Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng – Thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.82 KB, 55 trang )

TÓM LƯỢC
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay, hoạt động tín
dụng đóng vai trò hết sức quan trọng. Thực hiện tốt các vấn đề liên quan đến hoạt
động tín dụng, đặc biệt là giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng sẽ tạo lợi thế cho
nước ta trong việc thu hút đầu tư, tăng vốn cho nền kinh tế qua đó tạo tiền đề vững
chắc cho sự phát triển nền kinh tế nước nhà. Chính vì vậy, vấn đề cấp thiết đặt ra là
phải có một hành lang pháp lý vững chắc để điều chỉnh vấn đề giao kết và thực hiện
hợp đồng tín dụng.
Hiện nay mặc dù hệ thống pháp luật về hợp đồng Việt Nam đã có nhiều tiến bộ,
khá hoàn chỉnh và khá phù hợp với các tiêu chuẩn của các điều ước quốc tế liên quan
đến hợp đồng tín dụng mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, tạo hành lang pháp lý an
toàn cho hoạt động tín dụng ở Việt Nam, song vẫn cần thiết phải tiếp tục được hoàn
thiện cả về nội dung và hình thức để bảo đảm hơn nữa tính thống nhất, đồng bộ, minh
bạch, công bằng khả thi, đầy đủ và hiệu quả của hệ thống pháp luật về hợp đồng tín
dụng Việt Nam, phù hợp hơn với thực tiễn ở Việt Nam cũng như phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế.
Trong khóa luận, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu một số vấn đề cơ bản nhất của
pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng- một trong những vấn đề được
quan tâm nhất của pháp luật về hợp đồng tín dụng hiện nay- để góp phần nhỏ bé vào
việc hoàn thiện pháp luật.

1


LỜI CẢM ƠN
Để hiểu rõ hơn về vấn đề nghiên cứu, em đã có cơ hội thực tập tai: NGÂN
HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI NHÁNH PHỦ DIỄN.
Em xin gửi lời cám ơn tới các cán bộ, nhân viên trong công ty đã tạo điều kiện để em
thực tập, hoàn thành tốt nhất có thể khóa luận tốt nghiệp của mình.
Em cũng xin gửi lời cám ơn tới các Thầy, Cô giáo Khoa Kinh tế- Luật, Khoa và
Nhà trường đã tạo điều kiện để em có cơ hội thực tập, nghiên cứu chuyên sâu. Đặc


biệt, em xin gửi lời cám ơn tới cô giáo, T.S Trần Thị Thu Phương đã định hướng, giúp
đỡ, hỗ trợ em rất tận tình trong suốt quá trình thực hiện và cho đến khi hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
Tuy vậy, do thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm, kiến thức còn hạn chế nên
khóa luận tốt nghiệp của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các Thầy, Cô giáo để em có cơ hội bổ sung, hoàn
thiện kiến thức của mình nhằm phục vụ tốt cho công việc thực tế.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Oanh

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Số vụ án liên quan đến hợp đồng tín dụng tại Nghệ An
Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh của BIDV Phủ Diễn

4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Stt

Kí hiệu


Diễn giải

1

BIDV

Ngân hàng Thương Mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam

2

BLDS

Bộ luật Dân Sự

3

HĐTD

Hợp đồng tín dụng

4

NHNN

Ngân hàng nhà nước

5

NĐ-CP


Nghị định-Chính Phủ

6



Quyết định

7

TCTD

Tổ chức tín dụng

8

TMCP

Thương mại cổ phần

9

VBHD

Văn bản hướng dẫn

10

WTO


Tổ chức Thương Mại Thế giới

5


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài khóa luận
Ngày nay, cùng với sự vươn mình trỗi dậy của mình trên con đường hội nhập
nền kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã gặt hái được những bước tiến đáng mừng
kể từ sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Sự
hội nhập này đã, đang và sẽ tạo ra cho các doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội to lớn
để phát triển kinh doanh, mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Song đứng trước
thời cơ, vận hội này cũng đặt ra không ít những thách thức cho các doanh nghiệp bởi
họ đang phải cạnh tranh gay gắt với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài. Ngân
hàng là một trong những lĩnh vực nhạy cảm chịu nhiều ảnh hưởng nhất.
Trong các hoạt động ngân hàng thì cho vay là hoạt động truyền thống mang lại
nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng nhưng cũng là hoạt động tiềm ẩn những rủi ro
vô cùng to lớn, thậm chí có thể gây sụp đổ hệ thống ngân hàng tác động nghiêm trọng
đến nền kinh tế đất nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế đang diễn ra sâu rộng ở Việt
Nam thì nguy cơ rủi ro tín dụng ngày càng cao. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng tín dụng ở
Mỹ, một số nước Châu Âu, Nhật Bản... là một bài học đắt giá cho Việt Nam trong việc
nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng, kiểm soát rủi ro. Điều đó đã và đang đặt ra cho
chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa pháp luật về ngân hàng nói
chung và pháp luật về HĐTD nói riêng đặc biệt là về giao kết và thực hiện hợp đồng.
Những năm gần đây, pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về HĐTD
nói riêng đã được Nhà nước ta quan tâm và không ngừng hoàn thiện như: Bộ luật Dân
sự 2015, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các TCTD và nhiều văn bản hướng dẫn thi
hành. Những văn bản pháp luật trên đã tạo ra một khung pháp lý quan trọng, tạo đà
cho hoạt động cho vay của các ngân hàng phát triển, thực hiện chính sách tiền tệ quốc

gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt
được thì pháp luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về thực hiện, giao kết HĐTD
nói riêng vẫn còn nhiều bất cập.
Hơn nữa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng đặt ra yêu cầu phải có sự hài
giữa quy phạm pháp luật quốc gia với các quy phạm pháp luật quốc tế, giữa quy định
của pháp luật về HĐTD ngân hàng với các cam kết WTO về ngân hàng.
Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam là một trong những ngân hàng
quốc doanh đứng đầu cả nước về quy mô với mạng lưới mạng lưới chi nhánh trải đều
khắp đất nước cũng như chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó có
BIDV chi nhánh Phủ Diễn. Tuy mới thành lập được 10 năm còn gặp rất nhiều khó
khăn về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực nhưng BIDV Phủ Diễn đã cố gắng vượt qua và

