Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Lv ths luật học điều kiện kết hôn theo luật hôn nhân gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng tại huyện mai châu, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.53 KB, 78 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN

6

1.1. Khái niệm, căn cứ xác định, nội dung và ý nghĩa quy định về
điều kiện kết hôn

6

1.2. Các yếu tố tác động đến xây dựng và thực tiễn áp dụng pháp
luật về điều kiện kết hơn

19

Chương 2: NỢI DUNG PHÁP ḶT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ ĐIỀU
KIỆN KẾT HÔN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

27

2.1. Quy định về điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014

27



2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện kết hôn trên địa bàn
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình

37

2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng quy định về điều kiện kết
hôn trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình

49

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM
HIỆU QUẢ QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU
KIỆN KẾT HÔN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MAI CHÂU,
TỈNH HÒA BÌNH

3.1. Định hướng hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả quá trình áp dụng
pháp luật về điều kiện kết hôn trên địa bàn huyện Mai Châu,

59
59


tỉnh Hòa Bình
3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả quá trình áp dụng
pháp luật về điều kiện kết hôn trên địa bàn huyện Mai Châu,
tỉnh Hòa Bình

61


KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Kết quả khảo sát tình hình tảo hôn, kết hôn cận huyết trên

42

bảng
2.1

địa bàn huyện Mai Châu từ năm 2016 đến tháng 3/2019


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu
Dưới góc độ pháp lý, hơn nhân là sự kết hợp hồn tồn tự nguyện giữa

một nam và một nữ trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng nhau, được xác lập sau
khi nam nữ đăng ký kết hôn khi đủ điều kiện kết hôn và tiến hành tại cơ quan
có thẩm quyền. Như vậy, hôn nhân là sự ràng buộc về quyền và nghĩa vụ giữa
một bên là vợ và một bên là chồng, được pháp luật quy định chặt chẽ về thời
điểm hình thành, tồn tại và chấm dứt quan hệ. Hiện nay, không riêng gì Việt
Nam, để có một cuộc hôn nhân hợp pháp thì các nước đều đặt ra điều kiện cần
thiết để đảm bảo tính hợp lệ của cuộc hôn nhân hay nói cách khác là điều kiện
kết hôn. Trong số đó, hầu hết các nước đều tính đến các yếu tố sinh học, tâm
lý và xã hội học. Các yếu tố sinh học liên quan đến tuổi tác, giới tính và tình
trạng sức khỏe của vợ chồng tương lai. Yếu tố tâm lý liên quan đến sự tự do ý
chí của các bên. Và khía cạnh xã hội học liên quan đến các mối quan hệ của
những người liên quan đến hôn nhân.
Ở Việt Nam, điều kiện kết hôn được quy định từ Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959 (từ Điều 4 đến Điều 10), Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
(từ Điều 5 đến Điều 7), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 9 và Điều 10),
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 8). Theo đó, quy định điều kiện
kết hôn của Việt Nam đã có những bước tiến bộ đáng kể từ kỹ thuật lập pháp
cho đến nội dung điều chỉnh từ trước cho đến nay. Sự thay đổi trong việc xây
dựng pháp luật về điều kiện kết hôn nhằm giải quyết những bất cập trong quá
trình tuân thủ và áp dụng pháp luật của các chủ thể trên thực tế. Đồng thời, thể
hiện trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền
con người nhất là quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân.


2

Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện quy định về điều kiện kết hôn
theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tại các tỉnh, thành trên cả nước nói
chung và trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình nói riêng còn tồn tại
những khó khăn, hạn chế nhất định. Chính những khó khăn, hạn chế trong

việc thực hiện pháp luật về điều kiện kết hôn đã làm cho tính khả thi, tính
hiệu quả của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không được đảm bảo. Nhất
là huyện Mai Châu, là một trong những đơn vị hành chính có tỷ lệ người dân
tộc thiểu số (chiếm trên 88%) sinh sống là chủ yếu. Bên cạnh đó, dưới góc độ
nghiên cứu thì hiện nay chưa có một công trình nào nghiên cứu riêng biệt về
điều kiện kết hôn theo địa bàn, đặc biệt là trên địa bàn huyện Mai Châu - tỉnh
Hòa Bình.
Xuất phát từ những đòi hỏi mang tính chất lý luận và thực tiễn trên thì
việc lựa chọn chủ đề "Điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân gia đình năm
2014 và thực tiễn áp dụng tại huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình" làm đề tài
nghiên cứu có tính cấp thiết, tính thời sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua việc tìm kiếm tài liệu, phân tích tài liệu liên quan đến điều kiện
kết hôn thì trong thời gian vừa qua, đã có các công trình nghiên cứu trực tiếp
và gián tiếp đến điều kiện kết hôn như sau: Nguyễn Thanh Vân Hằng, Vi
phạm điều kiện kết hôn của đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015;
Lưu Huyền Ngọc, So sánh các điều kiện kết hôn theo pháp luật Việt Nam và
pháp luật Trung Quốc, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2017; Nguyễn Thị Vân, Kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
2015; Hồng Văn Chiến, Quyền tự do kết hơn từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc;
Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, 2015; Nguyễn Huyền
Trang, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình


