Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Lv ths luật học người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại tòa án nhân dân huyện lộc bình, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.52 KB, 84 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG DÂN SỰ

1.1. Những vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng dân sự

6
6

1.2. Các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về người tiến hành tố
tụng dân sự

15

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC
BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN VÀ KIẾN NGHỊ

45

2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về người tiến hành tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Lộc
Bình, tỉnh Lạng Sơn

45



2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định
của pháp luật Việt Nam về người tiến hành tố tụng dân sự tại Tòa án
nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn

63

KẾT LUẬN

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

CQTHTTDS : Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự
HĐXX

: Hội đồng xét xử

HTND

: Hội thẩm nhân dân

LTCTAND


: Luật tổ chức Tòa án nhân dân

LTCVKSND : Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
NTHTTDS

: Người tiến hành tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VVDS

: Vụ việc dân sự


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời gian gần đây, các tranh chấp dân sự tăng nhanh về số lượng, quy
mô cùng với những diễn biến phức tạp. Theo thống kê cho thấy, số lượng các vụ án
dân sự tăng nhanh không chỉ dừng lại ở các vụ việc dân sự (VVDS) theo nghĩa hẹp
mà còn cả những vụ án kinh doanh, thương mại, lao động. Những tranh chấp này
ngày càng phức tạp về nội dung, phạm vi lĩnh vực, diễn biến gây khó khăn khơng
nhỏ cho hoạt động của các Tịa án nhân dân (TAND). Mặc dù gặp phải những khó
khăn nhưng ngành Tịa án đã giải quyết triệt để, có hiệu quả các VVDS, đáp ứng
được kì vọng của quần chúng nhân dân, tăng cường tính tuân thủ pháp luật và bảo
vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự.
Bên cạnh điểm tiến bộ nêu trên thì thực tế hiện nay vẫn cịn tồn tại nhiều
vướng mắc trong quá trình thực hiện chức năng xét xử của Tịa án. Trong đó ngun
nhân chủ yếu xuất phát từ cơ cấu tổ chức của Tòa án, Viện kiểm sát cịn chưa hợp
lý, trình độ, năng lực của những người tiến hành tố tụng dân sự (NTHTTDS) chưa
cao, chưa đáp ứng yêu cầu tình hình mới... Đặc biệt những bất cập về NTHTTDS là
rào cản, ảnh hưởng lớn nhất đến chất lượng, hiệu quả xét xử của các TAND. Vì vậy,
việc tiếp tục nghiên cứu về NTHTTDS, đề xuất các kiến nghị về hoàn thiện và thực
hiện pháp luật về NTHTTDS, khắc phục những nhược điểm trên, vừa đảm bảo
nguyên tắc tuân thủ pháp luật vừa góp phần xây dựng quy trình gỉai quyết VVDS
khoa học, khách quan và minh bạch nhất, đóng góp vào thực hiện mục tiêu cải cách
tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra trong tình hình mới.

Với lý do nêu trên, học viên chọn đề tài: "Người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tịa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh
Lạng Sơn"nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian trước và sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015
được ban hành đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến NTHTTDS đã được công bố. Trong các công trình đó, tiêu
biểu là các cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý sau đây:


2

- Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, của Khoa Luật trực thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm 2014;
- Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, của Đại học Huế, do Nhà xuất
bản Công An nhân dân xuất bản năm 2015;
- Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, của Trường Đại học Luật Hà
Nội, do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2019;
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Thẩm phán trong tố tụng dân sự", của Bùi Thị Huyền, bảo vệ năm 2001 tại Trường
Đại học Luật Hà Nội;
- Khóa luận tốt nghiệp đại học: "Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự",
của Triệu Hoàng Lan Hương, bảo vệ năm 2011 tại Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Khóa luận tốt nghiệp đại học: "Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Thẩm phán trong tố tụng dân sự", của Lê Thị Thúy Nga, bảo vệ năm 2012 tại
Trường Đại học luật Hà Nội;
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Thẩm phán trong tố tụng dân sự", của Nguyễn Thị Hằng, bảo vệ năm 2013 tại Đại
học Quốc gia Hà Nội;
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của

Thẩm phán trong việc gỉai quyết vụ án dân sự ở Tòa án cáp sơ thẩm", của Vũ
Thanh Tuấn, bảo vệ năm 2013 tại Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người
tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự", của Lã Thị Vân Anh, bảo vệ năm 2016 tại
Trường Đại học luật Hà Nội;
- Luận văn thạc sĩ luật học: "Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân
trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại các Tòa án trên địa bàn thành phố Hải
Phòng", của Nguyễn Thị Nghiệp, bảo vệ năm 2017 tại Trường Đại học Luật Hà Nội...
Ngoài ra, trên các tạp chí cũng đăng tải một số bài viết có nội dung liên
quan về NTHTTDS như:
- Bài viết: "Quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm theo quy định của pháp luật
hiện hành và những vấn đề đặt ra", của Phạm Văn Lợi, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số 08/1999;