6


đạt được nhiều thành tựu to lớn góp phần tích cực vào sự phát triển của ngân hàng
TMCP Đầut tư và phát triển Việt Nam, của tỉnh Nghệ An và của toàn nền kinh tế.
Trước những vấn đề đặt ra như vậy, em quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật
về giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng – Thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam” để nghiên cứu. Hi vọng rằng với những
nghiên cứu này sẽ góp phần hoàn thiện những vấn đề bất cập trong việc giao kết và
thực hiện hợp đồng tín dụng.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng
ngân hàng nói chung và HĐTD ngân hàng nói riêng ở những khía cạnh khác nhau
như:
- “Bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng và những vướng mắc khi tín dụng hợp đồng
bảo đảm” – Phạm Văn Đàm – Nhà nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật –
Số 24/2013. Bài viết tập trung chủ yếu vào các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐTD ở
các ngân hàng thương mại như cầm cố, thế chấp. Bên cạnh đó, bài viết còn nêu lên

một số vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật khi sử dụng các biện pháp bảo
đảm cho HĐTD.
- “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng và thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về
tranh chấp hợp đồng tín dụng” – Hoàng Quỳnh Chi – Kiểm sát. Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, số 4/2002. Bài viết đã đề cập đến nhũng quy định của pháp luật về chủ
thể, đối tượng, vấn đề giao kết và thực hiện HĐTD, thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế
về tranh chấp HĐTD của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
- “Các biện pháp pháp lý bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng” – Phạm Văn Đàm –
Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tư pháp, số 11/2011. Bài viết trình bày khái niệm, bản chất
và đặc điểm sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐTD. Đối
với các khoản tiền vay bằng tài sản: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh... Trong trường hợp
cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội tại cơ sở
bằng uy tín của mình có thể bảo lãnh cho cá nhân và hộ gia đình nghèo vay một khoản
tiền nhỏ tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ.
- “Vận dụng quy định của pháp luật về lãi suất để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín
dụng ngân hàng tại Tòa án” – Lương Khải An – Tạp chí Kiểm sát, số 12/2012. Bài
viết chỉ ra việc vận dụng các quy định về lãi suất quá hạn, lãi suất chậm thi hành án
vẫn còn những quan điểm khác nhau; bên cạnh đó, hướng dẫn của ngành Ngân hàng
còn chồng chéo với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; các
cơ quan liên ngành cũng chưa kịp thời phối kết hợp để cùng giải quyết vướng mắc nên
việc giải quyểt tranh chấp còn thiếu thống nhất, chưa thỏa đáng.

7


- “Bàn về chủ thể của luật dân sự qua quy định về bảo hiểm tiền gửi của cá nhân ở
các tổ chức tín dụng” – Đinh Dũng Sỹ – Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02/2005.
Tác giả đã nêu lên cái nhìn tổng quát về các chủ thể được quy định còn chung chung,
chưa rõ ràng trong Bộ luật dân sự 2005 gây ra không ít khó khăn, phức tạp trong thực
tiễn điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của các cá nhân ở các tổ chức tín dụng

tại Việt Nam.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nói trên đã đi sâu phân tích thực trạng
vấn đề pháp lý về bảo đảm thực hiện HĐTD và những bất cập đang gặp phải, đưa ra
định hướng cho sự phát triển của các ngân hàng nói riêng và của nền kinh tế Việt Nam
nói chung. Tuy nhiên, những công trình này mới chỉ nghiên cứu hoạt động tín dụng ở
một số khía cạnh, lĩnh vực pháp lý, biện pháp bảo đảm mà chưa luận giải một cách đầy
đủ có hệ thống pháp luật về giao kết và thực hiện HĐTD. Chính vì vậy, trên cơ sở kế
thừa thành tựu của các công trình khoa học đi trứơc, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu và
phát triển những kiến thức chắt lọc được về vấn đề giao kết và thực hiện HĐTD trong
đề tài nghiên cứu của mình.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Hoạt động của các tổ chức tín dụng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân, có tác động đến tất cả các ngành trong nền kinh tế, nó giúp quá
trình lưu thông vốn được diễn ra thuận lợi hơn, đẩy mạng sản xuất. HĐTD ngoài việc
mang lại những lợi ích tích cực cho các chủ thể tham gia mà còn tạo điều kiện thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế-xã hội. Xuất phát từ tầm quan trọng của HĐTD ở Việt
Nam và thực tế tại Ngân hàng TMCP Đầu từ và Phát triển Việt Nam nên em lựa chọn
đề tài “Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng – Thực tiễn thực hiện
tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam” với mong muốn được tìm hiểu
sâu hơn các quy định của pháp luật về giao kết và thực hiện HĐTD, thực tiễn thực
hiện các HĐTD tại các tổ chức tín dụng là ngân hàng thương mại cổ phần. Từ những
nghiên cứu hết sức khách quan sẽ đưa ra một số quan điểm cá nhân về phương hướng
sửa đổi cũng như đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
HĐTD tại BIDV Phủ Diễn. Bài khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu về chủ thể, vấn đề
giao kết và thực hiện HĐTD và đánh giá thực tiễn thực hiện HĐTD tại BIDV chi
nhánh Phủ Diễn.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
• Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài lấy đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về giao kết và thực hiện HĐTD, cụ thể là thực tiễn áp dụng pháp luật về giao kết


8


và thực hiện HĐTD tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam - chi nhánh
Phủ Diễn.
Đồng thời, qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật pháp luật điều chỉnh
HĐTD, đề tài sẽ chỉ ra một số vấn đề bất cập còn tồn đọng. Từ đó, tác giả đề xuất một
số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện HĐTD,
nâng cao hiệu quả và tính khả thi của việc áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng vào
thực tiễn tại Việt Nam.
• Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
Thứ nhất là, nghiên cứu được một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ
bản pháp luật về giao kết và thực hiện HĐTD.
Thứ hai là, phân tích được thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
về giao kết và thực hiện HĐTD ở nước ta hiện nay, đặc biệt là tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh Phủ Diễn.
Thứ ba là, đề xuất được một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý về
giao kết và thực hiện HĐTD đối để nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng ở nước
ta nói chung và Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh Phủ
Diễn nói riêng.
• Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Pháp luật về HĐTD ngân hàng có phạm vi nghiên cứu rất rộng, nội dung phức
tạp, bao hàm nhiều lĩnh vực pháp luật như dân sự, hành chính, hình sự… Do đó, để
nghiên cứu một cách toàn diện thì đòi hỏi sự đầu tư nghiên cứu rất nhiều kiến thức có
liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Vì vậy, với việc nghiên cứu dừng lại ở mức
đề tài khóa luận tốt nghiệp cấp trường, tác giả chỉ giới hạn phạm vi nội dung nghiên
cứu là pháp luật về HĐTD với hai nội dung chính là giao kết và thực hiện HĐTD tại
ngân hàng.

Về thời gian: Khóa luận sẽ nghiên cứu pháp luật về giao kết và thực hiện
HĐTD trên cơ sơ pháp luật từ năm 2010 đến nay và nghiên cứu việc thực hiện hoạt
động tín dụng tại Ngân hàng, cụ thể là: Bộ luật dân sự 2015, Luật các TCTD 2010 và
một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy Bộ luật dân sự 2015 chưa có hiệu lực tại
thời điểm hiện tại nhưng tác giả đã sử dụng nó cho khóa luận để bài viết có tính cập
nhật, phục vụ cho mục đích nghiên cứu học thuật phù hợp hơn.
Về không gian: Khóa luận tập trung làm rõ thực trạng thực hiện HĐTD tại
BIDV chi nhánh Phủ Diễn, từ đó đưa ra những định hướng góp phần hoàn thiện vấn đề
này đối với các ngân hàng tại Việt Nam.