3

hình xã hội hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2017... Có thể thấy, mặc dù các công trình trên đã nghiên cứu,

nhắc đến nhóm quy phạm về điều kiện kết hôn. Tuy nhiên, qua tìm hiểu của
học viên thì chưa có công trình riêng biệt nào nghiên cứu đến điều kiện kết
hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng quy định
về điều kiện kết hôn trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về điều kiện kết hôn,
đánh giá thực tiễn áp dụng quy định trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa
Bình thì đề tài đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm hiệu quả
quá trình áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn trên địa bàn huyện Mai
Châu, tỉnh Hòa Bình trong thời gian tới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nêu và phân tích khái niệm, ý nghĩa, mục đích của quy định về điều
kiện kết hôn
- Làm rõ các yếu tố tác động đến pháp luật và áp dụng pháp luật về
điều kiện kết hôn
- Chỉ ra nội dung quy định về điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn tại huyện
Mai Châu, tỉnh Hòa Bình
- Nêu định hướng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo
đảm hiệu quả quá trình áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn trên địa bàn
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong thời gian tới.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4

Về đối tượng nghiên cứu : Luận văn tập trung nghiên cứu đến quy

định và thực hiện pháp luật về điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014.
Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy
định về điều kiện kết hôn tại các cơ quan hành chính ở cơ sở - nơi tiến hành
đăng ký kết hôn trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh hòa Bình từ năm 2014 đến
nay. Luận văn không đi sâu vào các trường hợp vi phạm đăng ký kết hôn và
biện pháp xử lý vi phạm nhất là hoạt động xét xử vụ việc vi phạm các điều
kiện kết hôn tại Tòa án.
6. Phương pháp lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận: Luận văn dựa trên các quan điểm cơ bản chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; về vấn
đề quyền công dân và quyền con người; các quan điểm, tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam về quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân.
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử tập trung tại Chương 1. Theo đó, luận văn có
nghiên cứu đến Luật hôn nhân và gia đình qua các năm 1959, 1986, 2000 và
2014; Nghiên cứu đến các yếu tố về truyền thống, phong tục tập quán tác
động đến quá trình áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn.
- Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp chủ đạo mà luận văn sử
dụng trong cả 3 chương để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu như khái niệm,
nội dung, ý nghĩa của điều kiện kết hôn; phân tích thực trạng áp dụng điều
kiện kết hôn tại huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình…
- Phương pháp so sánh: Đây là phương pháp được sử dụng tập trung
tại Chương 1 và Chương 2. Trong đó, luận văn có lấy dẫn chứng các quy
phạm pháp luật của một số nước quy định về điều kiện kết hôn và so sánh số
liệu về thực trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết qua các năm tại một số xã của
huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.


5


- Phương pháp tổng hợp, thống kê tại Chương 2. Theo đó, luận văn sử
dụng các số liệu thống kê về tình hình tảo hôn, kết hôn cận huyết, vi phạm
pháp luật tại các xã trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận : Luận văn đã xây dựng, cung cấp cơ sở khoa học về
mặt lý luận, thực tiễn và pháp lý về quan hệ kết hôn nói chung và điều kiện
kết hôn nói riêng tại Việt Nam hiện nay. Thông qua việc nghiên cứu về mặt lý
luận về điều kiện kết hôn (khái niệm, nội dung, ý nghĩa, các yếu tố tác động);
trên cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn trên địa
bàn huyện Mai Châu thì luận văn đã đưa ra các định hướng và giải pháp cụ
thể về hoàn thiện và bảo đảm hiệu quả quá trình áp dụng pháp luật về điều
kiện kết hôn trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình trong thời gian tới.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham
khảo tốt cho các cơ quan xây dựng chính sách, pháp luật trong quá trình
nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hôn nhân và gia đình. Đồng
thời, kết quả nghiên cứu cũng là công trình, là sản phẩm cho chính quyền các
cấp tham khảo trong quá trình áp dụng, thực thi pháp luật về kết hôn nói
chung và điều kiện kết hôn nói riêng trên địa bàn huyện Mai Châu.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về điều kiện kết hôn.
Chương 2: Nội dung pháp luật Việt Nam hiện hành về điều kiện kết
hôn và thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
Chương 3: Định hướng, giải pháp bảo đảm hiệu quả quá trình áp dụng
pháp luật về điều kiện kết hôn trên địa bàn huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.