3

- Bài viết: "Đổi mới chế định Hội thẩm, nâng cao hiệu qủa hoạt động của
Tòa án", của Nguyễn Tất Viễn, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 01/2000;
- Bài viết: "Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng", của Bùi
Thị Huyền, Tạp chí Luật học, số Đặc san góp ý sự thảo BLTTDS, số 04/2004;
- Bài viết: "Những quy định mới của chế định cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong Bộ luật tố tụng dân sự",
của Nguyễn Cơng Bình, Tạp chí Luật học, số 06/2004;
- Bài viết: "Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt dộng của Hội
thẩm", của Hoàng Hùng Hải, Tạp chí TAND, số 06/2005;
- Bài viết: "Một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm Tòa án nhân
dân" của tác giả Lê Thu Hà, Tạp chí TAND, số 23/2009;
- Bài viết: "Hồn thiện các quy định của pháp luật về Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân", của Trần Anh Tuấn và Hoàng Văn Tùng, Tạp chí TAND, số 05/2016;

- Bài viết: "Tư cách của người tiến hành tố tụng dân sự", của Lương Xuân
Vũ, Tạp chí Lập pháp, số 03/2016;
- Bài viết: "Thực tiễn thay đổi NTHTTDS" của tác giả Đào Cơng Tám, Tạp
chí Lập pháp, số 11/2017;
- Bài viết: "Đôi điều suy nghĩ về người tiến hành tố tụng dân sự trong các
vụ án dân sự", của Nguyễn Ngọc Yến, Tạp chí Luật học, số 2/2017;
- Bài viết: "Vai trò, trách nhiệm của Hội thẩm trong tố tụng dân sự", của Lê
Mỹ Linh, Tạp chí Luật học, số 7/2018 v.v...
Tuy vậy, các cơng trình nghiên cứu nêu trên hầu hết chỉ đề cập gián tiếp đến
NTHTTDS và chủ yếu tập trung vào NTHTTDS là Thẩm phán. Tại TAND huyện
Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn thì chưa có cơng trình nghiên cứu nào về NTHTTDS và
thực tiễn thực hiện. Bởi vậy, việc nghiên cứu đề tài "Người tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh
Lạng Sơn" của học viên có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về NTHTTDS
trong TTDS, nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam về NTHTTDS và thực tiễn


4

thực hiện các quy định này tại TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Từ đó, nhận
diện được những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về NTHTTDS
và thực tiễn thực hiện các quy định này tại TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn; đề
xuất các giải pháp hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật về NTHTTDS
nhằm nâng cao vai trò của NTHTTDS tại TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đề tài nêu trên, việc nghiên cứu đề
tài có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về NTHTTDS;
- Phân tích làm rõ thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam về

NTHTTDS, nhận diện được các bất cập, hạn chế của các quy định đó;
- Khảo sát thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về
NTHTTDS tại Tòa án, nhận diện được các bất cập, hạn chế trong việc thực hiện các
quy định đó;
- Tìm ra được được những giải pháp hồn thiện và thực hiện các quy định
của pháp luật về NTHTTDS tại Tòa án để nâng cao năng lực, vai trò của
NTHTTDS trong giải quyết các VVDS tại Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản về NTHTTDS;
các quy định của pháp luật Việt Nam về NTHTTDS và thực tiễn thực hiện các quy
định của pháp luật Việt Nam về NTHTTDStại Tịa án.
Trong khn khổ của luận văn thạc sĩ ứng dụng, phạm vi nghiên cứu đề tài
chủ yếu là những vấn đề lý luận cơ bản về NTHTTDS như khái niệm, đặc điểm, vai
trò và nội dung điều chỉnh của pháp luật về NTHTTDS; các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về NTHTTDS và thực tiễn thực hiện các quy định này tại
TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn trong thời gian từ năm 2017 đến nay. Mặt
khác, việc nghiên cứu chỉ được tiến hành đối với những NTHTTDS được quy định
tại Khoản 2 Điều 46 BLTTDS năm 2015 và chủ yếu đối với NTHTTDS của Tòa án.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng các


5

phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra, phương pháp phân tích đánh
giá về mặt định tính và định lượng…; từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn để giải quyết,
làm sáng tỏ các mục tiêu nghiên cứu đề tài.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về người tiến hành tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về người tiến hành tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh
Lạng Sơn và kiến nghị.


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng dân sự
Theo Hán Việt Từ điển, "tố tụng" là việc thưa kiện1. Theo Từ điển Tiếng
Việt, "tố tụng" cũng được hiểu là trình tự, thủ tục được tiến hành theo quy định của
pháp luật2. Đối với thuật ngữ "dân sự", hiểu theo nghĩa thơng thường đó là những
việc có liên quan đến người dân; hiểu theo nghĩa pháp lý "dân sự" là các VVDS
theo nghĩa rộng, tức là các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hơn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Theo Từ điển Tiếng Việt, "tiến hành"
là làm, thực hiện một cách chủ động một công việc nào đó đã được định trước3.
Trong khoa học pháp lý, tố tụng dân sự (TTDS) là "trình tự do pháp luật
quy định cho việc giải quyết VVDS và thi hành án dân sự" 4. Hay TTDS là một quá
trình với nhiều giai đoạn và các trình tự, thủ tục khác nhau. Q tình đó bắt đầu từ
thời điểm khởi kiện (yêu cầu) và thụ lý vụ việc và kết thúc khi vụ việc giải quyết xong,
bản án, quyết định của Tịa án được thi hành, cơng lý được thực thi trên thực tế 5.
Q trình Tịa án giải quyết VVDS có sự tham gia của nhiều cá nhân, cơ
quan, tổ chức, do đó phát sinh các quan hệ giữa Tịa án, Viện kiểm sát với các cá
nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào q trình đó. Theo pháp luật Việt Nam hiện