9


5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, tác giả dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để
tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật và thực tế áp dụng. Bài luận văn sử dụng
kết hợp các phương pháp nghiên cứu định tính như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát
triển Việt Nam – chi nhánh Phủ Diễn.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn nhằm nắm bắt được những khó khăn,
vướng mắc của cơ quan quản lý trong quá trình thực tiễn hoạt động giao kết và thực
hiện hợp đồng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh Phủ
Diễn.
Sự kết hợp các phương pháp định tính là nền tảng cho cái nhìn khách quan
nhất, đồng thời sẽ có những nhận xét, đánh giá xác thực và đề ra những phương hướng
hoàn thiện có tính khả thi.
Ngoài ra, việc thu thập, nghiên cứu, phân tích các tài liệu được cung cấp bởi
đơn vị thực tập – BIDV chi nhánh Phủ Diễn cũng góp phần hoàn thành và làm rõ hơn

mục đích nghiên cứu. Thêm nữa để có cái nhìn toàn diện, khách quan, đa chiều hơn về
vấn đề nghiên cứu, tác giả cũng tiến hành nghiên cứu thông qua sách báo, tạp chí và
internet.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của đề tài bao gồm:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín dụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về hợp đồng tín dụng và thực tiễn thực
hiện tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – chi nhánh Phủ Diễn.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng
tín dụng.

10


CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP
ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của hợp đồng tín dụng
1.1.1. Định nghĩa hợp đồng tín dụng
Đã từ lâu pháp luật về hợp đồng chiếm một vị trí quan trọng trong pháp luật
Việt Nam, hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh hay nhằm
đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường đều liên quan đến hợp đồng. Chính vì
vậy, các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 liên quan đến hợp đồng dân sự nói chung
chiếm một phần không nhỏ. Mục đích của pháp luật về hợp đồng nhằm bảo vệ quyền
tự do ý chí của các bên.
Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một
vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền
hay nghĩa vụ của các bên đó. Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng
dân sự một cách khái quát như sau: “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ đối với nhau.” (Điều 385, Bộ luật

dân sự 2015)
Tín dụng là một từ Hán-Việt có nghĩa gốc là “tin dùng” sử dụng với sự tín
nhiệm, dần dần từ này được sử dụng với nghĩa là giao vốn, tài sản trên cơ sở của sự tín
nhiệm. Về bản chất, tín dụng là quan hệ kinh tế trong đó một chủ thể thỏa thuận đẻ các
chủ thể khác được sử dụng một số vốn của mình (dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng
hóa) trong một khoảng thời gian nhất định với điều kiện có hoàn trả dựa trên cơ sở có
sự tín nhiệm.
Hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng cho vay. Vì vậy để hiểu được hợp
đồng tín dụng là gì thì trước hết phải nghiên cứu khái niệm hợp đồng cho vay, theo đó
hợp đồng cho vay là: “Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng, theo đó bên cho vay giao tài
sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng
loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp
luật có quy định.”
Từ đó ta có thể hiểu khái niệm “Hợp đồng tín dụng là sự thoả thuận bằng văn
bản giữa TCTD (bên cho vay) với khách hàng là tổ chức, cá nhân (bên vay) nhằm xác
lập quyền và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó
TCTD (bên cho vay) chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay) sử
dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả khoản tiền đó
(tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định”.
Trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân thì thế mạnh hoàn toàn thuộc về
TCTD và TCTD là người quyết định có hay không cho vay. Dấu ấn vẫn đang hiện hữu
11


trong Luật các TCTD năm 2010 để chỉ quá trình chuẩn bị giao kết hợp đồng, đó là
những cụm từ “cấp tín dụng” và “xét duyệt cấp tín dụng” hay là “yêu cầu khách hàng
cung cấp tài liệu chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn và khả năng trả nợ.
Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi TCTD giải ngân, thì xu thế
lại hoàn toàn đảo ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai trò chủ động trong việc trả
nợ. Mặc dù TCTD có khá nhiều quyền chi phối theo quy định của pháp luật về HĐTD,

nhưng vẫn trở thành bên thụ động.
Hợp đồng tín dụng có vai trò không nhỏ trong nền kinh tế lẫn hệ thống ngân
hàng, vì thế việc xây dựng chế định pháp lý chặt chẽ cho HĐTD là vấn đề không chỉ ở
Việt Nam mà còn được nhiều nước quan tâm.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng mang khá đầy đủ bản chất của hợp đồng vay tài sản theo
quy định tại điều 463 BLDS 2015 “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải trả cho
bên vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chi trả lãi nếu có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định”. Ngoài ra, HĐTD còn có một số đặc trưng riêng
biệt sau:
Thứ nhất là, một bên chủ thể của HĐTD luôn là TCTD.
TCTD muốn thực hiện hoạt động cho vay phải hội đủ các điều kiện về thành
lập, vốn pháp định, có điều lệ được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y và có đại diện hợp
pháp khi tham gia ký kết hợp đồng theo quy định của pháp luật. Những điều kiện trên
đây không những góp phần hạn chế, loại trừ những TCTD không đủ tiêu chuẩn kinh
doanh trên thị trường tài chính mà còn góp phần lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng.
Ngoài ra, khi TCTD hội đủ các điều kiện trên sẽ góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư, là căn cứ để các thẩm phán, các trọng tài viên tiến hành thẩm định và đánh
giá vấn đề hiệu lực của HĐTD.
Để thực hiện hoạt động cho vay, TCTD phải tiến hành ký kết hợp đồng nhằm
xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong HĐTD, TCTD luôn tham gia ký kết với
tư cách là chủ thể cho vay nhằm phân phối lại nguồn vốn đã huy động từ tổ chức và cá
nhân khác trong xã hội. Với tư cách là chủ thể cho vay, TCTD phải thẩm định được
phương án vay vốn, tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Điều này là vô cùng cần
thiết vì nó có khả nẳng hoàn trả nợ vay của bên đi vay. Các TCTD tham gia vào quan
hệ tín dụng ngân hàng chủ yếu để thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ vào mục tiêu
lợi nhuận, trừ trường hợp các TCTD chính sách thực hiện hoạt động tín dụng vì mục
đích xã hội là chính.
Thứ hai là, HĐTD phải luôn được ký kết dưới hình thức văn bản.