6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN

1.1. Khái niệm, căn cứ xác định, nội dung và ý nghĩa quy định về
điều kiện kết hôn
1.1.1. Khái niệm về kết hôn và điều kiện kết hôn
Dựa trên các yếu tố về văn hóa, xã hội, tôn giáo… mà các học giả có
quan niệm khác nhau về hôn nhân. Một định nghĩa phổ biến về hôn nhân
được chấp nhận như sau: Đó là một kết hợp chính thức bằng hợp đồng đặc
biệt và văn bản có tính chất pháp lý giữa hai cá nhân nhằm hợp nhất cuộc
sống của họ một cách hợp pháp. Thỏa thuận hôn nhân theo hợp đồng thường
ngụ ý rằng họ có nghĩa vụ pháp lý với nhau trong suốt cuộc đời hoặc cho đến
khi họ quyết định ly hôn. Kết hôn cũng mang lại tính hợp pháp cho các mối
quan hệ khác nhau kể cả tình dục trong hôn nhân. Theo truyền thống, hôn
nhân thường được xem là có vai trò chính trong việc giữ gìn đạo đức và văn
minh. Vì hôn nhân là sự kết hợp về thể chất, pháp lý và đạo đức giữa người
đàn ông và người phụ nữ trong cuộc sống cộng đồng nên mục đích của hôn
nhân là để thành lập một gia đình. Từ những vấn đề ở trên cho thấy, hôn nhân
có đặc điểm đó là có tính liên hợp, tính vĩnh cửu và tính độc quyền. Tính liên
hợp đề cập đến cách thể hiện ở sự hồn thành của cuộc hơn nhân là do sự giao
hợp giữa vợ và chồng, hướng đến sự tồn tại của người con. Sự vĩnh cửu có
nghĩa là cuộc hôn nhân không thể bị giải thể hoặc hủy bỏ trừ khi có một số
điều kiện cụ thể được đáp ứng hoặc một trong hai chết. Độc quyền đề cập đến
quan hệ tình dục và có nghĩa là không bên nào trong hôn nhân được tự do
tham gia vào các mới quan hệ ngồi hơn nhân. Chính vì thế, hơn nhân là một
hợp đồng ràng buộc về mặt pháp lý sẽ ảnh hưởng đến cả hai bên.


7


Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và năm 1986 chưa đưa ra khái
niệm kết hôn mà khái niệm này được giải thích trong phần giải nghĩa mốt số
danh từ "Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ thành chồng theo quy định
của pháp luật". Đến khi Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời thì kết hôn
mới chính thức được định nghĩa, theo đó "Kết hôn là việc nam nữ xác lập
quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng
ký kết hôn". Theo đó, kết hôn phải bảo đảm hai yếu tố là thể hiện ý chí của cả
nam và nữ là mong muốn được kết hôn với nhau và được Nhà nước thừa
nhận. Tiếp tục kế thừa những quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000, khoản 5 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời ghi nhận
"Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định
của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". Như vậy, giải thích
thuật ngữ kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã phản ánh
được toàn diện, đầy đủ bản chất của quan hệ hôn nhân trong xã hội hiện nay.
Kết hôn được hiểu là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng được nhà nước
thừa nhận. Do đó để được Nhà nước thừa nhận, hai bên nam nữ khi xác lập
quan hệ vợ chồng phải tuân thủ các quy định của pháp luật về kết hôn.
Dưới góc độ pháp lý, kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ
hôn nhân.Theo định nghĩa chính thức của pháp luật Việt Nam hiện hành, là
việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều
kiện kết hôn và đăng ký kết hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Ðiều 8
khoản 1). Nói cách khác, kết hôn được xem xét với ý nghĩa là một chế định
pháp lý, được ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật nhằm xác lập quan
hệ vợ chồng. Bao gồm các quy phạm pháp luật về điều kiện kết hôn, đăng ký
kết hôn, các hình thức xử lý đối với vi phạm pháp luật về kết hôn…
Đối với đăng ký kết hôn, đó là những chuẩn mực pháp lý được pháp
luật quy định mà các bên nam nữ phải đáp ứng để việc tiến tới hôn nhân của
họ được công nhận là hợp pháp. Như vậy, điều kiện kết hôn chính là ý chí của