hành, Tòa án và Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự
(CQTHTTDS) còn những cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi tham gia vào quá trình
giải quyết VVDS được gọi là những người tham gia tố tụng dân sự. Các
CQTHTTDS và những người tham gia tố tụng dân sự là những chủ thể của các
quan hệ phát sinh trong quá trình Tòa án giải quyết VVDS do pháp luật TTDS điều
. Đào Duy Anh (1957), Hán Việt Từ điển, Trường Thi xuất bản, Sài Gịn, tr. 302, trích trong tài liệu: Hội
đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương (2013), Pháp luật về tố tụng dân sự, Đặc san tuyên
truyền pháp luật, Hà Nội, tr. 3.
2
. Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng, tr. 108.
3
3. Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Sđd, tr. 952.
4
4. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 10.
5
5. Đại học Huế (2015), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr. 8.
1


7

chỉnh. Trong đó, có những chủ thể được sử dụng quyền lực của Nhà nước để giải
quyết VVDS, kiểm sát việc giải quyết VVDS và ngược lại có những chủ thể phải
chấp hành quyết định của các chủ thể đó. Vì vậy, pháp luật TTDS đã có quy định
cho hai nhóm chủ thể khác nhau có các địa vị pháp lý khác nhau. Trong đó, các
CQTHTTDS là chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết VVDS và
kiểm sát việc giải quyết VVDS.
Trong mỗi CQTHTTDS, lại có những người có thẩm quyền do
CQTHTTDS quản lý, được thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của CQTHTTDS

trong phạm vi mà pháp luật quy định. Những người này được gọi là những
NTHTTDS. Như vậy, NTHTTDS là cá nhân, là một con người cụ thể làm việc
trong CQTHTTDS và thay mặt cho cơ quan này thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trên
thực tế. Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội
định nghĩa: "Người tiến hành tố tụng dân sự là người thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự"6; Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của
Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa: "Người tiến hành tố
tụng dân sự là người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc
dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự" 7 . Tuy nhiên, các
định nghĩa này cịn khá cơ đọng, chưa bao qt hết các đặc điểm của NTHTTDS.
Ngoài ra, nếu hiểu TTDS theo nghĩa rộng là "trình tự do pháp luật quy định cho
việc giải quyết VVDS và thi hành án dân sự" thì định nghĩa NTHTTDS trong Giáo
trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội là phù hợp,
bao gồm cả những người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan tiến hành tố
tụng dân sự trong giải quyết VVDS, thi hành án dân sự và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự. Nếu hiểu TTDS theo nghĩa hẹp là "trình tự do pháp
luật quy định cho việc giải quyết VVDS" và theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành thì định nghĩa NTHTTDS trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam
6. Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.
91.
7
7. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 109.
6


8

của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội là phù hợp, chỉ bao gồm người

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của CQTHTTDS trong giải quyết VVDS và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS.
Những NTHTTDS có vai trị quan trọng, mang tính quyết định trong việc
giải quyết VVDS hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS. Mỗi
NTHTTDS thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau của CQTHTTDS trong
phạm vi pháp luật quy định nhưng các hoạt động TTDS của họ có mối liên hệ mật
thiết, thống nhất với nhau và đều có mục đích chung là bảo đảm việc giải quyết kịp
thời, đúng pháp luật VVDS của TAND để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của
xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Ngoài ra, những
NTHTTDS còn được bổ nhiệm hoặc bầu theo những tiêu chuẩn và thủ tục do pháp
luật đã quy định.
Từ những vấn đề nêu trên có thể đi đến kết luận: Người tiến hành tố tụng
dân sự là người được bổ nhiệm hoặc bầu theo tiêu chuẩn và thủ tục pháp luật quy
định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự trong
giải quyết vụ việc dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của người tiến hành tố tụng dân sự
Người tiến hành TTDS có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, NTHTTDS thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của CQTHTTDSDS
trong phạm vi pháp luật quy định.
Người tiến hành TTDS trong TTDS thông qua việc thay mặt CQTHTTDS
thực hiện quyền lực nhà nước khi giải quyết VVDS ra các bản án và các quyết định
về giải quyết VVDS. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nguyên tắc "quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp" được ghi nhận tại khoản 3 Điều 2, Hiến
pháp năm 2013. Trong đó, quyền tư pháp chính là một dạng của quyền lực nhà
nước, chỉ khi có các hoạt động cụ thể của các chủ thể xác định mới trở thành quyền
lực thực tế. Đây chính là q trình hiện thực hóa quyền tư pháp được ghi nhận trong