12


Đặc trưng cơ bản của hoạt động tín dụng ngân hàng là đi vay để cho vay, vì vậy,
để cho vay lại ngân hàng phải có trách nhiệm bảo toàn nguồn vốn tín dụng của mình.
Để thực hiện điều này thì quyền và nghĩa vụ của các bên (TCTD và bên đi vay) phải
cụ thể. Pháp luật quy định các chủ thể khi tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng
phải thỏa thuận bằng văn bản các quyền và nghĩa vụ của mình. Thực ra quy định này
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Bởi vì HĐTD là cơ sở pháp lý
cho việc giải quyết tranh các chấp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
HĐTD được ký kết dưới các hình thức pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản
viết và văn bản điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Ngôn ngữ, văn phạm khi soạn
thảo HĐTD phải chính xác, rõ ràng, ngắn gọn, dứt khoát, đầy đủ. Dù HĐTD ký kết
dưới hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ
trong quá trình giao dịch (Khoản 1 Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 11, 12,
13 Luật Giao dịch điện tử năm 2005). Và tại Điều 17 quy định về HĐTD tại Quyết
định 1627/2001/QĐ-NHNN ban hành về quy chế cho vay giữa TCTD đối với khách
hàng có hiệu lực ngày 01 tháng 02 năm 2002 cũng nêu rõ “Việc cho vay của TCTD và
khách hàng vay phải được lập thành HĐTD”. Thông qua những quy định trên cho thấy
HĐTD phải đáp ứng về quy định về hình thức là hợp đồng phải lập thành văn bản, đây
là một trong những điều kiện có hiệu lực của HĐTD.
Thường HĐTD là hợp đồng mẫu do các tổ chức tín dụng soạn thảo dựa trên
quy định của pháp luật và phù hợp với quy chế cho vay của ngân hàng. Các điều
khoản cụ thể trong HĐTD phải đảm bảo xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của bên
cho vay và bên đi vay. Khi các bên thỏa thuận cụ thể về quyền và nghĩa vụ của mình
trong hợp đồng thì các bên phải thực hiện đúng các điều mà mình đã cam kết. Nếu một
trong hai bên vi phạm cam kết gây thiệt hại cho bên kia, họ phải có trách nhiệm bồi
thường cho bên bị vi phạm. Như vậy, khi xảy ra tranh chấp thì HĐTD là cơ sở để quy
trách nhiệm cho các bên.

Thứ ba là, đối tượng của HĐTD là vốn tiền tệ.
Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam, vàng hoặc ngoại tệ. Đối
tượng này có thể tồn tại ở vật hiện hữu là tiền mặt hoặc bút tệ. Đây là đặc điểm rất
quan trọng trong quan hệ cho vay đối với ngân hàng. Chính đặc điểm này đã giúp cho
hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của TCTD và trở thanh một hình
thức tín dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Từ vốn tiền tệ, bên đi vay họ có
thể thỏa mãn bất kì nhu cầu nào của họ kể cả số lượng vốn vay và mục đích vay vốn.
Cũng cần lưu ý rằng, bên cho vay là công ty cho thuê tài chính nhưng đối tượng của nó
là tài sản thì đây chính là quan hệ cho thuê tài chính (chứ không phải là hoạt động cho

13


vay theo quy định của pháp luật) và các bên phải ký hợp đồng thuê mua tài chính. Như
vậy, yếu tố đối tượng vốn tiền tệ là một đặc điểm không thể thiếu được của HĐTD.
Thứ tư là, HĐTD luôn nhằm mục đích sinh lợi.
Tính chất sinh lợi của HĐTD luôn được biểu hiện qua tỷ số chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động vốn của TCTD. Lãi suất cho vay luôn cao hơn lãi
suất huy động vốn và sự chênh lệch này luôn phụ thuộc vào cung cầu về vốn trên thị
trường tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể, hiện nay mức lãi suất trong HĐTD ngân
hàng do các bên thỏa thuận. Ngân hàng hoạt động theo các quy định của Luật các tổ
chức tín dụng và các quy định của pháp luật có liên quan nên mục đích tìm kiếm lợi
nhuận không chỉ là điều tất yếu mà còn là động lực giúp TCTD duy trì hoạt động kinh
doanh của mình. Khách hàng càng nhiều, hợp đồng càng tăng thì lợi nhuận của TCTD
càng sinh sôi, phát triển. Vì vậy, vận mệnh của TCTD luôn gắn với khả năng tạo ra giá
trị thặng dư của đồng tiền thông qua việc huy động vốn và kí kết HĐTD. Trong trường
hợp này, trừ trường hợp các ngân hàng chính sách thực hiện hoạt động tín dụng vì mục
đích xã hội là chính.
Thứ năm là, HĐTD có độ rủi ro cao.
Tính rủi ro của HĐTD xuất phát từ đặc thù của nó, theo đó bên cho vay chỉ có

thể nhận lại được số tiền đã cho vay cùng lãi suất sau một khoảng thời gian nhất định,
thời gian càng dài thì độ rủi ro càng lớn.
Ngoài ra, nó còn thể hiện ở chỗ rủi ro của HĐTD mang tính dây chuyền. Việc
không thu hồi vốn vay của TCTD không chỉ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
ngân hàng mà còn cả lợi ích của người gửi tiền. Bởi lẽ, khác với các hợp đồng cho vay
thông thường, bên cho vay dùng tiền thuộc sở hữu của mình để cho vay thì trong
HĐTD các ngân hàng chủ yếu dùng tiền từ nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá
nhân. Do đó, nếu khoản cho vay không thu hồi được vốn, ngân hàng sẽ có nguy cơ
mất khả năng chi trả cho người gửi, đe dọa đến sự sống còn của ngân hàng, tác động
dây chuyền đến toàn bộ nền kinh tế.
Thứ sáu là, HĐTD là hợp đồng ưng thuận.
Thời điểm phát sinh hiệu lực pháp lý của hợp đồng là điểm mốc thời gian làm
phát sinh quyền đồng thời cũng là cơ sở để phân định nghĩa vụ của các bên khi có tiền
vay hoặc rủi ro xảy ra. Thông thường các bên trong HĐTD sẽ ghi rõ thời gian mà hợp
đồng có hiệu lực, trong trường hợp này nó là hợp đồng ưng thuận và chúng ta không
có gì để bàn luận về thời điểm phát sinh hiệu lực pháp lý của HĐTD ngân hàng.
HĐTD có thể được công chứng, chứng thực phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Trong HĐTD cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối ứng. Cụ thể là, TCTD có nghĩa
vụ giải ngân theo đúng thỏa thuận, được quyền giám sát việc sử dụng vốn vay của

14


khách hàng, quyền yêu cầu khách hàng trả tiền đúng thời hạn… Bên khách hàng có
quyền yêu cầu TCTD giải ngân như đã cam kết, có nghĩa vụ sử dụng vốn đúng mục
đích, hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn.
1.1.3. Phân loại hợp đồng tín dụng
Với tính cách là hình thức của quan hệ tín dụng, tương ứng với mỗi loại tín
dụng là một hình thức của HĐTD. Đối với HĐTD ngân hàng, tùy theo từng tiêu chí
mà HĐTD ngân hàng được chia thành nhiều loại khác nhau.

