chỉ tiêu trên cả hai mặt định tính và định lượng: Đánh giá chất
lượng trên quan niệm của cả ngân hàng và khách hàng, trên cơ sở lợi nhuận thuần tuý
của ngân hàng và lợi ích của xã hội.
1.4/ Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng
Được tổng hợp từ rất nhiều chỉ tiêu khách quan, độc lập, không chỉ đến từ
phía khách hàng mà còn từ phía môi trường hoạt động kinh doanh, chất lượng tín

dụng trở thành một biến số hết sức nhạy cảm trong kinh doanh. Dưới đây là một số
những nhân tố có ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng tín dụng ngân hàng:
1.4.1/ Nhân tố từ phía khách hàng
Khách hàng đến với ngân hàng nhằm mục đích kiếm nguồn tài trợ phục vụ
cho mục đích của mình dù là mục đích tài chính hay phi tài chính, do vậy chất lượng
tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng phụ thuộc lớn vào khách hàng và phương
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
23
Chuyên đề tốt nghiệp
án sử dụng vốn của khách hàng:
Mục đích sử dụng vốn: được coi là vấn đề đầu tiên được ngân hàng xem xét
tới khi khách hàng yêu cầu được cấp tín dụng. Dựa trên mục đích của khoản vay
quyết định trực tiếp tới sự thành bại của kế hoạch, dự án sẽ được triển khai cũng như
quy mô, thời gian cần tài trợ, mức độ rủi ro, khả năng thu hồi của dự án.
Mục đích của phương án: dự án có phù hợp với mục tiêu của ngành, của địa
phương và của cả nước không (mục tiêu này căn cứ vào định hướng phát triển của
từng địa phương, của đất nước trong từng thời kỳ).
Tính khả thi của phương án dự án đó quyết định khả năng thực hiện và tạo ra
nguồn để trả nợ cho ngân hàng.
Tính hợp pháp của phương án, dự án: đây là đièu kiện tối thiểu đối với mọi
hoạt động nói riêng cũng như kinh doanh nói chun, một hoạt động dù có đem lại
nguồn lợi nhuận lớn đến đâu, nhưng không được pháp luật cho phép thì cũng không
được ngân hàng chấp nhận cấp tín dụng để đảm bảo an toàn cho mình và đảm bảo
tuân thủ hoạt động đúng luật pháp.
Uy tín, khả năng của khách hàng: tính khả thi của phương án, dự án không
những ảnh hưởng lớn bởi mục đích sử dụng vốn của khách hàng mà còn phụ thuộc
vào năng lực của khách hàng:
• Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự: Điều kiện cần để
những giao kết hợp đồng và các nghĩa vụ có liên quan giữa khách hàng và
ngân hàng được pháp luật thừa nhận.

• Năng lực tài chính: đây là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng tín
dụng cấp cho khách hàng. Khả năng tài chính của khách hàng được đánh giá
thông qua các chỉ tiêu định tính như: các hệ số về cơ cấu vốn, về khả năng
thanh khoản, về hiệu quả hoạt động, chỉ tiêu lợi nhuận...Năng lực tài chính của
khách hàng là sự đảm bảo cho khả năng về vốn và tài sản của khách hàng đáp
ứng cho sản xuất kinh doanh, cũng như trả nợ của khách hàng.
• Năng lực sản xuất: Nguồn trả nợ của ngân hàng chủ yếu là chính từ hoạt động
kết quả của quá trình sản xuất, là lợi nhuận do phương án, dự án mang lại. Do
vậy, năng lực sản xuất của khách hàng quyết định đến số lượng và chất lượng
đầu ra của sản phẩm từ đó ảnh hưởng tới doanh thu, lợi nhuận đầu ra - nguồn
thu dùng để trả nợ của khách hàng.
• Năng lực thị trường: Đối với một khách hàng luôn hoạt động kinh doanh trong
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
24
Chuyên đề tốt nghiệp
một thị trường có nhiều cạnh tranh lớn về tất cả các mặt, nhận định về năng
lực thị trường của khách hàng tức là xác định được vị trí của khách hàng, sản
phẩm của họ trên thị trường như thế nào, từ đó biết được tính khả thi của
phương án, dự án... Đoán biết được đơn vị đó có đứng vững được trong cạnh
tranh để tồn tại và phát triển không.
• Năng lực quản lý: Cơ cấu hệ thống quản trị, ban điều hành, trình độ kinh
nghiệm, phương pháp quản lý của cán bộ lãnh đạo...có ảnh hưởng tới tính chất
khả năng hoạt động của khách hàng.
• Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng của ngân hàng: giúp ngân hàng loại
bớt những khoản vay có rủi ro cao, nó là cơ sở, điều kiện để ngân hàng cung
cấp những khoản tín dụng an toàn và có hiệu quả cao. Trong đó điểm đặc biệt
quan trọng là ngân hàng có thể dự phòng các khoản thu phòng khi khách hàng
không thực hiện đúng hợp đồng và cũng ràng buộc khách hàng sử dụng vốn
một cách có hiệu quả hơn, đảm bảo hơn nữa về khả năng tín dụng.
• Tư cách đạo đức: Trong quan hệ tín dụng với khách hàng tư cách đạo đức

quyết định thiện chí trả nợ và điều này quyết định đến hành động trả nợ của
khách hàng.
1.4.3/ Nhân tố từ phía ngân hàng
Là các nhân tố bên trong ngân hàng thuộc về bản thân ngân hàng trên tất cả
các mặt hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Sự tác động đó
được biểu hiện:
 Chính sách tín dụng:
• Chính sách tín dụng là nguyên tắc cơ bản chi phối sự mở rộng tín dụng giúp
ngân hàng thiết lập kế hoạch tín dụng một cách chủ động trên cơ sở nghiên
cứu tình hình thị trường của ngân hàng. Chính sách tín dụng có nhiệm vụ nêu
rõ những yếu tố bao gồm quy mô cho vay tối đa trong danh mục cho vay, yếu
tố pháp luật, cơ cấu danh mục cho vay, những tiêu chuẩn chất lượng tín dụng:
• Đảm bảo mỗi quyết định tín dụng đều khách quan, tuân thủ quy định của
NHNN Việt Nam và phù hợp với thông lệ chung quốc tế. Ngân hàng tự quyết
trong việc xác định: Đối tượng có thể cho vay vốn, ràng buộc về tài chính,
phương thức quản lý hoạt động tín dụng, các loại sản phẩm tín dụng khác
nhau do ngân hàng cung cấp, thời hạn điều kiện áp dụng các loại sản phẩm tín
dụng khác nhau...
Lê Thanh Phương Lớp: Ngân hàng 48A
25

×