9

các văn bản pháp luật vào thực tiễn đời sống của xã hội. Việc áp dụng thực hiện các
quy phạm pháp luật vào thực tế cần thông qua hoạt động của từng cá nhân xác định.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, "Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp". Trong TTDS, NTHTTDS của Tòa án sẽ thay Tòa án thực hiện quyền xét xử.
NTHTTDS thực hiện quyền lực nhà nước thơng qua q trình xem xét, thụ lý, giải
quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự khi đương sự có yêu cầu nhân danh nhà nước
xét xử và ra các bản án, quyết định giải quyết VVDS. Từ đó, để tránh lạm dụng
quyền lực thì hoạt động tố tụng cần phải kiểm sát chặt chẽ. Phần lớn thì sự kiểm sát
này do Kiểm sát viên thực hiện, bằng cách kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
những người tiến hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng trong quá trình
giải quyết VVDS. Việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của NTHTTDS phải
tuân theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được bảo vệ
bởi pháp luật. Vì đây là nhiệm vụ và quyền hạn mà Nhà nước trao cho NTHTTDS
chứ không phải trao cho một chức danh bất kì nào trong bộ máy nhà nước.
Hai là, NTHTTDS là công chức thuộc biên chế của cơ quan tiến hành
TTDS, trừ Hội thẩm nhân dân (HTND).
Người tiến hành TTDS là những người nhân danh nhà nước, thực thi nhiệm
vụ tháo gỡ, giải quyết các VVDS bằng quyền lực nhà nước, được nhân dân tín
nhiệm và góp phần tạo ra mơi trường sống lành mạnh, yên bình cho nhân dân.
NTHTTDS trong TTDS là người được hưởng lương từ NSNN, được bổ nhiệm/bầu
dựa theo những tiêu chuẩn chặt chẽ mà pháp luật đã quy định sao cho phù hợp với
nhiệm vụ mà ngành tư pháp đặt ra đối với những cá nhân thực hiện hoạt động của
CQTHTT. Tại Việt Nam, NTHTTDS đầu tiên phải là cơng dân Việt Nam, có phẩm
chất đạo đức tốt, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam; đáp ứng các tiêu chuẩn về trình độ học vấn, sức khỏe và trình độ chun mơn,

nghiệp vụ.
Ba là, hoạt động của NTHTTDS mang tính chất chủ động và độc lập.
Đây là đặc điểm bắt nguồn từ những nhiệm vụ và quyền hạn riêng biệt mà
pháp luật quy định cho NTHTTDS trong việc thay mặt CQTHTTDS ra các bản án
và quyết định về giải quyết VVDS. Trong tố tụng hình sự, nếu Thẩm phán chỉ tiến


10

hành xét xử trên cơ sở hồ sơ do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát kết luận mà không
tiến hành điều tra vụ án hình sự, thì sự chủ động trong hoạt động của Thẩm phán sẽ
thể hiện rõ nét hơn. Có thể hiểu, "Thẩm phán trong tố tụng dân sự là người trực tiếp
thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời, hòa giải, chuẩn bị hồ sơ vụ án và trực tiếp xét xử"8.
Sự chủ động của NTHTTDS trong TTDS cũng chỉ mang tính chất tương
đối. Khi NTHTTDS thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn để giải quyết VVDS tức là
đang giải quyết các tranh chấp, những yêu cầu trong các quan hệ; dân sự, kinh
doanh, lao động, thương mại, hơn nhân và gia đình. Đặc trưng của những quan hệ
này là quyền tự quyết và tự định đoạt của các chủ thể có quyền quyết định việc khởi
kiện, yêu cầu CQTHTTDS, NTHTTDS giải quyết các tranh chấp hoặc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Cần có hành vi khởi kiện, yêu cầu của đương sự thì
mới có các hoạt động tiếp theo của NTHTTDS. Cùng với đó, trong q trình giải
quyết VVDS, giữa các đương sự có thể thỏa thuận và thương lượng để giải quyết
các vấn đề tranh chấp; rút đơn khởi kiện. Nếu quyết định, thỏa thuận đó khơng trái
với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội thì NTHTTDS trong trường hợp này
sẽ phải tôn trọng quyết định, tôn trọng sự thỏa thuận của đương sự. Do vậy, bên
cạnh sự chủ động khi tiến hành tố tụng, thì sự độc lập cũng là đặc điểm nổi bật
trong hoạt động của NTHTTDS. Nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức
thực hiện quyền tư pháp là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Quyền tư pháp là
quyền xét xử mà nhân dân giao cho TAND thực hiện thông qua hoạt động của