8

nhà nước trong lĩnh vực kết hôn, bắt buộc các bên tham gia quan hệ kết hôn
phải tuân thủ những điều kiện nhất định đó. Về sự ghi nhận định nghĩa điều
kiện kết hôn trong các văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay, theo Đạo luật
Hôn nhân của các nước như Philippin, Luật gia đình của Singapore… trong
đó có Việt Nam (từ khi có Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đến nay) thì
chưa có một định nghĩa chính thức về khái niệm "điều kiện kết hôn". Theo Từ
điển Luật học thì "Điều kiện kết hôn là đòi hỏi về mặt pháp lý đối với nam,
nữ và khi thỏa mãn những đòi hỏi đó thì nam, nữ mới có quyền kết hôn".
Dưới góc độ nghiên cứu có thể hiểu điều kiện kết hôn tồn tại với tư cách là
các quy phạm pháp luật riêng rẽ và độc lập. Trong số các quy phạm pháp luật
đó thì đã thể hiện ý chí của nhà nước khi đặt ra các quy phạm nhằm ràng buộc
các bên khi muốn tiến tới quan hệ kết hôn. Các điều kiện kết hôn, trong khung
cảnh của luật thực định Việt Nam, được xếp vào nhóm các quy tắc mang tính
mệnh lệnh bắt buộc. Vi phạm các điều kiện ấy, hôn nhân bị coi là trái pháp
luật và có thể bị hủy. Quan hệ vợ chồng mà vi phạm các điều kiện ấy không
được coi là quan hệ hôn nhân và không thể làm phát sinh các hệ quả pháp lý
của quan hệ hôn nhân.
1.1.2. Căn cứ xác định nội dung quy định về điều kiện kết hôn
Thứ nhất, dựa trên quan điểm chính thức về chế độ chính trị, pháp lý,
xã hội, chế độ hôn nhân và gia đình.
Có thể nói, pháp luật về hôn nhân và gia đình nói chung và quy định
về điều kiện kết hôn nói riêng được xây dựng dựa trên nền chính trị, văn hóa,
xã hội của mỗi một quốc gia. Những tư tưởng này được thể hiện trong các
nguyên tắc xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình; nguyên tắc hiến định về
quyền con người; nguyên tắc về bình đẳng giới. Trên thực tế, ở một số quốc
gia trên thế giới, pháp luật quy định cho phép chế độ đa thê (đàn ông có thể
có nhiều vợ) như Tajikistan - một đất nước Trung Á. Theo đó, công dân

Tajikistan có thể cưới tới 4 người vợ, tất cả những người vợ bé đều phải được


9

sự đồng ý của vợ cả mới được chính thức công nhận. Tuy nhiên, chế độ đa thê
bị chính phủ cấm đoán trong thời gian gần đây nhưng những người Hồi giáo
vẫn kiên định duy trì. Hoặc ở Nam Phi, người Zulu, nhóm dân tộc lớn nhất và
nổi tiếng nhất của Nam Phi có tập tục đa thê từ rất lâu. Những người vợ được
coi là biểu tượng cho địa vị của một người đàn ông, đàn ông càng nhiều vợ
càng chứng tỏ người đàn ông đó có bản lĩnh, có tiền.Chính vì vậy, rất nhiều
gia đình sẵn sàng gả con gái cho những người đàn ông giàu có làm vợ lẽ, chỉ
để đổi lấy những món tiền lớn… Ở Việt Nam, hôn nhân một vợ một chồng
được xem là định hướng cơ bản của pháp luật, là điều cơ bản được thừa nhận
rộng rãi trong đời sống xã hội. Đây là định hướng xuyên suốt được ghi nhận
trong tất cả các đạo Luật Hôn nhân và gia đình từ năm 1959, 1986, 2000 đến
năm 2014. Việc ghi nhận chế độ hôn nhân một vợ một chồng thể hiện quyền
bình đẳng nam nữ, tôn trọng quyền cá nhân, quyền con người,thể hiện mức độ
văn minh của văn hóamà ở đó gia đình là nền tảng là gốc của xã hội được
thừa nhận ở Việt Nam.Về bản chất, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
có nghĩa trong thời kỳ hôn nhân chỉ tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp và
là quan hệ hôn nhân duy nhất. Theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
thì chỉ những người chưa có vợ, chưa có chồng hoặc tuy đã kết hôn nhưng
hôn nhân đó đã chấm dứt (vợ hoặc chồng họ đã chết hoặc vợ chồng đã ly hôn)
thì mới có quyền kết hôn với người khác. Việc kết hôn của họ phải với những
người đang không có vợ hoặc đang không có chồng. Vì vậy, hôn nhân một vợ
một chồng là điều quan trọng làm cho cuộc sống chung vợ chồng lâu dài, bền
vững và thực sự hạnh phúc. Chính điều này nó là cơ sở để xây dựng các quy
định về điều kiện kết hôn cho tương thích.
Thứ hai, căn cứ vào mục tiêu điều chỉnh của pháp luật về hôn nhân

nói chung và kết hôn nói riêng.
Có thể nói, ở góc độ chung nhất thì mục đích của hôn nhân là yêu cầu
pháp lý và đạo lý mà những người xác lập quan hệ hôn nhân (vợ, chồng)