• Căn cứ vào thời hạn vay vốn có:
- HĐTD ngắn hạn: là loại hợp đồng được ký kết giữa TCTD và khách hàng mà có thời
hạn vay vốn dưới một năm.
- HĐTD trung hạn: là loại hợp đồng được ký kết giữa TCTD và khách hàng mà có thời
hạn vay vốn từ 12 tháng đến 60 tháng (khoản 2 Điều 8 Quyết định 1627/2001/QĐNHNN về quy chế cho vay).
- HĐTD dài hạn: là loại hợp đồng được ký kết giữa TCTD và khách hàng mà có thời
hạn vay vốn trên 60 tháng nhưng thời hạn này không được quá thời hạn hoạt dộng còn
lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân Việt Nam và
nước ngoài.
• Căn cứ vào mục đích vay vốn có:
- HĐTD có mục đích sản xuất kinh doanh, dịch vụ: là loại hợp đồng theo đó bên đi
vay vốn nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, dịch vụ và thường có giá trị lớn.
- Hợp đồng có mục đích tiêu dùng, học tập: là loại HĐTD trong đó vốn được vay
nhằm giải quyết các nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng hoặc mục đích học tập và thường có
giá tị nhỏ.
• Căn cứ vào mức độ đảm bảo khoản vay có:
- HĐTD có bảo đảm bằng tài sản: là loại hợp đồng mà trong đó các khoản vay được
đảm bảo bằng tài sản của bên đi vay hoặc tài sản của bên thứ ba trả nợ thay. Trên thực
tế thì phần lớn các hợp đồng tồn tại dưới dạng này bởi lẽ bảo toàn vốn vay là một
trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của TCTD.
- HĐTD không có bảo đảm bằng tài sản: là loại hợp dồng tín dụng mà trong đó các
khoản vay của khách hàng không được đảm bảo trả nợ bằng bất kỳ một tài sản nào
hoặc bất kỳ một sự bảo đảm trả nợ nào của bên thứ ba.
Với sự phát triển của nền kinh tế thì trường, với xu thế hội nhập quốc tế thì
HĐTD ngân hàng có thể sẽ còn được chia làm nhiều loại khác nhau. Do đó, sự phân
loại HĐTD ngân hàng trên chỉ mang tính tương đối.

15



1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung của pháp luật điều chỉnh HĐTD
1.2.1. Cơ sở pháp lý
• Ý nghĩa thực tiễn pháp luật điều chỉnh HĐTD
Ngân hàng được coi là một trong những đơn vị quan trọng nhất trong hệ thống
các tổ chức tín dụng, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta là thành viên của rất
nhiều các tổ chức kinh tế thế giới, yêu cầu cần thay đổi để bắt kịp với các nước trong
cùng khối cộng đồng là vô cùng quan trọng. Để làm được điều đó thì nguồn tài chính
của ta cần phải đủ mạnh, đáp ứng tốt nhu cầu của các thành phần kinh tế cũng như tiến
triển theo đúng định hướng của Nhà nước. Nền kinh tế không ngừng phát triển, các
khối doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ như trước đây hoạt động có phần không linh
hoạt theo xu hướng chung, tất yếu trở thành một gánh nặng cho toàn ngành. Vì thế mà
cổ phần hóa các tập đoàn Nhà nước, khuyến khích các tổ chức tư nhân hoạt động là
một trong số những phương án hữu hiệu mà Nhà nước ta đang thực hiện. Nhằm phối
hợp nhịp nhàng giữa nguồn cung và cầu vốn thì điều kiện cần là hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia cần được
hoàn thiện và thực sự là bước tạo đà cho các khối ngành trong nền kinh tế, đặc biệt là
các văn bản điều chỉnh những quan hệ của các tổ chức tín dụng, nhất là các Ngân hàng
thương mại cổ phần. Mọi hoạt động của tổ chức tín dụng đều có thể gây ra ảnh hưởng
tới toàn thể nền kinh tế-xã hội. Do đó mà quá trình quản lý các hoạt dộng tín dụng của
tổ chức đó được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm chú trọng. Việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo khối ngành có tầm ảnh hưởng tới toàn bộ ngành
kinh tế quốc dân được hoạt động theo đúng nguồn lực mà nó có, đồng thời định hướng
cho sự phát triển của chính các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, hoạt động của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam vẫn là một hoạt
động còn tương đối mới, thị trường còn rất nhiều tiềm năng. Để hỗ trợ, đảm bảo tính
công bằng, tăng tính cạnh tranh, tạo tính cạnh tranh cho ngành thì điều cần thiết là phải
có khung pháp lý đáp ứng đầy đủ các yêu cầu mà thực tiễn đang đặt ra. Không chỉ
dừng lại ở hiện tại hoạt động của khối ngành mũi nhọn trong nền kinh tế không ngừng
thay đổi và lớn mạnh đòi hỏi cần tiếp tục hoàn thiện những quy định của pháp luật để
ngành thực sự có được sự hỗ trợ tốt nhất trong tiến trình hội nhập và phát triển.

• Nguồn luật điều chỉnh HĐTD
HĐTD là một loại hợp đồng đặc thù không chỉ mang đặc trưng của hợp đồng
dân sự nói chung mà nội dung của nó còn phải phù hợp với những quy định về cho
vay tài sản. Những quy định của pháp luật điều chỉnh HĐTD được thể hiện cụ thể và
chi tiết trong các văn bản pháp luật sau:

16


Thứ nhất là, Bộ luật Dân sự 2015 được coi là luật gốc quy định các vấn đề
chung về hợp đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách
nhiệm. Trên cơ sở các quy định chung về hợp đồng trong BLDS năm 2015, tuỳ vào
tính chất đặc thù của các mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật chuyên ngành có thể
có những quy định riêng về hợp đồng để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực đó,
ví dụ như các quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá trong Luật thương mại, hợp
đồng bảo hiểm trong Luật kinh doanh bảo hiểm ...
Thứ hai là, Luật các TCTD năm 2010 quy định về việc thành lập, tổ chức, hoạt
động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể TCTD; việc thành lập, tổ chức, hoạt động
của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ
chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng.
Ngoài BLDS 2015 và Luật các TCTD 2010, các văn bản pháp luật hướng dẫn
thi hành HĐTD còn có:
- Nghị định 59/2009/NĐ-CP về Tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Nghị định 57/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 7 năm 2012 quy định về Chế độ tài chính
đối với TCTD, chi nhành ngân hàng nước ngoài.
- Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của
Công ty Quản lý tài sản của TCTD.
- Nghị định 59/2009/NĐ-CP về Tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Nghị định 57/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 7 năm 2012 quy định về Chế độ tài chính

đối với TCTD, chi nhành ngân hàng nước ngoài.
- Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của
Công ty Quản lý tài sản của TCTD.
1.2.2. Nội dung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín dụng
1.2.2.1. Nội dung pháp luật về giao kết hợp đồng tín dụng
Thứ nhất là, quy định của pháp luật về chủ thể của HĐTD
• Quyền và nghĩa vụ của bên nhận đề nghị giao kết HĐTD
Bên nhận đề nghị giao kết HĐTD luôn là TCTD, được thành lập và hoạt động
theo Luật các TCTD 2010 và các pháp luật liên quan, có chức năng hoạt động, kinh
doanh tín dụng, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Mức vốn pháp định của các
TCTD như sau:
- Ngân hàng thương mại, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương: 3000 tỷ đồng
- Ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách: 5000 tỷ đồng
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 15 triệu USD.
- Công ty tài chính: 500 tỷ đồng