NTHTTDS của Tịa án. Qua đó bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận việc nghiêm cấm các cơ
quan, tổ chức và cá nhân can thiệp vào q trình xét xử của Thẩm phán, HTND
chính là sự bảo đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét
xử. Sự độc lập của Thẩm phán, HTND nói riêng và của NTHTTDS nói chung độc
lập với cả yếu tố bên ngoài và bên trong. Và sự độc lập trên cả hai phương diện này
được hiểu là khi tiến hành tố tụng, NTHTTDS chỉ được căn cứ vào các tài liệu và
chứng cứ; căn cứ vào quá trình tranh tụng của các bên để giải quyết VVDS.
8. Vũ Thanh Tuấn (2013), Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án
dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 13.
8


11

Bốn là, hoạt động của NTHTTDS có ý nghĩa quyết định đối với việc giải
quyết đúng đắn VVDS.
Trong CQTHTTDS thì NTHTTDS giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tố
tụng và tạo nên sức mạnh và uy tín của cơ quan đó. Chỉ có NTHTTDS mới được
pháp luật quy định là có nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện việc giải quyết các VVDS
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết VVDS. Hoạt động
của NTHTTDS quyết định đến tính chính xác, khách quan của bản án, quyết định
của Tòa án; ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy vậy, quá
trình giải quyết VVDS luôn tiền ẩn những yếu tố tác động không tốt đến sự vô tư,
khách quan của Thẩm phán, Kiểm sát viên, HTND nói riêng cũng như sự độc lập
của các NTHTTDS khác, TAND và Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) nói chung.
Trên thực tế thì các biểu hiện có tác động đến sự vơ tư, khách quan thường phức tạp
và đa dạng, do nhiều nguyên nhân và chủ thể khác nhau tạo nên. Dù với bất kỳ mục
đích nào thì sự khơng vơ tư, khách quan của NTHTTDS đều gây ảnh hưởng đến
chất lượng thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn của họ; khiến cho quá trình giải

quyết VVDS trở nên thiếu khách quan. Dẫn tới việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự khơng được thực hiện nghiêm chỉnh. Mỗi một NTHTTDS nếu
hồn thành tốt nhiệm vụ trong các giai đoạn của quá trình tố tụng thì tất nhiên sẽ
khẳng định được hiệu quả hoạt động của CQTHTTDS nơi họ đang công tác, tạo nên
uy tín cho CQTHTTDS và nhận được sự tin tưởng của nhân dân; củng cố sự công
bằng và nghiêm minh của pháp luật.
Mặt khác, nếu NTHTTDS hồn thành khơng tốt nhiệm vụ của bản thân thì
hiệu quả hoạt động của CQTHTTDS đó cũng sẽ bị giảm xuống; tạo sự bất bình, mất
niềm tin trong nhân dân đối với CQTHTTDS nói riêng và đối với hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung. Đặc biệt với các trường hợp NTHTTDS thực hiện nhiệm vụ và
quyền hạn không công tâm và khách quan sẽ tạo phẫn nộ, bức xúc lớn đối với đương sự
nói riêng và người dân nói chung. Do đó, khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn NTHTTDS
ln ln phải nắm vững được nhiệm vụ, quyền hạn của bản thân và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Thơng qua đó, góp phần nâng
cao trách nhiệm của NTHTTDS trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của họ.


12

1.1.3. Vai trò của người tiến hành tố tụng dân sự
Người tiến hành TTDS có vai trị rất quan trọng đối với việc giải quyết
nhanh chóng, đúng đắn VVDS, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, hoạt động của NTHTTDS bảo đảm cho VVDS được giải quyết một
cách công tâm, khách quan, khơng bị gián đoạn, qua đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của đương sự, đảm bảo tính thượng tôn và nghiêm minh của pháp luật.
Người tiến hành TTDS giống như người lái tàu đưa con tàu VVDS đến
thành công, thu được kết quả cuối cùng. Những người trên con tàu đó là NTHTTDS
chèo lái, đưa vụ việc ra ánh sáng, làm sáng tỏ VVDS một cách công khai và minh
bạch nhất, đảm bảo tính tuân thủ pháp luật trong giải quyết VVDS.
Hai là, hoạt động của NTHTTDS là hạt nhân của các CQTHTTDS trong

việc phòng chống vi phạm pháp luật.
Hoạt động của NTHTTDS tạo nên sức mạnh, uy tín của CQTHTTDS. Hiệu
quả hoạt động của NTHTTDS cũng chính là hiệu quả hoạt động của các CQTHTTDS.
Chính vì vậy, NTHTTDS có vai trị đặc biệt quan trọng trong CQTHTTDS, vì hoạt
động của họ mang tính chất quyết định kết quả cơng việc của cơ quan, đơn vị tố
tụng đó. CQTHTTDS mạnh hay yếu, hoạt động có hiệu quả hay khơng có hiệu quả,
phụ thuộc hồn tồn vào hoạt động của họ, vì hầu hết các hoạt động của họ đều trực
tiếp tác động đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Do đó, hoạt động của họ
có hiệu quả sẽ tạo nên dư luận xã hội tốt, tạo dựng được uy tín của CQTHTTDS,
cao hơn nữa là sự tin tưởng vào tính nghiêm minh, cơng bằng của pháp luật. Ngược
lại, nếu hiệu quả hoạt động của NTHTTDS kém, khơng bảo vệ được quyền, lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân sẽ gây nên dư luận bất bình của xã hội
và mất lịng tin của nhân dân đối với CQTHTTDS nói riêng và đối với Nhà nước
Cộng hịa XHCN Việt Nam nói chung.
Ba là, hoạt động của NTHTTDS góp phần quyết định trong việc bảo vệ trật
tự pháp luật, tăng cường việc tuân thủ pháp luật.
Nhiệm vụ chính của NTHTTDS là giải quyết các VVDS đối với các tranh
chấp, yêu cầu về quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân và gia
đình. Do trên thực tế, phạm vi các loại tranh chấp, yêu cầu thường rất đa dạng và
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nên hoạt động TTDS của NTHTTDS có ảnh hưởng