10

nhằm đạt tới. Thông thường, mục đích của hôn nhân được pháp luật quy định,
thể hiện quan điểm của Nhà nước về việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và
gia đình, nhằm xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, bền vững và ổn
định. Tuy nhiên, mục đích của hôn nhân không đồng nghĩa với mục đích của
việc kết hôn. Thông thường, mục đích của việc kết hôn thống nhất với mục
đích của hôn nhân, nhưng cũng có trường hợp mục đích của việc kết hôn trái
với mục đích của hôn nhân như trường hợp kết hôn giả tạo (tức là hành vi
nhằm che đậy một hành vi vi phạm khác), kết hôn do cưỡng ép (tức là trái với
ý muốn của một trong hai bên)… Bởi lẽ, xét về bản chất của kết hôn thì mục
đích thực sự của việc kết hôn là để mỗi người tìm thấy hạnh phúc to lớn và
dài lâu. Đó có thể là hạnh phúc vì có con cái chung, vì được chung thủy một
vợ một chồng, vì chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống… Vì vậy,
để tránh những hậu quả, hệ lụy của việc lợi dụng kết hôn để thực hiện các
hành vi vi phạm pháp luật khác hoặc trái với ý nguyện của một trong các bên
hoặc làm suy giảm tác dụng của pháp luật về bảo đảm chế độ hôn nhân, xây
dựng gia đình hạnh phúc, bền vững của nhà nước thì việc xác định điều kiện
kết hôn là hết sức cần thiết.
Thứ ba, căn cứ vào tính kế thừa của pháp luật.
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, Liên hợp quốc đã thông qua một Công
ước riêng về điều kiện kết hôn - Công ước về kết hôn tự nguyện, tuổi kết hôn
tối thiểu và việc đăng ký kết hôn năm 1962. Theo đó, Công ước đã quy định
nghĩa vụ của các quốc gia trong việc ghi nhận về độ tuổi kết hôn tối thiểu,
việc đăng ký kết hôn và yếu tố tự nguyện trong việc kết hôn giữa các bên để

đảm bảo tôn trọng quyền tự do kết hôn của mỗi cá nhân trong quốc gia đó.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã phê chuẩn Công ước năm 1962
và đã nội luật hóa các quy định của Công ước vào pháp luật của quốc gia và
Việt Nam không là ngoại lệ. Ở Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình hiện
hành - năm 2014 đã kế thừa và phát triển các quy định về điều kiện kết hôn


11

theo Luật Hôn nhân và gia đìnhnăm 1959, 1986 và 2000. Theo đó, việc quy
định về độ tuổi là nhằm bảo vệ về mặt sức khỏe, nhận thức xã hội cũng như
khả năng kinh tế có thể gánh vác trách nhiệm gia đình như nuôi dạy con cái,
chăm sóc, giáo dục con… Ngoài ra, việc quy định về sự tự nguyện của các
bên là giúp phòng ngừa các hành vi lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép một trong
các bên… đó là một trong các hành vi vi phạm quyền con người của mỗi một
cá nhân trong việc quyết định đến quyền thụ hưởng của mình.
1.1.3. Quy định về điều kiện kết hôn
Không riêng gì Việt Nam mà cũng như các nước trên thế giới thì điều
kiện kết hôn được quy định dựa trên nhiều yếu tố khác nhau như điều kiện
kinh tế - xã hội, khoa học, phong tục - tập quán, truyền thống, đạo đức, tôn
giáo… các yếu tố đó có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi
yếu tố đó đều góp phần nhất định vào việc quy định về điều kiện kết hôn.
Chính dựa vào các yếu tố đó mà các nhà làm luật đã xác định được nội dung
về điều kiện kết hôn.
Thông thường, trong pháp luật của các nước thì đều ghi nhận các vấn
đề sau đây:
Thứ nhất, về tính tự nguyện. Kết hôn phải dựa trên ý chí của nam, nữ
mà không bị tác động bởi bất cứ người nào khiến họ phải kết hôn trái với
nguyện vọng của họ. Hai bên nam nữ mong muốn trở thành vợ chồng xuất
phát từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích là cùng nhau xây dựng gia

đình. Sự tự nguyện là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại
lâu dài và bền vững. Nói cách khác, trước khi quan hệ kết hôn được nhà nước
công nhận thì phải có sự đồng ý hoặc thỏa thuận giữa các bên. Để có được
yếu tố tự nguyện thì cả hai bên đều phải đồng ý kết hôn, không được sử dụng
vũ lực hoặc đe dọa, lừa dối để cưỡng ép bất kỳ ai khiến cho họ phải kết hôn
trái với mong muốn và nguyện vọng của mình. Đây là quy định mang tính bắt
buộc được ghi nhận trong hầu hết pháp luật của các quốc gia trên thế giới.