17


- Công ty cho thuê tài chính: 150 tỷ đồng.
- Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở: 0,1 tỷ đồng.
(Văn bản hợp nhất số 07/VBHN-NHNN - Nghị định ban hành Danh mục mức vốn
pháp định đối với các TCTD thành lập và hoạt động tại Việt Nam của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam ban hành ngày 25/11/2013)
Bên nhận đề nghị giao kết có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng
minh dự án, phương án vay vốn khả thi, khả năng tài chính của mình và người bảo
lãnh trước khi quyết định cho vay; từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy
không đủ điều kiện vay vốn; dự án, phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù
hợp với quy định của pháp luật hoặc ngân hàng không có đủ nguồn vốn để cho vay;
kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng; chấm

dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá hạn khi phát hiện khách hàng
cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm HĐTD; khởi kiện khách hàng vi phạm HĐTD
hoặc khởi kiện bên thứ ba cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật; khi
đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì
ngân hàng có quyền bán tài sản bảo đảm tiền vay theo sự thoả thuận trong HĐTD và
hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người
thứ ba thực hiện nghĩa vụ cầm cố, thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay vốn; miễn,
giảm lãi tiền vay theo quy định của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ theo
quy định; mua bán nợ, đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
Bên nhận đề nghị giao kết HĐTD có nghĩa vụ giải ngân cho bên vay theo đúng
thoả thuận trong HĐTD; thực hiện đúng các thoả thuận trong HĐTD; lưu giữ hồ sơ tín
dụng phù hợp với quy định của pháp luật. Trong số các nghĩa vụ của bên cho vay, thì
nghĩa vụ giải ngân là quan trọng nhất. Nếu nghĩa vụ này không được thực hiện, thì sẽ
không phát sinh quyền và nghĩa vụ khác của hai bên.
• Quyền và nghĩa vụ của bên đề nghị giao kết HĐTD
Bên đề nghị giao kết (bên đi vay) bao gồm 3 nhóm khách hàng:
- Pháp nhân: doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn(01
thành viên; từ 02-50 thành viên), công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức khác.
- Cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân.
- Cả pháp nhân và cá nhân nước ngoài.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng (bên đi vay) phải thỏa mãn các điều kiện liên
quan đến năng lực chủ thể, mục đích sử dụng vốn vay, khả năng thanh toán khoản vay.
Về điều kiện năng lực chủ thể:

18


- Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam phải có năng lực pháp

luật dân sự; cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi dân sự; đại diện của hộ gia đình, tổ hợp tác, thành viên hợp danh của công
ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài: Năng lực pháp luật dân
sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có
quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ Luật Dân
sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt
Nam quy định hoặc được điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký
kết hoặc tham gia quy định.
Về điều kiện mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp:
Về nguyên tắc, bên vay vốn được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào,
nếu không bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, có những trường hợp không bị pháp luật cấm,
như việc vay vốn để trả nợ ngân hàng khác hoặc trả nợ chính ngân hàng vay, nhưng lại
rất khó được chấp nhận, vì nó được coi như một hoạt động đảo nợ. Trước đây, việc đảo
nợ bị cấm, sau đó được quy định trong Luật các TCTD 2010 là “Việc đảo nợ được
thực hiện theo quy định của Chính phủ” (khoản 2 Điều 95). Tuy nhiên từ năm 1997
đến nay, vẫn không có văn bản nào của Chính phủ hay NHNN giải thích về nội dung
này.
Đối với vay vốn dân sự hoặc thương mại thông thường, thì hầu như bên cho
vay không quan tâm đến mục đích sử dụng vốn vay, trong khi đối với HĐTD thì lại là
một trong điều kiện quan trọng nhất.
Trong cả thời hạn vay vốn, nếu bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích
đã thỏa thuận, thì ngân hàng lập tức được quyền chấm dứt hợp đồng, phạt vi phạm và
thu hồi nợ trước hạn. Đó luôn là quy định của pháp luật, cũng đồng thời là điều quan
tâm hàng đầu của các ngân hàng trong nghiệp vụ xét duyệt và quản lý các khoản vay.
Để bảo đảm được việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và việc trả nợ đúng hạn, ngân
hàng được quyền kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và trả nợ. Đây cũng là
điều hầu như không xuất hiện trong các hợp đồng vay vốn trong các quan hệ giữa cá
nhân và các doanh nghiệp.
Để bảo đảm việc sử dụng vốn vay đúng mục đích và khả năng trả nợ của bên

vay, Luật các TCTD 2010 quy định, ngân hàng có trách nhiệm và có quyền kiểm tra,
giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của bên vay (khoản 3 Điều 94).
Về điều kiện khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết:
- Cơ sở xác định khả năng tài chính: báo cáo tài chính có kiểm toán, vốn tự có...
- Trách nhiệm cung cấp các thông tin về tình hình và năng lực tài chính.

19


Bên đề nghị giao kết có quyền từ chối các yêu cầu của ngân hàng không đúng
với các thoả thuận trong HĐTD; khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm HĐTD của ngân
hàng theo quy định của pháp luật.
Bên đề nghị giao kết có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài
liệu liên quan đến việc vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp
pháp của các thông tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng; sử dụng tiền vay đúng mục
đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả thuận trong HĐTD và các cam kết khác với
ngân hàng; trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong HĐTD; chịu trách nhiệm
trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả thuận về việc trả nợ và thực hiện
các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong HĐTD. Trong số các nghĩa vụ của bên
vay, thì nghĩa vụ trả nợ là quan trọng nhất. Nghĩa vụ này chỉ được miễn trừ nếu bên
cho vay đồng ý, còn lại thì sẽ không bao giờ được miễn trừ, kể cả xảy ra tình trạng bất
khả kháng.
Thứ hai là, nguyên tắc giao kết hợp đồng gồm đề nghị giao kết HĐTD và chấp
nhận đề nghị giao kết HĐTD
Đầu tiên, đề nghị giao kết HĐTD là việc một bên biểu hiện ý chí của mình
trước người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với
người đó một HĐTD. Bên đề nghị phải đưa ra những điều khoản của hợp đồng một
cách cụ thể và rõ ràng. Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách
khác nhau. Người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị trao đổi,
thỏa thuận hoặc có thể thông qua điện thoại. Ngoài ra, đề nghị giao kết còn có hể được

thực hiện bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện. Bên đề nghị có thể
thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau:
- Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị
- Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều
kiện đó đã đến.
Ngoài ra, đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chấm dứt khi bên nhận được đề
nghị trả lời không chấp nhận hoặc chậm trả lời chấp nhận
Tiếp theo, chấp nhận đề nghị giao kết HĐTD là việc bên được đề nghị nhận lời
đề nghị và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với người đã đề nghị. Về nguyên
tắc, bên được đề nghị phải trả lời ngay về việc có giao kết hợp đồng hay không. Trong
những trường hợp, cần phải có thời gian để bên được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ mà
các bên đã ấn định thời hạn trả lời thì bên được đề nghị phải trả lời trong thời hạn đó.
Nếu sau thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về vệc chấp nhận giao kết hợp
đồng thì lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên chậm trả lời. Nếu
việc trả lời được chuyển qua đường bưu điện thì ngày gửi đi theo dấu của bưu điện