13

nhất định đến sự ổn định, phát triển của nhiều mối quan hệ xã hội. Việc áp dụng
đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục xét xử là yêu cầu quan trọng
nhất đối với NTHTTDS. Bởi khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn tố tụng đúng
pháp luật thì khả năng phát hiện tội phạm cao hơn, tìm được chính xác người phạm
tội, xử lý thật nghiêm minh, không làm oan người vô tội, không để bỏ lọt tội phạm;
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thông qua hoạt động xét xử,

giải quyết các tranh chấp, yêu cầu, người dân được phổ biến các đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Qua đó tạo nên mơi trường ổn định cho sự
phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, nâng cao tinh thần chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật của nhân dân, góp phần củng cố hiệu lực của pháp luật, tăng cường pháp
chế XHCN, nâng cao uy tín của bộ máy nhà nước mà đại diện là các cơ quan bảo vệ
pháp luật.
Như vậy, NTHTTDS có vị trí, vai trị rất quan trọng trong bộ máy nhà
nước, khơng có hoạt động của họ thì nhiệm vụ đấu tranh phịng và chống tội phạm
khơng được đặt ra. Trong những năm gần đây, chính vì NTHTTDS có vị trí và vai
trị quan trọng nên Đảng, Nhà nước ta ln hết sức chú trọng đến đội ngũ
NTHTTDS; vừa tăng về số lượng và chất lượng NTHTTDS nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của hoạt động TTDS. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt
được, hiệu quả hoạt động của NTHTTDS còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ so với yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra. Điều này có nhiều nguyên nhân,
nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là các quy định của pháp luật về nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người NTHTTDS chưa cụ thể và rõ ràng;
NTHTTDS là những người trực tiếp thực hiện các hành vi tố tụng, nhưng rất ít thẩm
quyền, dẫn đến tình trạng làm giảm vai trị, tính chịu trách nhiệm, tính độc lập và
tính hiệu quả hoạt động của những NTHTTDS. Vì thế, vấn đề đặt ra là cần quy định
đầy đủ, rõ ràng, khoa học về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của NTHTTDS
trong giải quyết các vụ án dân sự, là cơ sở, điều kiện để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ
mà Nhà nước giao phó và đáp ứng được yêu cầu do thực tiễn đặt ra.
1.1.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về người tiến
hành tố tụng dân sự


14

1.1.4.1. Thành phần người tiến hành tố tụng dân sự
Không phải tất cả các cán bộ, nhân viên trong các CQTHTTDS đều có thể

thực hiện được nhiệm vụ và quyền hạn của CQTHTTDS trong việc giải quyết
VVDS. Thông thường chỉ có những người có năng lực, trình độ chun mơn nhất
định mới có thể thực hiện được nhiệm vụ và quyền hạn của CQTHTTDS trong việc
giải quyết VVDS. Bởi vậy, để NTHTTDS thực hiện tốt được vai trị của mình trong
việc giải quyết VVDS hoặc kiểm sát việc giải quyết VVDS thì pháp luật trước hết
phải quy định về thành phần NTHTTDS hay nói cách khác là pháp luật phải quy
định rõ ai là NTHTTDS. Theo đó, thành phần NTHTTDS phải bao gồm những
người có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc tiến hành giải quyết VVDS và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong giải quyết VVDS. Ngoài ra, pháp luật cũng phải quy
định rõ tiêu chuẩn cụ thể để bổ nhiệm hoặc bầu những NTHTTDS và trình tự, thủ
tục bổ nhiệm hoặc bầu những NTHTTDS.
1.1.4.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của người tiến hành tố tụng dân sự
Người tiến hành TTDS chỉ có thể thực hiện tốt vai trị của mình trong việc
giải quyết VVDS hoặc kiểm sát việc giải quyết VVDS trong trường hợp pháp luật
quy định đầy đủ, cụ thể và hợp lý nhiệm vụ và quyền hạn của họ trong việc giải
quyết VVDS hoặc kiểm sát việc giải quyết VVDS. Những quy định này được đưa
ra phù hợp với vị trí, vai trị của từng NTHTTDS, thể hiện rõ đặc thù của từng vị trí
nghề nghiệp nhất định. Pháp luật điều chỉnh về khía cạnh này thơng qua việc mặc
định và luật hóa những cơng việc NTHTTDS phải làm và phải thực hiện, làm nền
tảng xuyên suốt trong hệ thống pháp luật dân sự.
Việc quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Thẩm phán,
HTND... là cơ sở để NTHTTDS nhận thức rõ về nhiệm vụ của mình, tích cực, chủ
động và tự giác hơn trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả hoạt động TTDS và là
cơ sở cần thiết để xác định trách nhiệm của họ khi tiến hành tố tụng để xảy ra sai phạm.
1.1.4.3. Việc phân công người tiến hành tố tụng dân sự tham gia giải quyết
vụ việc dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Việc phân công NTHTTDS tham gia giải quyết VVDS hoặc kiểm sát việc
giải quyết VVDS cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của NTHTTDS. Nếu việc phân công khách quan, hợp lý sẽ giúp