12

Chẳng hạn, theo quy định tại Khoản 2, Điều 9 Luật Gia đình 1990, sửa đổi bổ
sung 2008 của nước Cộng hòa nhân dân Lào thì việc kết hôn phải đảm bảo
điều kiện: "Có tình yêu, sự đồng ý và sự tự nguyện của nam, nữ". Hoặc trong
Điều 2 Đạo luật Gia đình của Philippin quy định "Không có cuộc hôn nhân
nào là hợp lệ nếu không có sự tự nguyện đồng ý của các bên dưới sự hiện
diện của nhân viên đăng ký kết hôn". Như vậy, tự nguyện của nam, nữ là điều
kiện cần thiết quyết định tính hợp pháp của hôn nhân. Song, việc đánh giá sự
tự nguyện không chỉ căn cứ vào ý chí thực sự của nam, nữ dựa trên tình yêu
chân thành giữa họ mà còn dựa trên cơ sở pháp lý là mục đích của việc kết
hôn, là mong muốn của những người kết hôn đạt tới. Mục đích đó không có gì
khác là để được cùng nhau chung sống và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
Thứ hai, về độ tuổi. Độ tuổi là thước đo cho sự phát triển của con
người, đảm bảo khả năng họ có thể thực hiện sứ mạng của mình là xây dựng
gia đình và phát triển xã hội. Đến nay, không có một khuôn khổ chung về độ
tuổi kết hôn dành cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia, khu vực
đều có những quy định riêng về độ tuổi kết hôn và thậm chí có những nước
không hề có một độ tuổi cụ thể nào nhưng những ai đến độ tuổi dậy thì đồng
nghĩa với việc họ có thể kết hôn hợp pháp (ví dụ: gần một nửa phụ nữ ở
Yemen buộc phải kết hôn trước khi đến tuổi dậy thì). Khi bàn về độ tuổi kết

hôn, việc tìm hiểu về tôn giáo, quan điểm xã hội ở một quốc gia là vô cùng
quan trọng vì chính những cách nhìn khác nhau dẫn đến những ý kiến về sự
trưởng thành và khả năng lập gia đình không giống nhau. Đó chính là lý giải
vì sao ở một số quốc gia, kết hôn ở độ tuổi còn quá nhỏ vẫn được chấp nhận.
Để đảm bảo rằng, các quốc gia sớm thoát khỏi tình trạng nghèo đói, bất bình
đẳng về giới, bảo vệ sức khỏe và tinh thần cho các trẻ em nữ thì cần phải quy
định độ tuổi tối thiểu để đăng ký kết hôn. Hiện nay, độ tuổi kết hôn được quy
định trong pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia.


13

Theo pháp luật quốc tế, Điều 16 của Tuyên ngôn Toàn thế giới về
Quyền con người năm 1948 đã nêu rõ: "1. Nam và nữ khi đủ tuổi, không hạn
chế về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo, đều có quyền kết hôn và lập gia
đình. Họ có quyền được hưởng những quyền bình đẳng khi kết hôn, trong
thời kỳ hôn nhân và sau khi hôn nhân tan vỡ". Đây là quy định về quyền con
người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói chung và quyền kết hôn nói
riêng của các cá nhân. Quy định đã đưa ra yếu tố đầu tiên hình thành quan
hệ kết hôn là độ tuổi. Như vậy, yếu tố về độ tuổi là yếu tố cơ bản, quan trọng
làm hình thành lên quan hệ kết hôn. Công ước để ngỏ cho tất cả các quốc gia
về việc quy định một độ tuổi kết hôn nhất định sao cho phù hợp với đặc
điểm kinh tế, xã hội, văn hóa của quốc gia mình. Vì thế, để thúc đẩy sự tôn
trọng, bảo vệ quyền con người trong quan hệ kết hôn nói chung và hôn nhân
nói riêng thì Liên hợp quốc đã thông qua một Công ước riêng về điều kiện
kết hôn - Công ước về kết hôn tự nguyện, tuổi kết hôn tối thiểu và việc đăng
ký kết hôn năm 1962. Theo đó, tại Điều 2 của Công ước về kết hôn tự
nguyện, tuổi kết hôn tối thiểu và việc đăng ký kết hôn năm 1962 (được
thông qua và để ngỏ cho các nước ký, phê chuẩn theo Nghị quyết 1763
(XVII) ngày 07/11/1962 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, có hiệu lực ngày

09/12/1964) quy định: "Các quốc gia thành viên của Công ước này cần có
hành động lập pháp nhằm cụ thể hóa độ tuổi tối thiểu được kết hôn. Mọi
cuộc hôn nhân của bất kỳ cá nhân nào được tiến hành dưới độ tuổi này sẽ bị
coi là trái pháp luật, trừ trường hợp cơ quan chức năng có thẩm quyền cho
miễn về tuổi tác vì những lý do nghiêm trọng, phù hợp với lợi ích của những
cặp kết hôn". Như vậy, Công ước đã đặt ra trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý
cho các quốc gia trong hoạt động lập pháp phải quy định độ tuổi tối thiểu để
nam, nữ được kết hôn với nhau. Đây là độ tuổi tối thiểu đảm bảo mọi thành
phần, mọi giai tầng, trình độ trong xã hội đáp ứng được. Nếu việc các cá
nhân tiến hành dưới độ tuổi tối thiểu được quy định đó thì đều bị coi là vi