20


được coi là thời điểm trả lời. Căn cứ vào thời điểm đó để bên đã đề nghị xác định việc
trả lời có chậm hay không so với thời hạn đã ấn định. Người được đề nghị có thể chấp
nhận toàn bộ nội dung đề nghị, cũng có thể chỉ chấp nhận một phần trong nội dung đó
hoặc có thể chỉ chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà
bên đề nghị đưa ra. Nghĩa là trong những trường hợp này, người được đề nghị muốn
sửa đổi hoặc thay đổi nội dung mà người đề nghị đưa ra. Vì vậy, họ sẽ trở thành người
đề nghị mới và người đã đề nghị trước đó lại trở thành người được đề nghị. Người đề
nghị mới cũng chịu sự ràng buộc của mình về những nội dung đã đề nghị. Sự hoán vị
này có thể xảy ra nhiều lần cho đến khi nào các bên thống nhất thỏa thuận được với
nhau toàn bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi đến chính thức giao kết HĐTD.
1.2.2.2. Nội dung pháp luật về thực hiện HĐTD

• Về thực hiện lãi suất trong HĐTD
Lãi suất trong HĐTD là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã
vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do
các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Lãi suất được áp dụng trong HĐTD theo hai phương thức cơ bản là lãi suất cố
định và lãi suất thay đổi (hay còn được gọi là lãi suất thả nổi). Nếu các bên thoả thuận
áp dụng lãi suất cố định, thì lãi suất sẽ không thay đổi trong suốt thời hạn vay, bất kể
lãi suất thị trường có tăng lên hay giảm xuống. Nếu các bên thoả thuận áp dụng lãi suất
thay đổi thì sẽ điều chỉnh lãi suất lên, xuống dựa vào lãi suất thị trường. Tuy nhiên với
tình hình nền kinh tế lạm phát như hiện nay, chỉ số tiều dùng thường lên xuống thất
thường, lãi suất ngân hàng thường bị động trước những biến đổi ấy. Vì vậy, hầu hết
các TCTD đều áp dụng quy định một lãi suất biến đổi theo từng thời kỳ. Trong thời
gian vừa qua, trước sự phát triển nhanh của nền kinh tế, nhu cầu vốn cũng theo đó mà
càng tăng lên. Các TCTD thường tiến hành hàng loạt các biện pháp để thu hút vốn. Từ
đó diễn ra cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động vốn giữa các TCTD, đặc biệt là giữa
các ngân hàng thương mại.
BLDS 2015 quy định lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được
vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay (khoản 1 Điều 468). Trường hợp ngân hàng cho
vay từ trên 20%/năm lãi suất cơ bản của khoản là vi phạm điều cấm của pháp luật. Nếu
tranh chấp đưa ra Toà án xét xử, thì phần lãi suất vượt quá 20%/năm lãi suất cơ bản sẽ
không được công nhận. Ngoài ra, thì chưa có chế tài xử lý đối với loại vi phạm này.
Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10-12-2004 của Chính phủ về Xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng không có quy định về việc
xử phát đối với việc cho vay vượt quá trần lãi suất.

21


• Về thực hiện HĐTD khi có thỏa thuận phạt vi phạm


Vi phạm HĐTD là hành vi của một bên hoặc cả hai bên tham gia hợp đồng cố ý
hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa mãn các điều
kiện:
- Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD.
- Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.
- Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.
- Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền và lợi
ích chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác
Qua đó có thể hiểu là vi phạm HĐTD chỉ được đạt ra khi các bên có sự thỏa
thuận. Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp lý
phát sinh khi có việc vi phạm HĐTD:
- Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp đồng nên
không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách nhiệm này do các
bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có thiệt hại
vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền bồi thường
thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ quan tài phán có
thẩm quyền.
• Về thực hiện HĐTD trong trường hợp có bảo đảm tiền vay
Hiện nay có các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp bằng tài sản của
khách hàng vay hoặc bằng tài sản của bên thứ ba, đặt cọc, ký cược, kỹ quỹ, tín chấp.
Trong đó, cầm cố, thế chấp là biện pháp hay được áp dụng. Các ngân hàng thường
muốn doanh nghiệp vay vốn dùng chính tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
mình để bảo đảm cho khoản vay của doanh nghiệp tại ngân hàng. Các tài sản này phải
thoả mãn những điều kiện nhất định như phải có tính thanh khoản, pháp luật cho phép
chuyển nhượng, thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm và thường không bị
tranh chấp khi đưa ra làm bảo đảm. Đối với cầm cố, bên bảo đảm phải chuyển giao tài
sản cho ngân hàng cho vay, đối với thế chấp bên bảo đảm chỉ chuyển giao các giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu tài sản đó. Tuy nhiên, trên thực tế một số tài sản chỉ có thể là
đối tượng của thế chấp như: nhà, đất đai, tàu biển, tàu đánh cá, tàu bay, một số tài sản

chỉ có thể là đối tượng của cầm cố như thẻ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, giấy tờ có
giá khác.
Trong số các điều kiện đối với tài sản bảo đảm, đặc biệt cần lưu ý khách hàng
phải có quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản đó. Đối với tài sản có giá trị lớn, có thể
đưa ra bảo đảm cho nhiều khoản vay ở các ngân hàng khác nhau, tuy nhiên trong

22


trường hợp này, các bên nhận bảo đảm (các TCTD) phải đăng ký giao dịch bảo đảm và
phải cử ra một TCTD làm đầu mối giữ các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản
bảo đảm nói trên.
• Về xử lý tài sản bảo đảm
Hiện nay có hai phương thức xử lý tài sản bảo đảm sau: do các bên thoả thuận
và bán đấu giá. Việc thoả thuận của các bên cũng có thể xảy ra theo các cách thức (tự
bán, hoặc uỷ quyền cho người thứ ba bán), bên bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm,
bên bảo đảm nhận tiền hoặc tài sản (trường hợp thế chấp quyền đòi nợ); phương thức
khác do các bên thỏa thuận. Vấn đề là sự thoả thuận của các bên được xác định tại thời
điểm nào: thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm hay thời điểm xử lý tài sản bảo đảm?
Trường hợp một tài sản dùng để bảo đảm nhiều nghĩa vụ trả nợ và phương thức xử lý
tài sản được thoả thuận khác nhau thì vấn đề lại trở nên phức tạp.
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay bảo hoặc
bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Điều kiện của tài sản dụng để bảo đảm này là: tài
sản phải thuộc sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý của khách hàng vay, bên bảo lãnh
và tài sản phải được phép giao dịch.
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay: Tài sản hình thành từ
vốn vay được hiển là tài sản của khách hàng vay mà giá trị tài sản được tạo nên bởi
một phần hoặc toàn bộ khoản vay của TCTD. Tức là tài sản này sẽ được hình thành
trong tương lai, theo đó tài sản này thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa
vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết.