15

NTHTTDS phát huy được năng lực của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn đã được pháp luật quy định cịn nếu khơng thì kết quả có thể sẽ ngược lại. Bởi
vậy, bên cạnh việc pháp luật phải quy định đầy đủ, cụ thể quyền, nghĩa vụ của
những NTHTTDS thì pháp luật cịn phải quy định cả về việc phân công người tiến
hành tố tụng dân sự tham gia giải quyết VVDS hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTDS. Cụ thể pháp luật phải quy định về thẩm quyền phân công
NTHTTDS, thủ tục phân công NTHTTDS. Thông qua việc quy định những vấn đề
này bảo đảm việc phân công NTHTTDS tham gia trong mỗi VVDS được khách
quan, phù hợp với năng lực chuyên môn của mỗi người đảm bảo việc giải quyết
VVDS và kiểm sát việc giải quyết VVDS được đúng pháp luật.
1.1.4.4. Thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự
Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS là phải đảm bảo
tính khách quan, vơ tư của NTHTTDS. Để phịng ngừa các khả năng dẫn đến bản
án, quyết định được tuyên không khách quan, vơ tư vì những NTHTTDS có các
quan hệ huyết thống, hôn nhân hoặc quan hệ xã hội gây tác động đến tính khách
quan của bản án thì việc thay đổi họ là cần thiết. Việc thay đổi này sẽ đảm bảo giải
quyết VVDS cũng như việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải
quyết VVDS theo đúng pháp luật; bảo đảm sự công bằng cũng như tơn trọng tính
tối cao của pháp luật. Vì thế, bên cạnh việc quy định việc phân công NTHTTDS
tham gia giải quyết VVDS hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS thì
pháp luật cịn phải quy định cả vấn đề thay đổi NTHTTDS. Về nội dung này, pháp
luật cần quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến việc thay đổi NTHTTDS như
căn cứ thay đổi hoặc từ chối NTHTTDS, thẩm quyền thay đổi NTHTTDS, thủ tục
thay đổi hoặc từ chối NTHTTDS. Các quy định về vấn đề này càng khoa học, rõ
ràng và chặt chẽ sẽ càng tạo cơ sở thuận lợi cho việc thay đổi NTHTTDS thực hiện
được dễ dàng hơn, bảo đảm việc giải quyết VVDS đúng pháp luật.
1.2. Các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về người tiến hành tố

tụng dân sự
1.2.1. Quy định về thành phần người tiến hành tố tụng dân sự
Điều 46 BLTTDS năm 2015 quy định như sau:
"1. Các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự gồm có:


16

a) Tòa án;
b) Viện kiểm sát;
2. Những người tiến hành tố tụng dân sự gồm có:
a) Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư
ký Tòa án;
b) Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên".
Như vậy, thành phần của NTHTTDS khá đa dạng, bao gồm:
- Người tiến hành TTDS của Tòa án gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án;
- Người tiến hành TTDS của Viện kiểm sát gồm: Viện trưởng Viện kiểm
sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.
Quy định trên đã quy định khá đầy đủ, bao quát hết phạm vi những
NTHTTDS, đã nêu cụ thể các chức danh cơ bản, là căn cứ cho việc xác định nhiệm
vụ, quyền hạn của từng người và có sự phối hợp, liên kết giữa họ trong việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn, đảm bảo tính tn thủ pháp luật, tơn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền cơng dân trong TTDS.
- Chánh án Tịa án
Người tiến hành TTDS đứng đầu Tòa án là Chánh án, tổ chức và chịu trách
nhiệm thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án. Trước kia hệ thống Tòa án
nhân dân gồm 3 cấp tuy nhiên hiện nay đã được chia thành 4 cấp gồm có:
TANDTC; TAND cấp cao; TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; TAND
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Cùng sự xuất hiện của

TAND cấp cao, bước đầu hệ thống Tòa án đã tách khỏi việc tổ chức Tòa án trong sự
phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Như vậy, theo tổ chức hệ thống Tịa án mới thì Chánh án Tòa án gồm:
- Chánh án TANDTC;
- Chánh án TAND cấp cao;
- Chánh án TAND tỉnh;
- Chánh án TAND huyện.
Việc bầu/miễn nhiệm/bãi nhiệm Chánh án TANDTC và bổ nhiệm/miễn
nhiệm/cách chức Chánh án TAND cấp cao/tỉnh/huyện và các Chánh án của Tòa án