14

phạm pháp luật và bị xử lý vi phạm. Do đó, các nước căn cứ vào điều kiện,
hoàn cảnh của quốc gia mình để có thể xây dựng và ban hành độ tuổi kết hôn
khác nhau.
Theo pháp luật của một số nước như Luật Gia đình Lào đã quy định
một độ tuổi kết hôn chung cho cả nam và nữ. Cụ thể tại Khoản 1, Điều 9 Luật
Gia đình Lào 1990, sửa đổi bổ sung 2008 quy định độ tuổi kết hôn của nam
và nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên. Hay tại Điều 8 cũng đã quy định: Nam, nữ đến
tuổi trưởng thành 18 tuổi có quyền tự do lựa chọn bạn đời theo sự tự nguyện
và tình yêu của hai bên để lấy nhau làm vợ chồng theo phong tục tập quán tốt
đẹp của quốc gia Lào. Sở dĩ pháp luật có sự quy định như vậy, vì theo quan
niệm của người Lào, nam nữ đều có quyền bình đẳng ngang nhau khi tham
gia vào các quan hệ xã hội, việc quy định độ tuổi nàyđều xuất phát từ tình
hình thực tế của quốc gia Lào, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lí của cá
nhân, điều kiện kinh tế, xã hội và nền văn hóa của quốc gia này. Bên cạnh đó,
khi đạt đến độ tuổi này thì mỗi cá nhân đều đã có suy nghĩ đúng đắn và
nghiêm túc trong việc kết hôn của mình, họ có thể tham gia vào quá trình lao

động tạo ra thu nhập đảm bảo cuộc sống gia đình ấm no, bền vững. Theo Điều
6 của Đạo luật Gia đình của Philippin quy định thì bất kỳ nam hay nữ ở độ
tuổi 18 trở lên đều có thể đăng ký kết hôn. Luật hôn nhân ở Sudan - The
Personal Status Law of Muslims (tạm dịch Luật về Tình trạng Cá nhân của
Người Hồi giáo) cho phép các cô gái lập gia đình khi đến tuổi dậy thì. Luật
cũng nêu rõ rằng khi đủ 10 tuổi, bé gái đã có thể kết hôn nếu có sự giám hộ và
sự cho phép của thẩm phán. Tuy nhiên Đạo luật Hôn nhân Không theo đạo
Hồi năm 1926 quy định độ tuổi kết hôn dành cho các bé gái không theo đạo
Hồi là 13 tuổi và các bé trai không theo đạo Hồi là 15 tuổi. Nhưng dù là theo
tôn giáo nào đi chăng nữa thì các nghiên cứu của UNICEF ước tính rằng cứ
ba cô gái Sudan thì có một người đã kết hôn trước 18 tuổi.


15

Ở Việt Nam, vấn đề về độ tuổi được các nhà làm luật quan tâm và coi
trọng. Điều này xuất phát từ một trong các chức năng của gia đình đối với xã
hội là chức năng sinh đẻ nhằm duy trì nòi giống. Trải qua các thời kỳ khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam thì quy định về độ
tuổi kết hôn có khác nhau. Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, 1986
và 2000 thì độ tuổi kết hôn của nam là từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên
(tính tuổi kết hôn theo năm dương lịch, nam bước sang tuổi 19 tức 19 tuổi
cộng 1 ngày; nữ bước sang tuổi 17 tức 17 tuổi cộng 1 ngày). Trong Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 thì đã nâng độ tuổi kết hôn của nam là từ đủ 20
tuổi trở lên và nữ là từ đủ 18 tuổi lên (tính tròn tuổi, tức đủ 12 tháng mới tính
là 1 tuổi).
Như vậy, độ tuổi là yếu tố bổ sung cho yếu tố về sự đồng ý (tính tự
nguyện) khi kết hôn. Tất cả các quốc gia đều phải quy định độ tuổi tối thiểu
mà cả hai bên đạt được trước khi tiến hành kết hôn, tức là trước khi họ trở
thành vợ chồng hợp pháp mà không cần có sự cho phép của cha mẹ.

Thứ ba, về năng lực kết hôn. Theo đó, người kết hôn không bị mất
năng lực hành vi dân sự. Năng lực thường đề cập đến khả năng tinh thần của
một hoặc cả hai bên tham gia hôn nhân để đồng ý trở thành vợ chồng. Cả hai
bên phải có sự nhận thức "đúng đắn" và có khả năng đồng ý kết hôn. Không
phải tất cả các dạng bệnh tâm thần đều có tác dụng khiến ai đó không có khả
năng bước vào hôn nhân. Một người bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi
bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Một người có vấn đề về tinh
thần, đầu óc không được minh mẫn nhưng chưa có quyết định của Tòa án
tuyên bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự thì vẫn có thể kết hôn. Bởi
lẽ, quyền kết hôn là quyền nhân thân gắn với mỗi con người, phải do chính họ
thực hiện không thể ủy quyền cho bất kỳ ai khác. Do đó, một người khi đã
mất năng lực hành vi của mình thì không thể cử đại diện xác lập quan hệ vợ
chồng thay cho mình và càng không thể tự mình thực hiện quyền kết hôn.