1.3. Nguyên tắc của pháp luật điều chỉnh HĐTD
1.3.1. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo
đức xã hội
Nguyên tắc này biểu hiện rõ ràng quyền tự do dân chủ mà nhà nước trao cho
công dân. Pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận của các chủ thể, đồng thời nâng cao
ý thức của người dân trong bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế
còn tồn tại nhiều trường hợp vì lợi nhuận mà các TCTD “lách luật” đồng ý cho vay đối
với các doanh nghiệp không thỏa mãn các điều kiện vay vốn (Các điều kiện quy định
tại điều 7 Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng).
1.3.2. Nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng
Có thể nói các nguyên tắc trên đã phản ánh đúng đắn bản chất quan hệ hợp
đồng trong cơ chế thị trường, trong đó là các quan hệ tự nguyện, có sự thỏa thuận về ý
chí trong trao đổi hàng hóa, dịch vụ xuất phát từ nhu cầu nội tại của các chủ thể tham
gia thị trường. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của các nguyên tắc này dường như không
được bảo đảm trong hoạt động vay vốn hiện nay. Với bối cảnh nền kinh tế phát triển

23


“quá nóng”, biến động thất thường, lợi dụng tình trạng nhu cầu vốn của cá doanh
nghiệp lớn, các TCTD thường cho vay vốn lãi suất cao hơn quy định đến 3 – 4%. Để
hợp thức hóa phần chênh lệch này, các TCTD quy định hàng loạt các loại phí như: phí
quản lý tài sản bảo đảm, phí kiểm tra tài sản, phí quản lý hạn mức.... Hiện nay chưa có
văn bản quy phạm pháp luật nào cấm việc thu phí của các TCTD, mà chỉ có các công
văn nhắc nhở của ngân hàng nhà nước trong những thời kỳ phải thực hiện đúng trần
lãi suất cho vay. Dù được coi là phí nhưng đó là chi phí liên quan đến khoản vay làm
gia tăng lãi suất. Nếu không vay thì không có vốn sản xuất kinh doanh, vay thì doanh
nghiệp phải chịu chi phí đội lên mà không thể hạch toán để tính thuế. Như vậy, ý nghĩa
ban đầu của nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng đã không còn nguyên vẹn.
1.3.3. Nguyên tắc thực hiện đúng và thực hiện trên tinh thần hợp tác, có lợi nhất

cho các bên.
Nguyên tắc này đòi hỏi các bên phải chấp hành đúng, đầy đủ và trung thực các
điều khoản đã cam kết trong HĐTD; đồng thời cho phép mỗi bên có quyền yêu cầu
bên kia thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của họ. Các bên phải thực hiện đầy đủ các nghĩa
vụ phát sinh từ quan hệ HĐTD. Nó đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ với nhau
trong quá trình thực hiện nghĩa vụ. Các bên hợp tác với nhau để tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau để thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh những điều khoản của HĐTD, để đáp ứng
nhu cầu và bảo đảm lợi ích cho các bên trong quan hệ nghĩa vụ. Nếu thấy HĐTD có
thể bị vi phạm phải kịp thời thông báo cho nhau biết để hạn chế thiệt hại có thể xảy ra
hoặc khi đã có vi phạm hợp đồng, phải tìm mọi cách để hạn chế thiệt hại. Nếu bên nào
có điều kiện mà không thực hiện các biện pháp ngăn chặn sẽ bị coi là có lỗi và phải
gánh chịu thiệt hại.
1.3.4. Nguyên tắc đảm bảo sự an toàn cho vốn vay cho tổ chức tín dụng
Khi tham gia quan hệ hợp đồng các bên phải trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản
với nhau. Các bên có thể dùng tài sản của mình để cầm cố, thế chấp hoặc nhờ nguời
khác bảo lãnh bằng tài sản để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng. Nguyên tắc này có ý
nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo lợi ích kinh tế của các bên trong quan hệ hợp
đồng.
Vốn vay phải luôn được giá trị vật tư, hàng hóa tương đương làm bảo đảm dựa
trên cơ sở yêu cầu của quy luật lưu thông và trong phạm vi của cả nền kinh tế trong
từng thời điểm cụ thể, khối luợng tiền tệ trong lưu thông phải tương ứng với giá trị
khối lựợng hàng hóa trong lưu thông. Nó đòi hỏi khi vay vốn tổ chức tín dụng, phải có
một khối luợng vật tư, hàng hóa tương đương thuộc sở hữu của khách hàng để làm bảo
đảm bảo cho vốn vay. Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo sử dụng

24


vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong HĐTD tránh tình trạng đầu tư sai mục
đích, thất thoát và lãng phí vốn.

Trong nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Họ vừa hợp tác với
nhau, vừa cạnh tranh. Hoạt động trong môi trường vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt đó,
tất yếu xảy ra hiện tượng là có nhiều doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, phát triển
mạnh, đồng thời cũng sẽ có những doanh nghiệp bị thua lỗ dẫn tới phá sản. Để thực
hiện nguyên tắc tránh rủi ro, ngân hàng phải nghiên cứu kỹ hồ sơ khách hàng vay vốn,
bao gồm khả năng tài chính, tình hình sản xuất- kinh doanh để hạn chế đến mức tối
thiểu mọi rủi ro đối với các nguồn vốn cho vay. Do kinh doanh tín dụng là một trong
những hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro nhất vì vậy để phòng ngừa và hạn chế
rủi ro, hoạt động tín dụng phải thực hiện nguyên tắc tránh rủi ro.
1.3.5. Nguyên tắc kiểm soát cơ chế lạm dụng, đảm bảo lợi ích cho bên yếu thế
Thực hiện vai trò trung gian của mình, TCTD vừa là người đi vay, vừa là người
cho vay. Với tư cách là người đi vay, TCTD tham gia vào các quan hệ pháp luật với
những người cho vay. TCTD có trách nhiệm trả tiền cho người gửi. Với tư cách là
người cho vay, TCTD là người có quyền quyết định cho người khác vay và yêu cầu
người đi vay hoàn trả cả tiền gốc và tiền lãi. Ở loại quan hệ này, TCTD thực hiện các
hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, vừa phải bảo đảm thu đủ tiền gốc đã cho vay vừa
phải bảo đảm thu đủ tiền lãi vay. Đây là nguyên tắc áp dụng cho cả ngân hàng và
người đi vay. Nguyên tắc này vừa là cơ sở để tổ chức tín dụng tiến hành hoạt động
kinh doanh vừa là cơ sở để các doanh nghiệp tiến hành hạch toán kinh tế trong hoạt
động của mình. Nguyên tắc này buộc TCTD và các doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả hơn trong cơ chế khắc nghiệt của thị trường. Việc thực hiện nguyên tắc này tạo
cho tổ chức tín dụng thu hồi được vốn cho vay và lợi nhuận; nguyên tắc này buộc
người đi vay phải cân nhắc và hạch toán nguồn vốn vay ra sao cho việc sử dụng nguồn
vốn đó thực sự có hiệu quả, đáp ứng được mục đích vay vốn.

25



×