17

quân sự được thực hiện dựa vào Luật tổ chức Tịa án nhân dân LTCTAND năm
2014. Cùng với đó trong TAND thì Chánh án là NTHTTDS nắm giữ hai vai trị đó
là: Người lãnh đạo của Tịa án và Thẩm phán giải quyết VVDS cụ thể. Như vậy,
bên cạnh việc bảo đảm hoạt động xét xử của Tịa án thơng qua việc tổ chức giải
quyết VVDS thì Chánh án của Tòa án còn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn để giải
quyết VVDS. Và khi Chánh án tham gia giải quyết VVDS cụ thể, Chánh án có
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán.
- Thẩm phán
Theo quy định tại LTCTAND năm 2014, Thẩm phán là người thuộc biên
chế Tòa án và là một chức danh tư pháp. Các cá nhân thỏa mãn các tiêu chuẩn quy
định tại Điều 67 LTCTAND năm 2014 sẽ được bổ nhiệm làm Thẩm phán, bao gồm
các tiêu chuẩn về: chính trị, trình độ học vấn, thời gian công tác thực tiễn, chuyên
môn, nghiệp vụ và tiêu chuẩn về sức khỏe.
Các ngạch Thẩm phán Tương ứng với 4 cấp Tòa án theo tổ chức hệ thống
Tòa án mới của LTCTAND năm 2014 bao gồm:
[1] Thẩm phán TANDTC;
[2] Thẩm phán cao cấp;

[3] Thẩm phán trung cấp;
[4] Thẩm phán sơ cấp.
Trong đó:
- Tịa án nhân dân tối cao có ngạch Thẩm phán [1];
- Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương có ngạch Thẩm phán [2];
- Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án quân sự quân khu và tương đương có ngạch
Thẩm phán [2], [3], [4];
- Tòa án nhân dân huyện, Tòa án quân sự khu vực có ngạch Thẩm phán [3]
và [4].
Dựa theo đề nghị của Chánh án TANDTC, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ
quyết định số lượng Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp
và tỷ lệ các ngạch Thẩm phán tại mỗi cấp. Việc phân chia ngạch Thẩm phán rất có ý
nghĩa trong việc thay đổi cách hiểu máy móc về vị trí và vai trị của Thẩm phán. Bởi
vì trước kia khi gọi tên Thẩm phán tỉnh, Thẩm phán huyện đã vơ tình địa phương


18

hóa các chức danh này. Dù cho Thẩm phán ở địa phương nào, cấp nào thì cũng đều
là các cá nhân được bổ nhiệm để nhân danh Nhà nước và thực hiện quyền tư pháp.
Tất cả các bản án và quyết định của mọi Thẩm phán đều phải được thi hành và được
Nhà nước bảo đảm thực hiện.
- Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm nhân dân là NTHTTDS được bầu dựa theo quy định của pháp
luật, có nhiệm vụ chung là thực hiện việc xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của
Tịa án theo phân cơng của Chánh án Tịa án nơi được bầu làm HTND 9. Trong
trường hợp Thẩm phán thuộc biên chế của Tịa án thì HTND là người do HĐND
cùng cấp bầu theo từng nhiệm kỳ và nằm ngồi biên chế của Tịa án. Nếu có đủ các
tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 85 LTCTAND năm 2014 sẽ được bầu làm HTND.
HTND có vai trị là người đại diện cho Nhân dân và tham gia vào hoạt động xét xử

của Tịa án. Cùng với đó, bản thân chế định HTND là sự thể hiện tư tưởng "lấy dân
làm gốc", bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong Hội đồng xét
xử (HĐXX).
- Thẩm tra viên
Thẩm tra viên là chức danh mới được quy định trong Tòa án, được xác lập
khi ban hành Quyết định số 788-TCCP-VC ngày 08/10/1993 của Bộ trưởng,
Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (ngày nay là Bộ Nội vụ) về việc ban hành
tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch cơng chức Thẩm tra viên ngành Tịa án10.
Theo Luật số 20/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật luật sư, thì người đã là Thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa
án được miễn tập sự hành nghề luật sư. Đến LTCTAND năm 2014, trong các Tòa
án, chức danh Thẩm tra viên đã được ghi nhận một cách cụ thể. BLTTDS năm 2015
quy định Thẩm tra viên là NTHTTDS của TAND. Quy định này được ban hành
nhằm phù hợp với định hướng của LTCTAND năm 2014. Khoản 1 Điều 93
LTCTAND năm 2014, Thẩm tra viên là cơng chức chun mơn của Tịa án đã làm
9. Điều 84 LTCTAND 2014.
10. Trần Duy Bình (2013), "Sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng, nghiệp vụ thẩm tra viên và một số ý kiến
đóng góp về chương trình đào tạo Thẩm tra viên", Trang thơng tin điện tử TANDTC, địa chỉ
/>p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1 &item_id=35253577, ngày truy cập 30/6/2020.
9

10



×