16

Thứ tư, về các trường hợp cấm kết hôn. Hiện nay, vấn đề về kết hôn
được các quốc gia khuyến khích. Tuy nhiên, để có một cuộc hôn nhân bền
vững, phát triển và không bị vô hiệu hóa thì bắt buộc nhà nước phải thiết lập
ra quy tắc đảm bảo về tính hợp lệ của cuộc hôn nhân. Nếu như cuộc hôn nhân
đó trái ngược với các quy phạm đạo đức, xâm phạm tới lợi ích của các chủ thể
khác, lợi ích công cộng thì đương nhiên cần phải có quy phạm để hạn chế
quyền kết hôn của các chủ thể đó. Hầu hết các quốc gia đều ghi nhận các
trường hợp cấm kết hôn. Theo Tiêu đề 26.04.020 của Bộ luật sửa đổi của
Washington (RCW) về hôn nhân bị cấm thì: "(1) Hôn nhân trong các trường
hợp sau đây đều bị cấm: (a) Khi một trong hai bên có vợ hoặc chồng hoặc
đối tác trong nước đăng ký sống tại thời điểm kết hôn đó. (b) Khi vợ hoặc
chồng gần họ hàng với nhau hơn (anh em họ thứ hai, cho dù là toàn bộ hay
một nửa tính toán máu theo các quy tắc của luật dân sự); (2) Bất cứ ai kết

hôn với anh chị em ruột, con, cháu, dì, chú, cháu gái hoặc cháu trai của mình
là bất hợp pháp; (3) Một cuộc hôn nhân giữa hai người được công nhận là
hợp lệ tại một khu vực tài phán khác chỉ có hiệu lực ở tiểu bang Washington
nếu cuộc hôn nhân không bị cấm hoặc làm trái pháp luật theo tiểu mục (1)
(a) hoặc (2) của phần này; (4) Không có cơ quan nhà nước hoặc chính quyền
địa phương nào có thể đưa ra quyết định xử phạt, từ chối các lợi ích từ, giấy
phép hoặc từ chối ký hợp đồng với bất kỳ tổ chức tôn giáo nào dựa trên sự
phản đối hoặc từ chối cung cấp chỗ ở, cơ sở, lợi thế, đặc quyền, dịch vụ, hoặc
hàng hóa liên quan đến việc long trọng hoặc cử hành hôn nhân". Như vậy,
quy định về cấm kết hôn trong Tiêu đề về Hôn nhân trong Đạo luật của bang
Washington đã nhấn mạnh đến nguyên tắc của hôn nhân (cấm kết hôn với
người đang có vợ/chồng); đến vấn đề về huyết thống (những người có cùng
dòng máu trực hệ); yếu tố không được liên quan chặt chẽ đến nhau… Hoặc
theo pháp luật hôn nhân của Na Uy thì phải đảm bảo điều kiện là các bên sắp
kết hôn không được liên quan chặt chẽ với nhau. Điều này có nghĩa là họ


17

không được là anh, chị, em ruột hoặc họ hàng trong một dòng tăng dần hoặc
giảm dần (tức là cha mẹ và con cái); Không được kết hôn với anh em họ
hàng: Việc kết hôn với anh em họ không trái pháp luật nhưng điều quan trọng
cần lưu ý là nếu cha mẹ có quan hệ với nhau thì sẽ có nguy cơ sinh con mắc
bệnh hoặc bị dị tật bẩm sinh và thai chết lưu, tử vong và trẻ em mắc bệnh
giảm tuổi thọ; Phải là người chưa kết hôn: Một người có thể không kết hôn
nếu người đó đã kết hôn hoặc trong một quan hệ đối tác đã đăng ký. Một
người kết hôn mặc dù thực tế rằng họ đã kết hôn có thể bị kết án tù lên đến
một năm. Những người đã kết hôn cư trú ở Na Uy có thể bị trừng phạt theo
quy định này nếu họ bước vào một cuộc hôn nhân mới mà chưa chấm dứt
quan hệ hôn nhân cũ.

Ở Việt Nam, theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc kết
hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây: kết hôn giả tạo; Tảo hôn, cưỡng
ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; Người đang có vợ, có chồng mà
kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa
có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có
chồng, có vợ; Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng
dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha,
mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha
chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế
với con riêng của chồng; Người mất năng lực hành vi dân sự. Như vậy, việc
quy định về các trường hợp cấm kết hôn của Việt Nam cũng như một số nước
trên thế giới. Đây là một trong các quy định giới hạn quyền kết hôn của cá
nhân nhằm đảm bảo, tôn trọng và thúc đẩy quyền con người nói chung và
quyền hôn nhân, gia đình nói riêng.
1.1.4. Ý nghĩa quy định về điều kiện kết hôn
Kết hôn là hoạt động làm thay đổi tư cách pháp lý của hai bên tham
gia quan hệ. Theo đó, sau khi kết hôn thì pháp luật trao cho người vợ và



×